Tất cả các cách đặt vé tàu cao tốc Hà Tiên Phú Quốc chính xác nhất

Khoảng cách giữa Hà Tiên và Phú Quốc khoảng 45km và sẽ mất khoảng 1 giờ 15 phút đi bằng tàu cao tốc, trong bài viết này chúng tôi sẽ các cách đặt vé tàu cao tốc Hà Tiên Phú Quốc chính xác nhất hiện nay.

Đều là hai thành phố trực thuộc tỉnh Kiên Giang, Hà Tiên và Phú Quốc gần như có nhiệt độ, thời tiết tương tự nhất, đều có 02 mùa mưa và nắng. Thời gian tốt nhất để đi du lịch Phú Quốc Hà Tiên là vào mùa là mùa khô. Tức là từ cuối tháng 10 đương lịch đến tận tháng 4 năm sau, ngoài ra còn có thể kéo dài đến tháng 6 nếu thời tiết thuận lợi. Riêng tuyến đường biển giữa 2 địa phương này được so sánh là êm nhất cả nước do nằm trong vịnh nên việc đi tàu cao tốc vô cùng êm ái và không có cảm giác say sóng.

Hiện nay có rất nhiều hãng tàu, phà đang hoạt động trên tuyến này gồm: Phú Quốc Express, Superdong, Bình An, Thạnh Thới… tuy nhiên, trong nội dung bài này chúng tôi chỉ tập trung vào 02 hãng tàu cao tốc lớn nhất Việt Nam này đang cạnh tranh trên tuyến Hà Tiên Phú Quốc với đội tàu hiện đại, đồng bộ.

Phú Quốc Express Hà Tiên Phú Quốc

Đội tàu cao tốc Phú Quốc Express chạy tuyến Hà Tiên Phú Quốc đều được thiết kế theo tiêu chuẩn châu Âu, trang bị máy RollRoyce MTU thân thiện với môi trường, tốc độ tàu tối ưu lên tới 30 hải lý một giờ, sức chở gần 300 khách. Tàu Phú Quốc Express mang đến cho hành khách những chuyến hải trình êm ái, an toàn trong một không gian sang trọng và tiện nghi cùng dịch vụ đẳng cấp 5 sao với giá thành hợp lý.

Với thông điệp “Kết nối non sông Việt”, Phú Quốc Express cam kết mang đến những chuyến hải trình êm ái, an toàn, đẳng cấp với dịch vụ tốt nhất. Tàu Phú Quốc Express hai thân của Phú Quốc Express của Ba Lan thiết kế và đóng mới tại Công ty 189 (Bộ Quốc Phòng) với các thông số kỹ thuật: chiều dài 32,68m, chiều rộng lớn nhất 9,6m, chiều cao mạng 2,8m, chiều chìm 1,3m, lượng chiếm nước 99 tấn. Hệ thống động lực gồm 2 máy với tổng công suất 1.816 mã lực, toàn bộ kết cấu vững chắc với phần thân vỏ và cabin được làm bằng hợp kim nhôm cao cấp chuyên dùng cho tàu biển.

Phú Quốc Express Hà Tiên Phú Quốc

Đặc biệt, tàu có hệ thống điều khiển hiện đại với các thiết bị hàng hải tiến tiến và đồng bộ. Ngoài ra thân tàu rộng rãi, ít tiếng ồn, kiểu dáng đẹp và thiết kế theo công nghệ châu Âu.

Giá vé tàu cao tốc Hà Tiên Phú Quốc của Phú Quốc Express: Vé tiêu chuẩn ECO là 250.000 VND/lượt, Vé VIP là 350.000 VND/lượt. Đối với trẻ em dưới 6 tuổi miễn phí khi ngồi cùng người lớn. Trẻ em/Người cao tuổi/Người khuyết tật: 80% giá vé phổ thông. (Trẻ em: từ 6-12 tuổi và Người cao tuổi: trên 60 tuổi).

Lịch chạy tàu cao tốc Hà Tiên Phú Quốc và ngược lại sẽ được taucaotoc.vn cập nhật định kỳ hằng tháng tại chuyên mục: https://taucaotoc.vn/lich-chay-tau/ha-tien-phu-quoc/. Chủ yếu vào các mốc giờ sau: Hà Tiên đi Phú Quốc vào lúc: 6:00, 7:45 , 9:45 , 11:45 , 13:45, 15:30 và Phú Quốc về Hà Tiên vào lúc: 6:00, 8:00, 9:45, 11:45, 13:45, 15:30.

Để đặt vé tàu cao tốc Hà Tiên Phú Quốc quý hành khách vui lòng liên hệ các số điện thoại: 0889211234 – 0889271234 -0889371234, hỗ trợ đặt vé qua ZALO, Điện thoại, Facebook, email… và nhiều hình thức khác qua Đại lý vé tàu cao tốc Phú Quốc miễn sao là thuận lợi nhất cho hành khách.

Superdong Hà Tiên Phú Quốc

Superdong là một trong những hãng tàu tiên phong trên tuyến Hà Tiên đi Phú Quốc với đội tàu gồm 4 con thường xuyên hoạt động gồm: Supperdong VI-VII-VIII-IX với 275 Hành khách đạt vận tốc 26 – 28 hải lý/giờ chạy từ Hà Tiên đi Phú Quốc trong 1 giờ 45 phút. Điểm thu hút khách riêng của hãng tàu này là có xe trung chuyển từ cảng Bến Vòng đi thị trấn Dương Đông nếu khách đi từ Hà Tiên với giá vé 30.000 đồng/lượt trung chuyển, hành khách có thể đặt trước qua điện thoại hoặc phòng vé tại bến và tàu viên.

Giờ khởi hành tại bến tàu Hà Tiên đi Phú Quốc thường rơi vào các mốc 07:45, 09:40, 13:15 và từ Phú Quốc về Hà Tiên vào lúc 08:00, 09:35, 13:00. Vào các dịp cao điểm như ngày lễ hay Tết thì hãng tàu sẽ tăng cường thêm các tuyến để phục vụ nhu cầu đi lại của khách du lịch.

Tàu superdong Hà Tiên Phú Quốc

Ngoài tàu cao tốc, Superdong còn có 02 phà cao tốc đưa/đón khách và các phương tiện vận tải từ bờ ra đảo Phú Quốc và ngược lại, Phà Superdong có sức chứa 229 hành khách; 150 xe máy; 40 xe ô tô 4 chỗ hoặc 25 xe ô tô 7 chỗ hoặc 11 xe tải 13 tấn và nhiều hàng hóa.

Giá vé tàu Superdong Hà Tiên Phú Quốc: người lớn 230,000 VND/lượt, trẻ em 160,000 VND/lượt, người cao tuổi 195,000 VND/lượt và người khuyết tật 170,000 VND/lượt.

Những điều cần lưu ý khi đi tàu Hà Tiên Phú Quốc

  1. Đối với hành khách mang xe máy ra Phú Quốc phải đăng ký biển số trước khi đặt vé để đảm bảo đi cùng xe vì mỗi tàu chỉ chở được từ 10 – 30 chiếc xe máy/chuyến hành trình.
  2. Luôn mang theo giấy tờ tùy thân khi đi tàu: Căn cước công dân, CMND, giấy phép lái xe hay passport* (*bắt buộc đối với người quốc tịch nước ngoài).
  3. Số lượng khách đến với Phú Quốc những ngày cao điểm, lễ tết khá đông nên bạn cần đặt vé trước để tránh tình trạng hết vé.
  4. Nên có mặt 45 phút trước giờ tàu chạy.
  5. Sẽ tiết kiệm chi phí đi lại hơn nếu bạn sử dụng xa bus của hãng tàu để di chuyển từ trung tâm đến bến tàu, giá mỗi vé khoảng 30,000Đ
  6. Thời gian tàu chạy phụ thuộc vào điều kiện thời tiết. Hãng tàu được phép đổi chuyến, đổi tàu, lịch biểu phục vụ mà không chịu trách nhiệm bồi thường.
  7. Trong suốt chuyến đi thì du khách vui lòng giữ vé để nhân viên tàu kiểm soát.
  8. Đối với những hành lý có số kg vượt quá so với qui định, không được mang hành lý có mùi, rõ nước, bẩn lên tàu. Còn với hành lí xách tay và tư trang của du khách vui lòng tự cất giữ.
  9. Đặc biệt, không được mang những hàng cấm như chất nổ, chất gây cháy, hóa chất, ma túy lên trên tàu. Nếu phát hiện sẽ bị phạt theo quy định.
  10. Nghiêm cấm không ra khỏi khoang tàu. Nếu ai vi phạm thì công ty tàu sẽ không chịu trách nhiệm trong trường hợp xảy ra tai nạn.

5/5 - (3 bình chọn)

Lịch bay trực thăng Vũng Tàu – Côn Đảo năm 2021

Trong năm 2021, Công ty bay trực thăng Miền Nam tiếp tục duy trì mỗi tuần 02 chuyến khứ hồi Vũng Tàu – Côn Đảo – Vũng Tàu vào Thứ Sáu và Chủ Nhật hằng tuần.

Vũng Tàu: Khởi hành tại sân bay Vũng Tàu (38 đường 30/4, TP Vũng Tàu)

  • Thủ tục (check in): 12h00
  • Khởi hành (ETD): 13h30

Côn Đảo: Khởi hành tại sân bay Côn Sơn (huyện Côn Đảo)

  • Thủ tục (check in): 14h00
  • Khởi hành (ETD): 15h00

GIÁ VÉ đã bao gồm thuế VAT:

  • 2.200.000 đồng/lượt/khách người lớn – Khứ hồi: 4.400.000 đồng.
  • 1.980.000 đồng/lượt/khách trẻ em (từ 2 đến dưới 12 tuổi, dưới 2 tuổi miễn phí) – Khứ hồi: 3.960.000 đồng.

ĐẶT VÉ: 088 927 1234 – 091524145 – 0889371234

Dự kiến lịch bay trực thăng Vũng Tàu – Côn Đảo năm 2021 như sau:

Lịch bay trực thăng tháng 1/2021

  • Thứ Sáu ngày 1/1/2021, Chủ Nhật ngày 3/1/2021
  • Thứ Sáu ngày 8/1/2021, Chủ Nhật ngày 10/1/2021
  • Thứ Sáu ngày 15/1/2021, Chủ Nhật ngày 17/1/2021
  • Thứ Sáu ngày 22/1/2021, Chủ Nhật ngày 24/1/2021
  • Thứ Sáu ngày 29/1/2021, Chủ Nhật ngày 31/1/2021

Lịch bay trực thăng tháng 2/2021

  • Thứ Sáu ngày 5/2/2021, Chủ Nhật ngày 7/2/2021
  • Thứ Sáu ngày 12/2/2021, Chủ Nhật ngày 14/2/2021
  • Thứ Sáu ngày 19/2/2021, Chủ Nhật ngày 21/2/2021
  • Thứ Sáu ngày 26/2/2021, Chủ Nhật ngày 28/2/2021

Lịch bay trực thăng tháng 3/2021

  • Thứ Sáu ngày 5/3/2021, Chủ Nhật ngày 7/3/2021
  • Thứ Sáu ngày 12/3/2021, Chủ Nhật ngày 14/3/2021
  • Thứ Sáu ngày 19/3/2021, Chủ Nhật ngày 21/3/2021
  • Thứ Sáu ngày 26/3/2021, Chủ Nhật ngày 28/3/2021

Lịch bay trực thăng tháng 4/2021

  • Thứ Sáu ngày 2/4/2021, Chủ Nhật ngày 4/4/2021
  • Thứ Sáu ngày 9/4/2021, Chủ Nhật ngày 11/4/2021
  • Thứ Sáu ngày 16/4/2021, Chủ Nhật ngày 18/4/2021
  • Thứ Sáu ngày 23/4/2021, Chủ Nhật ngày 25/4/2021
  • Thứ Sáu ngày 30/4/2021

Lịch bay trực thăng tháng 5/2021

  • Chủ Nhật ngày 2/5/2021
  • Thứ Sáu ngày 7/5/2021, Chủ Nhật ngày 9/5/2021
  • Thứ Sáu ngày 14/5/2021, Chủ Nhật ngày 16/5/2021
  • Thứ Sáu ngày 21/5/2021, Chủ Nhật ngày 23/5/2021
  • Thứ Sáu ngày 28/5/2021, Chủ Nhật ngày 30/5/2021

Lịch bay trực thăng tháng 6/2021

  • Thứ Sáu ngày 4/6/2021, Chủ Nhật ngày 6/6/2021
  • Thứ Sáu ngày 11/6/2021, Chủ Nhật ngày 13/6/2021
  • Thứ Sáu ngày 18/6/2021, Chủ Nhật ngày 20/6/2021
  • Thứ Sáu ngày 25/6/2021, Chủ Nhật ngày 27/6/2021

Lịch bay trực thăng tháng 7/2021

  • Thứ Sáu ngày 2/7/2021, Chủ Nhật ngày 4/7/2021
  • Thứ Sáu ngày 9/7/2021, Chủ Nhật ngày 11/7/2021
  • Thứ Sáu ngày 16/7/2021, Chủ Nhật ngày 18/7/2021
  • Thứ Sáu ngày 23/7/2021, Chủ Nhật ngày 25/7/2021
  • Thứ Sáu ngày 30/7/2021

Lịch bay trực thăng tháng 8/2021

  • Chủ Nhật ngày 1/8/2021
  • Thứ Sáu ngày 6/8/2021, Chủ Nhật ngày 8/8/2021
  • Thứ Sáu ngày 13/8/2021, Chủ Nhật ngày 15/8/2021
  • Thứ Sáu ngày 20/8/2021, Chủ Nhật ngày 22/8/2021
  • Thứ Sáu ngày 27/8/2021, Chủ Nhật ngày 29/8/2021

Lịch bay trực thăng tháng 9/2021

  • Thứ Sáu ngày 3/9/2021, Chủ Nhật ngày 5/9/2021
  • Thứ Sáu ngày 10/9/2021, Chủ Nhật ngày 12/9/2021
  • Thứ Sáu ngày 17/9/2021, Chủ Nhật ngày 19/9/2021
  • Thứ Sáu ngày 24/9/2021, Chủ Nhật ngày 26/9/2021

Lịch bay trực thăng tháng 10/2021

  • Thứ Sáu ngày 1/10/2021, Chủ Nhật ngày 3/10/2021
  • Thứ Sáu ngày 8/10/2021, Chủ Nhật ngày 10/10/2021
  • Thứ Sáu ngày 15/10/2021, Chủ Nhật ngày 17/10/2021
  • Thứ Sáu ngày 22/10/2021, Chủ Nhật ngày 24/10/2021
  • Thứ Sáu ngày 29/10/2021, Chủ Nhật ngày 31/10/2021

Lịch bay trực thăng tháng 11/2021

  • Thứ Sáu ngày 5/11/2021, Chủ Nhật ngày 7/11/2021
  • Thứ Sáu ngày 12/11/2021, Chủ Nhật ngày 14/11/2021
  • Thứ Sáu ngày 19/11/2021, Chủ Nhật ngày 21/11/2021
  • Thứ Sáu ngày 26/11/2021, Chủ Nhật ngày 28/11/2021

Lịch bay trực thăng tháng 12/2021

  • Thứ Sáu ngày 3/12/2021, Chủ Nhật ngày 5/12/2021
  • Thứ Sáu ngày 10/12/2021, Chủ Nhật ngày 12/12/2021
  • Thứ Sáu ngày 17/12/2021, Chủ Nhật ngày 19/12/2021
  • Thứ Sáu ngày 24/12/2021, Chủ Nhật ngày 26/12/2021
Trực thăng Vũng Tàu – Côn Đảo

Nguồn: Tructhang.vn

Ảnh: Phạm Bảo Anh

5/5 - (6 bình chọn)

Danh sách các di tích lịch sử – văn hoá trên đảo Phú Quý

Huyện đảo Phú Quý có bề dày lịch sử và truyền thống văn hóa lâu đời. Với 35 di tích lịch sử – văn hóa đủ mọi loại hình và niên đại trải đều trên một diện tích tự nhiên gần 17,82 km2 của đảo là một bằng chứng lịch sử sinh động chứng minh cho quá trình khai phá và xây dựng đảo của các bậc tiền nhân. Các di tích đó còn nói lên sức sống mãnh liệt của nhân dân qua hàng trăm năm giữa biển khơi, làm rạng rỡ nguồn gốc con người Phú Quý nơi hải đảo xa xôi. Với 35 di tích tôn giáo, tín ngưỡng trong đó có 3 di tích lịch sử – văn hoá cấp Quốc gia và 7 di tích lịch sử – văn hoá cấp tỉnh. Xin được giới thiệu khái quát các di tích lịch sử – văn hoá đã được các cấp công nhận trên đảo Phú Quý để nhân dân, học sinh, sinh viên và du khách tìm hiểu, tham quan những di tích đặc sắc, đậm nét sắc thái vùng biển đảo

Di tích lịch sử – Văn hoá cấp Quốc gia Thắng cảnh Linh Quang Tự

Từ khi tạo dựng đến nay, người dân trên đảo gọi tên chùa là “Linh Quang Tự” nhằm cầu mong hào quang, ánh sáng của chùa luôn linh hiển soi sáng để cứu độ dân chúng trên đảo có cuộc sống an bình và hạnh phúc. Linh Quang Tự là ngôi chùa khởi đầu gắn liền với sự truyền bá ánh sáng Phật Giáo ở Phú Quý. Không chỉ là một nơi có quang cảnh đẹp, mà Linh Quang Tự là ngôi chùa tiêu biểu trên các lĩnh vực lịch sử, văn học, nghệ thuật so với các ngôi chùa khác ở trên đảo.

Chùa Linh Quang Phú Quý

Linh Quang Tự là ngôi chùa cổ nổi tiếng về qui mô cũng như nghệ thuật kiến trúc, tôn giáo, lễ nghi, có những cảnh trí thiên nhiên đa dạng xứng đáng là danh lam thắng cảnh của đảo Phú Quý. Nếu tính niên đại chính thức của ngôi chùa theo gia phả để lại thì chùa được kiến tạo, tu bổ lại vào năm Đinh Mão 1747 đời Vua Lê Hiển Tông – niên hiệu Cảnh Hưng thứ 8. Đến nay (2017) ngôi chùa đã có niên đại 270 năm và cũng đến nay đây là một trong những ngôi chùa có niên đại sớm nhất ở Bình Thuận. Với những giá trị và ý nghĩa tiêu biểu đó, chùa Linh Quang được Bộ Văn hóa Thông tin xếp hạng thắng cảnh cấp Quốc gia tại Quyết định số 51 QĐ/BT ngày 12/01/1996.

Di tích lịch sử – Văn hoá cấp Quốc gia Vạn An Thạnh

Vạn An Thạnh tọa lạc trên một bãi cát trắng sát cạnh bờ biển thuộc Thôn Triều Dương, xã Tam Thanh. Tên gọi Vạn An Thạnh nói lên ước nguyện có một cuộc sống an khang, thịnh vượng của bà con ngư dân nơi đây. Vạn thờ cá Ông cùng thờ Thành hoàng bổn xứ và Tiền hiền, Hậu hiền. Vạn An Thạnh được tạo dựng vào năm Tân Sửu (1781), là Vạn có niên đại sớm nhất so với các Vạn khác ở Phú Quý. Tại Vạn còn lưu giữ bộ xương cá Nhà Táng thuộc họ cá Voi, bộ xương có chiều dài trên 17m, có 50 đốt xương, cá có 30 đôi răng mọc ở hàm dưới (tương truyền lúc cá mới dạt vào bờ nặng khoảng 40 tấn), bộ xương đã được phục dựng và hiện đang trưng bày tại nhà trưng bày xương Cá Voi trong khuôn viên của Vạn.

Vạn An Thạnh

Ngoài những giá trị văn hóa dân gian truyền thống Vạn An Thạnh là một Bảo tàng văn hóa biển tồn tại đã 236 năm (tính đến năm 2017), với nhiều sưu tập những chủng loại cá voi và rùa da. Có thể xếp vào hạng các Bảo tàng về biển có niên đại cổ xưa trên thế giới. Trong những năm gần đây nhiều nhà nghiên cứu về Hải dương học, những đoàn khách du lịch nước ngoài đến đảo đã rất thích thú về việc bảo quản, giữ gìn di vật trong Vạn An Thạnh. Vạn An Thạnh như một chứng nhân bao đời của lịch sử vùng đảo. Những giá trị về lịch sử, văn hóa, nghệ thuật và văn học dân gian sẽ được kế thừa tiếp tục phát triển những điểm tốt, hạn chế và loại bỏ dần những biểu hiện tiêu cực trong lễ nghi để sẵn sàng chuyển giao tốt cho thế hệ mai sau. Vạn An Thạnh được Bộ Văn hóa Thông tin xếp hạng di tích cấp Quốc gia, tại Quyết định số 51/QĐ/BT ngày 12/01/1996.

Di tích lịch sử cấp quốc gia Đền thờ Công chúa Bàn Tranh

Đền thờ công chúa Bàn Tranh được gọi theo tên của công chúa vương quốc Chămpa là Bàn Tranh. Đền thờ do người Chăm xây dựng vào cuối thế kỷ XV đầu thế kỷ XVI để thờ công chúa Bàn Tranh, toạ lạc tại xã Long Hải.

Truyền thuyết kể rằng, công chúa Bàn Tranh vì không nghe lời vua cha nên bị kết tội phản nghịch và bị lưu đày ra hoang đảo. Nàng được ban cho một số nô tỳ để hầu hạ và một chiếc thuyền buồm làm phương tiện ra đi. Từ đó họ bắt đầu vỡ đất, làm nương, câu cá và tạo lập cuộc sống mới trên đảo hoang. Công chúa Bàn Tranh là người có công đầu trong việc đưa lên đảo những giống lương thực, hoa màu và hướng dẫn người dân trên đảo khai khẩn đất đai làm ruộng vườn, hình thành xóm làng và chỉ dạy người dân cách trồng trọt, làm nghề…. Với những công lao to lớn đó, người Chăm nói riêng và nhân dân trên đảo Phú Quý nói chung đã tôn vinh gọi đền thờ công chúa Bàn Tranh hay đền thờ Bà Chúa Xứ.

Đền thờ Công chúa Bàn Tranh

Lễ hội đền thờ công chúa Bàn Tranh diễn ra vào ngày mùng 3 tháng giêng âm lịch đây cũng là ngày kỵ của Bà. Do lễ hội diễn ra đúng vào dịp tết Nguyên Đán nên thu hút hầu như toàn bộ người dân trên đảo tham gia. Đền thờ công chúa Bàn Tranh là di tích mang nhiều dấu ấn, giá trị về văn hóa, lịch sử, phản ánh rõ nét quá trình tiếp biến, giao thoa văn hóa giữa người Việt và người Chăm trong quá trình lịch sử giữa vùng biển đảo xa xôi. Đồng thời thể hiện nét đẹp trong đời sống văn hóa dân gian của cộng đồng cư dân Phú Quý từ trước đến nay. Với những giá trị về lịch sử, văn hóa, nghệ thuật nói trên, đền thờ công chúa Bàn Tranh được Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch xếp hạng di tích lịch sử cấp Quốc gia, tại quyết định số: 227/QĐ-BVHTTDL ngày 28/01/2015.

Di tích lịch sử – Văn hoá Cấp tỉnh Đền thờ Thầy Sài Nại

Đền thờ (Dinh Thầy) được người dân trên đảo xây dựng vào cuối thế kỷ XVII để thờ thầy Sài Nại. Thầy Sài Nại là tên gọi kính cẩn của người dân trên đảo đối với vị thương gia người Hoa đã có công bảo bọc, chở che và cưu mang người dân xứ đảo qua nhiều thế hệ. Đền thờ tọa lạc trên một ngọn đồi cao tại thôn Phú An, xã Ngũ Phụng (riêng mộ của Thầy nằm ở Thôn Đông Hải, xã long Hải).

Truyền thuyết về thầy Sài Nại được người dân Phú Quý lưu truyền theo hai nội dung khác nhau sau đây:

Thầy Sài Nại vốn là nhà địa lý thiên văn tài ba người Trung Quốc. Thầy thường theo các thuyền buôn của người Hoa vượt đại dương đến nhiều nước trên thế giới để hành nghề. Qua nhiều chuyến hải trình, có lần Thầy và các thủy thủ đoàn ghé lên đảo Phú Quý để nghỉ ngơi, từ đó Ông mới phát hiện địa hình, địa thế đảo Phú Quý là vùng địa linh so với các hòn đảo khác. Chính vì thế sau khi rời đảo, Thầy đã thổ lộ với các thủy thủ đoàn và gia đình ước nguyện của mình là khi qua đời hãy đưa tro cốt của Ông tới đảo Phú Quý an táng.

Đại môn mộ thầy Sài Nại

Đền thờ thầy Sài Nại là di tích mang nhiều dấu ấn, giá trị về văn hóa, lịch sử, phản ánh rõ nét quá trình tiếp biến, giao thoa văn hóa giữa người Việt và người Hoa trong quá trình chung sống giữa vùng biển đảo xa xôi. Đồng thời thể hiện nét đẹp trong đời sống văn hóa dân gian của cộng đồng cư dân Phú Quý từ trước đến nay. Trải qua hơn 300 năm tồn tại, được các thế hệ người người Chăm rồi đến người Việt của các làng trên đảo kế tiếp nhau trông nom, tôn tạo, thờ phụng và thực hiện các nghi thức tế lễ theo đúng tập tục xưa. Với những giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể còn bảo lưu, gìn giữ đến hôm nay UBND tỉnh Bình Thuận đã công nhận Đền thờ thầy Sài Nại là Di tích Lịch sử Văn hóa Cấp Tỉnh tại Quyết định số 1993/QĐ-UBND ngày 07/9/2010.

Di tích lịch sử – Văn hoá Cấp tỉnh Đền thờ Bà Chúa Ngọc và Vạn Thương Hải

Đền thờ Bà Chúa Ngọc và Vạn Thương Hải được tạo dựng vào giữ thế kỷ XIX nằm trên địa phận Thôn Thương Châu, xã Ngũ Phụng, tọa lạc trên một bãi cát trắng sát cạnh bờ biển. Quần thể kiến trúc của di tích tuy được bố trí trong cùng một khuôn viên nhưng có hai chức năng thờ phụng khác nhau. Nhìn từ hướng đối diện thì ngôi chính điện bên tả thờ Bà Chúa Ngọc (còn gọi là Pô Inư Nagar hay Thiên Ya Na Diễn Ngọc Phi – một vị nữ thần được người Chăm tôn vinh là Bà Mẹ Xứ Sở). Ngôi chính điện bên hữu thờ Ông Nam Hải (cá Voi) và các bậc Tiền, Hậu hiền có công quy tập dân cư đến khẩn hoang, sinh cơ lập nghiệp, lập làng theo tín ngưỡng ngư nghiệp.

Hàng năm, tại đền thờ Bà Chúa Ngọc và Vạn Thương Hải diễn ra hai kỳ tế lễ chính: Tế Xuân vào tháng Giêng âm lịch và Tế Thu vào tháng Tám âm lịch.

Trải qua hơn 200 năm tồn tại, Đền thờ Bà Chúa Ngọc và Vạn Thương Hải đã được sửa chữa, trùng tu nhiều lần. Với những giá trị di tích độc đáo và đặc sắc, Đền thờ Bà Chúa Ngọc và Vạn Thương Hải được UBND tỉnh Bình Thuận xếp hạng Di tích lịch sử – Văn hóa cấp tỉnh tại Quyết định số: 2958/QĐ-UBND ngày 16/11/2007.

Di tích lịch sử – Văn hoá Cấp tỉnh Vạn Mỹ Khê (Lăng Cô)

Vạn Mỹ Khê được tạo lập từ năm 1785, đến nay đã trải qua hơn 231 năm tồn tại. Vạn là thiết chế tín ngưỡng dân gian gắn liền với tập tục thờ cúng cá voi của ngư dân làng Mỹ Khê qua nhiều thế hệ trong cuộc sống mưu sinh trên biển đảo. Sự tồn tại của di tích gắn liền với quá trình khai khẩn đất đai, tạo lập làng xóm và xây dựng lăng vạn của các thế hệ cha ông ngày trước.

Hàng năm, tại vạn Mỹ Khê diễn ra 3 kỳ tế lễ chính vào dịp xuân thu nhị kỳ theo tập tục “xuân cầu thu báo” và lễ kỵ Cố vào ngày 20 tháng tư âm lịch. Lễ tế xuân diễn ra trong khoảng thời gian từ tháng giêng đến tháng ba âm lịch, mục đích của nghi lễ này để khẩn cầu thần Nam Hải phù trợ cho quốc thái dân an, mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, thuyền ra khơi đánh bắt đầy tôm cá. Tế thu trong khoảng thời gian từ tháng bảy đến tháng chín âm lịch, mục đích của nghi lễ này để tạ lễ, báo đáp thần Nam Hải đã phù hộ, độ trì và bảo trợ cho dân làng qua một năm làm ăn gặp nhiều thuận lợi, may mắn để có một cuộc sống khấm khá và sung túc.

Lễ kỵ Cố diễn ra ngày 20 tháng tư âm lịch, đây cũng là dịp lễ hội chính yếu và quan trọng nhất hàng năm của vạn. Đây là lễ tế vị thần Nam Hải đầu tiên lụy và trôi dạt vào bờ được ngư dân làng Mỹ Khê làm lễ an táng, thượng ngọc cốt và đưa vào lăng tẩm để thờ phụng theo tập tục, tín ngưỡng dân gian lâu đời của ngư dân vùng biển.

Với những giá trị văn hoá đặc sắc, Vạn Mỹ Khê được UBND tỉnh Bình Thuận xếp hạng di tích lịch sử – Văn hoá Cấp tỉnh tại Quyết định số 2154/QĐ-UBND ngày 30/10/2012.

Di tích lịch sử Văn hoá cấp tỉnh Đình – Vạn Hội An

Đình – Vạn Hội An được tạo dựng vào cuối thế kỷ XVIII để thờ Thành hoàng Bổn cảnh, thần Nam Hải và các bậc tiền hiền, hậu hiền của làng theo tín ngưỡng của cư dân sống bằng nghề nông và ngư nghiệp.

Đình và Vạn Hội An tọa lạc ở Thôn Triều Dương, xã Tam Thanh. Đây là thiết chế tín ngưỡng dân gian hàm chứa 2 chức năng thờ phụng chính gắn với sinh hoạt văn hóa tâm linh của cộng đồng người Việt theo quan niệm thần Thành hoàng che chở, bảo trợ cho làng xã; thần Nam Hải (cá voi hay cá Ông) cứu giúp ngư dân trên biển theo tín ngưỡng ngư nghiệp truyền thống của người dân vùng biển. Ngoài ra, tại di tích còn thờ các bậc tiền hiền, hậu hiền có công quy tụ dân cư khẩn hoang lập làng, dựng đình và vạn ngày trước.

Hàng năm, tại đình – vạn Hội An diễn ra 3 kỳ tế lễ chính vào dịp xuân thu nhị kỳ theo tập tục “xuân cầu thu báo” và lễ kỵ Cố vào ngày mùng 01 tháng sáu âm lịch. Đình – Vạn Hội An được UBND tỉnh Bình Thuận xếp hạng di tích lịch sử – Văn hoá cấp tỉnh tại Quyết định số 2155/QĐ-UBND ngày 30/10/2012.

Di tích lịch sử – Văn hoá cấp tỉnh Đình Làng Triều Dương

Đình Triều Dương là nơi tôn thờ Thành Hoàng bổn cảnh và các bậc tiền nhân đã có công khai mở đất và tạo lập làng. Theo tài liệu để lại, đình làng Triều Dương được khởi dựng vào năm 1773. Đình làng Triều Dương là loại hình di tích kiến trúc dân gian gắn với đời sống nông, ngư nghiệp của nhân dân, là nơi thờ Thành Hoàng bổn cảnh, các vị thần linh và các bậc Tiền nhân đã có công bảo trợ, khai phá đất đai và tạo lập xóm làng. Đình làng Triều Dương là tên gọi gắn với quá trình hình thành làng, xây dựng đình và đặt tên đình mang tên làng theo phong tục, tập quán của người Việt trong hành trình Nam tiến khai phá đất đai tạo lập cuộc sống mới.

Trải qua hơn 241 năm tồn tại, đình làng Triều Dương vẫn không thay đổi và vẫn lưu giữ tên gọi xưa, điều đó thể hiện và khẳng định nét đặc trưng của văn hóa làng mà hạt nhân là ngôi đình vẫn trường tồn mãi mãi. Chính những giá trị văn hóa còn được bảo lưu gìn giữ, đình làng Triều Dương được UBND tỉnh Bình Thuận công nhận Di tích lịch sử – Văn hóa cấp tỉnh tại Quyết định số 2959/QĐ-UBND ngày 16/11/2007.

Di tích lịch sử – Văn hoá cấp tỉnh Đình làng Long Hải

Đình làng Long Hải (hay còn gọi là nhà Vuông, nhà Ông cha) được khởi dựng vào cuối thế kỷ XVIII, là nơi thờ Thành hoàng Bổn cảnh, các bậc Tiền hiền, Hậu hiền có công quy tập dân chúng khẩn hoang lập làng và dựng đình; đồng thời đình còn là nơi hội họp, giải quyết những công việc hệ trọng của làng và là nơi sinh hoạt tôn giáo, tín ngưỡng của cộng đồng làng xã.

Hàng năm tại đình làng Long Hải tổ chức hai đợt tế lễ (xuân thu nhị kỳ): tế xuân diễn ra vào tháng giêng hoặc tháng hai âm lịch, tế thu vào tháng bảy hoặc tháng tám âm lịch.

Trải qua hơn 200 năm tồn tại, đình làng Long Hải được nhiều thế hệ người dân địa phương đóng góp công sức, tiền của để dựng đình và trùng tu, tôn tạo. Đây là một trong những di tích lịch sử – văn hóa chứa đựng nhiều giá trị về văn hóa vật thể và phi vật thể tiêu biểu và đặc sắc ở đảo Phú Quý. Với những di tích động sản và bất động sản còn bảo lưu nhiều giá trị về lịch sử, văn hóa, kiến trúc, nghệ thuật…Nơi đây còn lưu giữ một số di sản tư liệu Hán Nôm và di vật có giá trị gắn với lịch sử, văn hóa của làng Long Hải nói riêng và đảo Phú Quý nói chung hơn 200 năm về trước. Chính vì vậy đình làng Long Hải được UBND tỉnh Bình Thuận xếp hạng di tích lịch sử – văn hóa cấp tỉnh tại Quyết định số: 1995/QĐ-UBND ngày 7/9/2010.

Di tích lịch sử – Văn hoá cấp tỉnh Đền thờ Bà Chúa Ngọc (Miếu Cây Da)

Đền thờ Bà Chúa Ngọc tọa lạc tại thôn Quý Hải, xã Long Hải. Di tích nằm ở phía Tây sát cạnh chân núi Cao Cát – một thắng cảnh đẹp nổi tiếng ở Phú Quý.

Đền thờ Bà Chúa Ngọc là thiết chế tín ngưỡng dân gian được người Việt trên đảo tạo dựng vào nửa đầu thế kỷ XIX để thờ nữ thần Thiên Ya Na mà người Chăm gọi là Pô Ina Nagar – thần Mẹ xứ sở. Người Việt tôn thờ Thiên Ya Na với ước nguyện cầu mong Bà phù hộ, độ trì cho công việc mưu sinh gặp nhiều may mắn, cuộc sống ấm no và hạnh phúc. Bên cạnh Thiên Ya Na là vị thần được thờ phụng chính tại di tích, tại đền còn thờ Bạch Mã Thái Giám, các bậc tiền hiền và hậu hiền đã có công khai mở đất đai, tạo lập xóm làng và dựng đền.

Tại đền thờ Bà Chúa Ngọc hàng năm diễn ra 3 kỳ tế lễ chính: tế xuân vào ngày 12 tháng giêng, tế thu vào tháng tám hoặc tháng chín và lễ kỵ Bà (giỗ Bà) vào ngày mùng 8 tháng mười âm lịch. Lễ tế xuân diễn ra vào dịp đầu năm để thỉnh cầu bà Thiên Ya Na và các vị thần linh phù trợ cho quốc thái dân an, mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt, cả nông và ngư nghiệp được bội thu. Lễ tế thu diễn ra vào tháng tám hoặc tháng chín âm lịch, đây là dịp để dân làng trả lễ, báo ân cho bà Thiên Ya Na và các vị thần linh đã bảo bọc, chở che và phù hộ cho dân chúng đạt được những điều đã khẩn nguyện.

Đền thờ Bà Chúa Ngọc chứa đựng nhiều giá trị về lịch sử, văn hóa cả về vật thể và phi vật thể gắn với đời sống tâm linh, tín ngưỡng của cộng đồng người Việt ở xã Long Hải nói riêng và huyện Phú Quý nói chung. Từ khi tạo lập đến nay, đền thờ Bà Chúa Ngọc luôn giữ một vị trí và vai trò quan trọng trong đời sống và sinh hoạt văn hóa tinh thần của cộng đồng dân cư địa phương. Chính vì vậy, UBND tỉnh Bình Thuận đã xếp hạng di tích lịch sử – văn hoá cấp tỉnh tại Quyết định số 3020/QĐ-UBND ngày 12/9/2014.

Các di tích lịch sử – Văn hoá trên địa bàn huyện hiện nay đã và đang thu hút số lượng khách du lịch đến tham quan ngày càng nhiều. Nhiều tuyến du lịch tham quan các cảnh đẹp của đảo gắn với tham quan các di tích tín ngưỡng, tôn giáo đang hình thành, triển vọng sẽ thúc đẩy du lịch Phú Quý, mạnh mẽ và bền vững hơn trong thời gian đến./.

5/5 - (3 bình chọn)

Những món hải sản nổi bật tại Phú Quý

Nói đến Phú Quý là nói đến một cụm đảo, cách Phan Thiết 56 hải lý về hướng Đông Nam. Phú Quý có rất nhiều tên gọi trước đây, có lúc thuộc huyện Tuy Phong, có lúc thuộc huyện Hàm Thuận, nay là huyện đảo thuộc tỉnh. Phú Quý, từng là nơi giàu tiềm năng hải đặc sản quý. Bài viết này ghi lại vài loại hải sản, đặc sản của Phú Quý trước đây (nay vẫn còn nhưng lượng không nhiều).

Cá Phú Quý

Cá nục sỏi

Là loại cá nằm trong bộ cá nục sồ, xuất hiện ở biển Đông, thích nghi vùng lắm đá ngầm. Ở Phú Quý, cá nục sỏi còn có tên gọi là cá đuôi cờ. Từ tháng 9 – 11 hàng năm là mùa cá nục sỏi. Để đánh bắt cá nục sỏi, ngư dân thường thả chà, sau đó dùng lưới hai – ba vây bên ngoài cội chà để bắt cá. Phú Quý từng có nhiều cội chà hay, thu từ 300 – 500kg cá trong một lần quây lưới. Ngoài ra, có thể dùng ống câu để câu cá nục sỏi. Mỗi ống câu có trên 30m dây cước. Cứ cách 1m dây cước thì mắc 1 lưỡi câu kèm theo một chùm kim tuyến trắng, giả làm mồi câu. Khi dây câu thả xuống nước, do ảnh hưởng của nước chảy và sóng biển, chùm kim tuyến luôn lay động, hút đàn cá nục sỏi bơi lại, đớp mồi và dĩ nhiên sẽ mắc câu. Người câu giỏi, mỗi lần thu dây câu bắt được khá cá.

Cá hồng

Xuất hiện nhiều ở Phú Quý trước đây. Đây là loại cá chuyên ăn cá nhỏ, thích ghi với vùng biển nhiệt đới, sống ở tầng đáy. Con lớn nhất dài tới nửa thước, nặng 5 – 6kg. Cá đẻ trứng từ tháng 3 – 7, tháng 5 thì đẻ rộ. Trước ngày giải phóng, ngư dân đi thuyền ra khỏi đảo 200m, dùng lưới giã, có thể bắt được cá hồng, hoặc cá mú nghé.

Cá dảnh

Có 2 loại cá dảnh ở Phú Quý. Đó là dảnh bông và dảnh vẩy. Cá dảnh, con lớn nhất dài tới 25cm, là loại cá mà nếu đem chế biến nước mắm sẽ được loại nước mắm cao độ đạm, thơm ngon. Cá dảnh còn được phơi khô, làm thức ăn trong những ngày mưa bão.

Cá không xương

Còn có tên gọi là cá lưỡi dong, đặc điểm là mềm như bún. Cá có hình dạng tròn, to bằng cái chén, da nhám, màu vàng pha sọc đen, đôi vi xòe ra như chân ếch, bơi rất nhanh. Bắt được cá lưỡi dong, ngư dân thường bỏ nuôi trong hồ làm cá cảnh.

Cá chào dao

Một giống cá thuộc bộ cá đuối, xuất hiện quanh năm ở Phú Quý. Cá chào dao có hình vuông và dẹp. Con lớn nhất có kích thước như một bộ ván. Da trơn láng, màu nâu sậm, bụng trắng. Cá sống trong vùng có dòng hải lưu nóng ấm… vùi mình trong cát chỉ chừa 2 con mắt và lỗ thở. Ngư dân Phú Quý trước đây đánh bắt cá chào dao bằng lưới vây rút chì, chu vi là 10km. Thỉnh thoảng, ngư dân Phú Quý gặp cảnh “chào dao đóng mẻ”, nghĩa là một đàn chào dao sau khi bị động liền “nhập đất”, con trên đè con dưới, bất động. Khi gặp cảnh đó, ngư dân phải lặn xuống, gỡ từng con rồi đưa lên thuyền. Cá chào dao được xẻ khô, làm thực phẩm.

Cá bò

Có 5 loại cá bò ở biển Phú Quý. Đó lá bò ngừ, bò dẹp, bò hòm, bò gai và bò hút. Cá bò di chuyển từng đàn, ở lưng chừng mặt nước để tìm thức ăn. Từ tháng 2 – 5 là mùa cá bò đẻ. Cá bò có da lưng nhám, gai mọc trên kỳ. Ngư dân đánh bắt cá bò bằng câu tay hoặc lưới giã.

Ốc vú nàng

Phú Quý là giang sơn của các loài nhuyễn thể, trong đó độc đáo hơn cả là ốc vú nàng. Muốn bắt ốc vú nàng, người ta dùng đèn bấm soi vào các khe, kẹt đá chung quanh đảo, bởi ốc thường bám vào đá. Ốc có đường kính chừng 6,8cm, vỏ cứng, hình dáng như đôi vú của người phụ nữ. Vỏ ốc có xà cừ dùng khảm đồ gỗ. Thịt ốc vú nàng làm thành món gỏi rất ngon.

Tôm hùm Phú Quý

Trước đây Phú Quý là nơi có nhiều tôm hùm, đặc biệt là quanh các hòn Đen, hòn Đỏ, hòn Tranh vì bên dưới các hòn này có nhiều đá ngầm, hang hốc, thích hợp cho tôm hùm sinh sống. Ban ngày tôm hùm rúc vào hang, đêm bò ra tìm mồi. Mùa “săn” tôm hùm kéo dài từ tháng 1 – 5.

Tôm hùm Phú Quý

Để săn bắt tôm hùm, người ta thường mang dây chì bên hông (cho nặng), kính lặn một tròng, găng tay, một chiếc móc câu dài 50cm, vợt lưới, giỏ đựng (đeo bên hông). Vào lúc bình minh trên biển, nước “ấm”, người săn tôm hùm nhảy ùm xuống đáy nước. Khi chân chạm đáy thì nhanh chóng dùng que sắt sục vào các hang, hốc đá, tìm tôm. Trước năm 1975, nghề lặn tôm ở Phú Quý khá thịnh hành, có nhiều ghe lặn. Mỗi ghe lặn thường có 4 – 5 người, năng suất 100kg tôm/ngày. Đa phần người lặn săn bắt tôm đều giỏi bơi lặn và lặn lâu hơn người bình thường. Tôm hùm ngoài phần thịt ngọt, vỏ tôm có thể làm hàng trang trí.

Xem thêm:

Cua huỳnh đế – hải sản tiến Vua ở đảo Phú Quý

Hải sâm Phú Quý – đặc sản xứ đảo

Rate this post

Về Phú Quý, nhớ làng nghề đan võng dứa gai

Đã bao năm qua kể từ ngày huyện đảo Phú Quý “thay áo mới”, người ta không còn được ngả lưng ngủ một giấc thật sâu trên chiếc võng dứa gai truyền thống của đảo tiền tiêu. Võng dứa giờ đây chỉ còn trong nỗi nhớ.

Võng dứa gai… một thời vang bóng

“Võng dứa vừa đẹp, vừa bền, nằm rất êm lưng và thân thiện với môi trường”. Đó là lời ca ngợi của rất nhiều người dân xứ đảo khi nói về sản phẩm truyền thống của quê hương mình.

Kể từ ngày đặt chân lên đảo Phú Quý tôi cũng muốn một lần được nhìn thấy, được nằm trên đó mà nhớ về ký ức tuổi thơ nơi quê nhà yêu dấu. Võng dứa gai ai bán? Tôi mua. Mà… sao khó quá. Người dân trên đảo cho biết: “Người ta bỏ nghề lâu rồi, giờ không có ai đan võng dứa nữa đâu”. Trong ký ức của nhiều người, Phú Quý một thời nhộn nhịp nghề đan võng dứa. Phụ nữ, con gái ai cũng biết đan võng, hình ảnh các chị, các mẹ tập trung lại từng tốp khoảng dăm bảy người rồi chọn nhà ai rộng rãi, chong đèn hột vịt ngồi đan; tiếng nói cười rôm rả… thật là vui! Riêng đàn ông trên đảo tranh thủ những ngày biển động, dao lận lưng hông, đạp rừng, trèo núi đi tìm chặt rễ cây dứa gai. Vì thế, tới mùa đi biển có sẵn rễ dứa, sợi dứa ở nhà vợ con tha hồ ngồi đan. Hay, nhờ cái nghề đan võng mà các chàng trai, cô gái được gặp nhau, mới có cơ hội tâm tình rồi kết tóc se duyên, ăn đời ở kiếp với nhau. Chú Nguyễn Đối (63 tuổi) ở thôn Tân Hải, xã Long Hải còn nhớ như in cái ngày mà chú với cô đến với nhau. Chú kể rằng: “Xưa, các cô thiếu nữ ở Long Hải rất đảm đang, lúc mười sáu mười bảy tuổi họ không những đan võng giỏi mà còn rất đẹp, trong đó có vợ chú”. Rồi chú Đối tâm tình thêm: “Ngày ấy, cánh thanh niên người đi biển, người làm rẫy; còn các cô ngoài thời gian phụ gia đình, những lúc rảnh rỗi lại tập trung đan võng dứa – mà thời điểm thích hợp nhất là buổi trưa và buổi tối. Ngày các chú làm việc, tối lại tìm đến nhà các cô để chuyện trò và phụ giúp việc đan”.

Đan võng dứa gai

Nghề đan võng ngày xưa ở đảo rất nhộn nhịp, xã nào cũng có người đan. Cứ độ từ năm đến bảy ngày là xong một chiếc, sau có thương lái thu gom, khi có tàu biển những chiếc võng lại “vượt trùng khơi” vào đất liền.

Võng dứa xưa được coi là loại tốt và sang, khách hàng rất ưa dùng nên bán khá chạy. Những cây võng dứa có mặt ở khắp nơi từ nông thôn cho tới chốn thị thành; Phan Thiết, Hàm Thuận, Phan Rí, Liên Hương, La Gàn… là những thị trường chính tiêu thụ võng đảo Phú Quý nhiều nhất. Ngoài việc thu nhập giúp trang trải việc chi tiêu trong gia đình, nghề đan võng cũng phần nào giải quyết được công ăn việc làm cho nhiều người, nhất là phụ nữ những lúc nhàn rỗi.

Võng dứa gai – hành trình của những kỳ công

Võng dứa gai ngày nay không còn được người dân trên đảo đan làm thương phẩm như xưa, mà hiện nay chỉ còn lại một, hai người vốn “nặng nợ” với sản phẩm cổ truyền nên đan để sử dụng trong gia đình.

Trong những ngày gần đây, sau một thời gian đi tìm chiếc võng xứ Hòn thì tôi may mắn được gặp hai cô Nguyễn Thị Quyển (61 tuổi) và Trần Thị Chỉnh (66 tuổi) đều ở thôn Tân Hải, xã Long Hải. Hiện nay, các cô thỉnh thoảng mới làm, chủ yếu là đan để sử dụng, tặng cho ông bà thông gia hay cho con cháu dùng chứ không bán như hồi xưa. Khi tôi gặp thì cô Quyển đã đan xong những chiếc võng cần dùng cho gia đình mình. Ngày nay, võng được đan với rất nhiều chất liệu khác nhau như: ni-lông, vải dù, sợi tổng hợp… với kiểu dáng, màu sắc nhìn bắt mắt, giá cả hợp lý, lại tiện dụng. Do vậy, việc những “nghệ nhân dân gian” hiếm hoi này bỏ ra nhiều công sức để đan một chiếc võng dứa truyền thống là điều thật đáng trân trọng. Khi được tôi nhờ hướng dẫn lại quy trình đan võng dứa gai truyền thống, cô Quyển trả lời với giọng thân tình và dứt khoát: “Được! Ngày mai tới cô chỉ cho”.

Việc đầu tiên của nghề đan võng là phải biết chọn nguyên liệu. Nguyên liệu đan võng chỉ một thứ duy nhất, đó là rễ cây dứa gai. Rễ dứa chọn làm võng là thứ rễ còn treo lủng lẳng trên thân cây chưa cắm vào đất, vì theo kinh nghiệm loại rễ này sẽ cho ra sợi dai và bền. Ngoài ra, rễ phải suông thẳng, không quá già, cũng không quá non. Để đan một chiếc võng phải chặt rất nhiều rễ dứa. Để chọn được rễ vừa ý người thợ đan phải băng rừng, trèo núi tìm chặt. Do là loài mọc hoang, lại có nhiều gai nên mỗi lần đi tìm chặt rễ dứa chân tay trầy trụa, tóe máu là điều thường xuyên xảy ra. Sau khi đã có rễ cây, dùng rựa chặt khúc dài khoảng 1 mét (m) gọt sạch vỏ, chỉ dùng phần lõi, rồi chẻ ra từng thanh mỏng phơi vào những ngày nắng ráo, phơi một nắng là vừa. Tiếp đến là đến công đoạn tét sợi, kích cỡ sợi tốt nhất khoảng độ bằng cái chân nhang. Sợi được bó lại để yên ở một góc nhà, để có sợi trắng ngà tinh mới và có độ bóng là đã sẵn sàng cho đan võng. Đan võng rất khó. Nếu như chặt rễ đòi hỏi sức lực, thì se sợi, đan thành phẩm một cây võng đòi hỏi sự tỉ mẩn, miệt mài trong từng chi tiết.

Theo cô Chỉnh, muốn học đan võng thì đầu tiên phải học cách se dây. Dây phải se cho đều, nếu không đều dây nhỏ, dây to thì sẽ bị leo dây. Tùy thuộc vào chiếc võng lớn hay nhỏ mà ta sử dụng sợi, nếu chiếc võng lớn thì ta se 30 sợi, nhỏ thì 20, thông thường mỗi sợi dài từ 5 đến 6m. Khi se dây thành thạo thì mới có thể học đan, mà điểm khó nhất đó là đan đầu võng. Sở dĩ đan đầu võng thứ nhất thường mất thời gian và khó là vì, đầu võng là “điểm tựa”, là mấu chốt cho các công đoạn tiếp sau. Nếu cố định đầu võng tốt thì sau đan từng ô mới đều và đẹp.

Một cây võng thành phẩm thường có độ dài từ 2 – 2,5m, sử dụng khoảng 5 năm, nếu bảo quản tốt có thể sử dụng 10 năm.

Hướng khôi phục và phát triển làng nghề

Nhờ có những lợi thế về cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp, kỳ vĩ, cùng với các di sản vật thể và phi vật thể mang đậm dấu ấn văn hóa biển đảo nên trong những năm gần đây, khách du lịch đến với đảo ngày càng nhiều.

Vào năm 2010, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt đề án quy hoạch Phú Quý thành 1 trong 16 khu bảo tồn biển của cả nước. Phú Quý sẽ trở thành điểm đến thu hút đông đảo du khách trong và ngoài nước. Do vậy, nghề đan võng dứa gai có khả năng phát triển tốt trong bối cảnh ngành du lịch đang dần khởi sắc. Đến đây, du khách tha hồ thả bước trên hòn đảo xinh đẹp, khám phá làng nghề đan võng truyền thống. Với chiếc võng buộc dọc những hàng dừa ven biển, khách du lịch sẽ được hít thở không khí trong sạch giữa trùng khơi, nhìn ngắm mây trời bao la, hay mua sắm chiếc võng để làm quà lưu niệm cho gia đình, người thân.

Hy vọng trong tương lai, chính quyền địa phương quan tâm hơn nữa và có kế hoạch để khôi phục làng nghề này. Nếu được như thế, không những nghề truyền thống bao đời nay của địa phương được gìn giữ, mà còn tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người dân. Giữ gìn, khôi phục làng nghề đan võng sẽ góp phần lưu giữ nét văn hoá, nếp sống sinh hoạt độc đáo của người xứ đảo.

THÀNH DANH

Báo Bình Thuận

5/5 - (1 bình chọn)

Hải đăng Phú Quý

Hải đăng Phú Quý nằm trên đỉnh núi Cấm, ở độ cao 108m so với mực nước biển, tháp hải đăng có hình vuông cao 18m, xây bằng đá màu đen. Hải đăng có tầm chiếu xa khoảng 22 hải lý. Hải đăng chỉ vị trí đảo Phú Quý, tỉnh Bình Thuận. Hải đăng nhập bờ, giúp tàu thuyền hoạt động trong vùng biển ngòai khơi tỉnh Bình Thuận định hướng ra vào vùng biển Phan Thiết và xác định được vị trí của mình.

Sơ lược về Hải đăng Phú Quý

Nằm ở độ cao 108 mét trên núi Cấm (thuộc xã Ngũ Phụng, huyện đảo Phú Quý, tỉnh Bình Thuận), Hải đăng Phú Quý có tọa độ địa lý: Vĩ độ (φ) 10 ° 32′ 25″ 3N – Kinh độ (λ)108° 55′ 53″ 1E (Hệ VN-2000); Vĩ độ (φ) 10 ° 32′ 23″ 1N – Kinh độ (λ)108° 55′ 58″ 1E (Hệ HN-72) và Vĩ độ (φ) 10 ° 32′ 21″ 5N – Kinh độ (λ)108° 55′ 59″ 5E (Hệ WGS-84), chính thức đưa vào hoạt động ngày 18/2/1994, sau đó được trùng tu và hoàn thành vào ngày 19/8/1997. Với chức năng chỉ vị trí đảo Phú Quý; đèn nhập bờ hướng dẫn cho tàu thuyền hoạt động trong vùng biển Phan Thiết (Bình Thuận) bao năm qua vẫn thức theo từng chuyến biển của ngư dân đảo Phú Quý, và là một trong những cột mốc khẳng định chủ quyền nước ta trên biển.

Hải đăng Phú Quý sử dụng loại đèn có ánh sáng trắng, chớp nhóm 2, với chu kỳ 15 giây (0,117s + 4,883s + 0,117s + 9,883s = 15s), phạm vi chiếu sáng 360°, có tầm nhìn 27 hải lý (1 hải lý = 1.853,2 mét) với chiều cao mắt người quan sát 5 mét; tầm hiệu lực ánh sáng là 20 hải lý với hệ số truyền quang khí quyển t = 0,74, sử dụng bằng nguồn năng lượng mặt trời, đóng ngắt tự động theo sự chuyển biến của thời tiết, và trong khoảng khung giờ chủ yếu từ 17 giờ 45 phút – 5 giờ 45 phút ngày hôm sau.

Hải đăng Phú Quý có kiểu dáng đẹp, hình khối hộp, tháp đèn có màu xám, nhà trạm được sơn màu vàng sẫm, đứng sừng sững uy nghiêm nổi bật giữa màu xanh của cây rừng và biển cả mênh mông. Hải đăng có chiều cao toàn bộ là 126 mét (tính từ mực nước số “0 Hải đồ”) và chiều cao công trình là 20 mét tính từ tâm đèn đến nền móng; chiệu rộng trung bình 4,0 mét đối với tháp đèn. Du khách gần xa khi có dịp đến đảo, từ tháp đèn có thể ngắm nhìn toàn bộ huyện đảo Phú Quý, hít thở không khí trong sạch giữa trùng khơi, ngắm nhìn trời nước bao la để thêm yêu Tổ Quốc nơi đầu sóng ngọn gió.

Hiện nay, Hải đăng Phú Quý do Công ty Bảo đảm an toàn Hàng hải Nam Trung Bộ (thuộc Tổng Công ty Bảo đảm an toàn Hàng hải miền Nam – Bộ GTVT) quản lý.

Thông số chi tiết Hải Đăng Phú Quý

Tọa độ địa dư: 10o32’21.5”N – 108o55’59.5”E

Tầm hiệu lực (tọa độ địa lý)

  • Ban ngày: 27 hải lý
  • Ban đêm: 20 hải lý

Chiều cao

  • Tháp đèn: 20m
  • Tâm sáng: 124m

Đặc tính ánh sáng

  • Màu sắc: ánh sáng trắng
  • Đăc tính chớp: Chớp nhóm 2, chu kỳ 15s
  • Màu sắc thân đèn: Xám

Loại đèn

  • Đèn chính: VMS RB 400
  • Đèn phụ: TRB 220
  • Racon:

Năm thiết lập: 08/09/1997

Hải Đăng Phú Quý

Hướng dẫn đi đến Hải Đăng Phú Quý

Hải đăng Phú Quý đặt trên đỉnh Núi Cầm là điểm cao nhất của đảo. Muốn chinh phục ngọn hải đăng này, du khách phải đi bộ, leo núi, vượt hơn 120 bậc đá trên đoạn đường dài khoảng 200m có nhiều đoạn trơn trượt. Lên đến nơi, du khách sẽ được phóng tầm mắt nhìn toàn cảnh đảo hữu tình từ trên cao. Đặc biệt, trên đường leo lên ngọn hải đăng, du khách cũng có thể ghé thăm chùa Linh Bửu, nơi có mắc những chiếc võng cho khách nghỉ chân.

Các bạn chạy thẳng lên, nhìn thấy tấm bảng chỉ đường lên chùa Linh Bửu, các bạn đi theo đường đó. Lên được tới chùa rồi, các bạn nhìn tay trái sẽ thấy 1 con đường nhỏ, các bạn chạy lên đó sẽ gặp các bậc thang. Các bạn đi thẳng lên, rồi sẽ gặp 1 ngã 3, nếu các bạn rẽ trái, thì sẽ tới ngọn đuốc Bác, là nơi để tượng Bác Hồ, chắc là nơi thờ bác. Còn đi thẳng thì đến hải đăng Phú Quý, các bạn chỉ được đứng dưới chân thôi chứ không được lên ngọn đâu. Ở đây view không đẹp bằng bên Đỉnh Cao Cát, nhưng lên đây để check in một trong những hải đăng lớn nhất Việt Nam cũng là không tệ đâu.

5/5 - (2 bình chọn)