Lịch chạy tàu cao tốc Côn Đảo – Vũng Tàu – Côn Đảo tháng 1/2021

Nữ anh hùng Võ Thị Sáu hy sinh ngày 23-1-1952, ngày 23/1 hằng năm người dân Côn Đảo đều tổ chức Lễ giỗ cho Cô Sáu, Quý hành khách tham khảo lịch chạy tàu cao tốc Côn Đảo – Vũng Tàu – Côn Đảo tháng 1/2021 để tham gia cùng sự kiện đặc biệt này nhé !

Lịch chạy tàu

Từ ngày 1/1 – 25/1/2021:

  • Vũng Tàu đi Côn Đảo: Thứ 3, Thứ 7 hằng tuần vào 8:00 sáng tại Cảng Cầu Đá, Vũng Tàu
  • Côn Đảo về Vũng Tàu: Thứ 4, Chủ Nhật hằng tuần vào 13:30 chiều tại Cảng Bến Đầm, Côn Đảo

Từ ngày 26/1 – 10/2/2021

  • Vũng Tàu đi Côn Đảo: Thứ 3, Thứ 5, Thứ 7 hằng tuần vào 8:00 sáng tại Cảng Cầu Đá, Vũng Tàu
  • Côn Đảo về Vũng Tàu: Thứ 4, Thứ 6, Chủ Nhật hằng tuần vào 13:30 chiều tại Cảng Bến Đầm, Côn Đảo

Giá vé tàu Vũng Tàu – Côn Đảo

Giá vé EcoTrẻ em/ NCTGiá vé VIPGhi chú
  660,000  550,000 1,200,000Thứ 2 → Thứ 5
  880,000  700,000 1,200,000Thứ 6 → Chủ Nhật, Lễ Tết
  660,000  500,000 1,200,000Thứ 2 → Thứ 5
  880,000  700,000 1,200,000Thứ 6 → Chủ Nhật, Lễ Tết

Liên hệ đặt vé

  • H. Côn Đảo: 0987 556 294 (hỗ trợ đặt và giao vé tận nơi tại Côn Đảo)
  • TP. Bà Rịa: 0389 546 426 (hỗ trợ đặt và giao vé tận nơi tại TP Bà Rịa)
  • TP Vũng Tàu: 088 937 1234 (Hỗ trợ đặt và giao vé tận nơi tại Vũng Tàu)
  • Trần Đề: 088 921 1234 (Hỗ trợ đặt và giao vé tại Cảng Trần Đề, Sóc Trăng)
  • Cần Thơ: 088 921 1234 (Hỗ trợ đặt vé tại TP Cần Thơ)
  • Cả nước: 088 937 1234 (Hỗ trợ dịch vụ trên cả nước)

Xem thêm: Lịch bay trực thăng Vũng Tàu – Côn Đảo tháng 1/2021

LỊCH CHẠY TÀU CHI TIẾT

ThứNgày thángVũng Tàu – Côn ĐảoCôn Đảo – Vũng TàuÂm lịch
Thứ Sáu1/1/202111/19/2020
Thứ Bảy1/2/20218:0011/20/2020
Chủ Nhật1/3/202113:3011/21/2020
Thứ Hai1/4/202111/22/2020
Thứ Ba1/5/20218:0011/23/2020
Thứ Tư1/6/202113:3011/24/2020
Thứ Năm1/7/202111/25/2020
Thứ Sáu1/8/202111/26/2020
Thứ Bảy1/9/20218:0011/27/2020
Chủ Nhật1/10/202113:3011/28/2020
Thứ Hai1/11/202111/29/2020
Thứ Ba1/12/20218:0011/30/2020
Thứ Tư1/13/202113:3012/1/2020
Thứ Năm1/14/202112/2/2020
Thứ Sáu1/15/202112/3/2020
Thứ Bảy1/16/20218:0012/4/2020
Chủ Nhật1/17/202113:3012/5/2020
Thứ Hai1/18/202112/6/2020
Thứ Ba1/19/20218:0012/7/2020
Thứ Tư1/20/202113:3012/8/2020
Thứ Năm1/21/202112/9/2020
Thứ Sáu1/22/202112/10/2020
Thứ Bảy1/23/20218:0012/11/2020
Chủ Nhật1/24/202113:3012/12/2020
Thứ Hai1/25/202112/13/2020
Thứ Ba1/26/20218:0012/14/2020
Thứ Tư1/27/202113:3012/15/2020
Thứ Năm1/28/202112/16/2020
Thứ Sáu1/29/202112/17/2020
Thứ Bảy1/30/20218:0012/18/2020
Chủ Nhật1/31/202113:3012/19/2020
5/5 - (1 bình chọn)

Tạm ngưng tàu Vũng Tàu – Côn Đảo – Vũng Tàu trong các ngày 15-20/12/2020

Căn cứ vào dự báo khí tượng thủy văn, tình hình thời tiết trên biển đang diễn biến không ổn định từ ngày 15-20/12/2020, để đảm bảo sức khỏe cho hành khách, Côn Đảo Express thông báo điều chỉnh lịch hoạt động của tàu tuyến Vũng Tàu – Côn Đảo – Vũng Tàu, cụ thể như sau:

Thời gianTuyếnNội dung
Ngày 15/12/2020Vũng Tàu – Côn ĐảoTạm ngưng
Ngày 16/12/2020Côn Đảo – Vũng TàuTạm ngưng
Ngày 19/12/2020Vũng Tàu – Côn ĐảoTạm ngưng
Ngày 20/12/2020Côn Đảo – Vũng TàuTạm ngưng

Chúng tôi sẽ liên tục cập nhật tình hình thời tiết và lịch trình tàu nếu có thay đổi trong những thông báo sau.

Thông báo này có giá trị áp dụng kể từ ngày 10/12/2020 cho đến khi có thông báo mới !

5/5 - (1 bình chọn)

“Kỳ công” với món ốc bưu nhồi thịt của người dân Cà Mau

Từ lâu, ngoài nguồn lợi cá đồng, ốc lác, ốc bươu cũng sinh sôi, nẩy nở, phát triển mạnh trên đồng đất Cà Mau. Ngoài các món luộc, nướng, hấp sả, nấu lẩu mắm, người dân nơi đây còn chế biến món ốc bươu nhồi thịt. Món này tuy “kỳ công” hơn nhưng nó là món ăn bổ dưỡng, hấp dẫn cho nhiều người.

Để chế biến món ốc bươu nhồi thịt thơm ngon nên chọn ốc bươu còn sống, không quá to và cũng không quá nhỏ. Ốc được rửa sạch hoặc tốt nhất là ngâm trong nước cơm vo khoảng nửa ngày cho ốc nhả hết chất bẩn. Sau đó, ốc được rửa sạch, để ráo nước và cho vào nồi luộc cho vừa chín tới. Khi ốc chín, tách lấy phần thịt (phần đầu), bỏ phần đuôi và băm nhỏ (không nên băm thịt ốc quá mịn). Thịt ba rọi cũng được băm nhuyễn và trộn chung theo tỉ lệ 7 phần ốc, 3 phần thịt. Cho các thứ gia vị như nước mắm, đường, bột ngọt, tiêu, tỏi, hành củ băm nhuyễn vào và để khoảng 5 đến 10 phút cho thấm gia vị.

Phần vỏ ốc đã lấy thịt được rửa sạch, để ráo nước sau đó cho phần thịt ốc, thịt ba rọi đã băm mịn vào vỏ ốc. Trước khi cho thịt vào vỏ ốc nên để phía trong 1 lá sả ngắn để khi hấp chín dễ lấy thịt ốc ra và tạo mùi thơm cho món ốc hấp. Khi cho thịt vào vỏ ốc nên để kèm theo 1 hạt tiêu để tạo thêm hương vị cay cay, nồng nồng.

Khi đã nhồi xong thịt, cho ốc vào nồi hấp cách thủy. Trước khi xếp ốc vào nồi hấp nên lót phía dưới một ít lá chanh, lá sả và sả cọng đập dập để tạo hương vị đặc trưng cho ốc. Ốc hấp sả khoảng 30 phút là chín tới.

Thưởng thức món Ốc bưu nhồi thịt hấp xả

Món ốc bươu nhồi thịt thường chấm với nước mắm sả, nước mắm gừng, muối tiêu chanh, cơm mẻ – sả – ớt và ăn kèm với rau răm, quế, rau thơm, ngò om, chuối chát.

Có thể nói, món ốc bươu hấp sả có mùi thơm đặc trưng, thơm ngon và không thể chê vào đâu được, nhất là có nhiều dưỡng chất tốt cho sức khỏe đặc biệt là hàm lượng canxi cao.

Về Cà Mau, du khách có thể thưởng thức món ăn dân dã ốc bươu nhồi thịt hấp sả này tại tất cả các nhà hàng, quán ăn trên địa bàn.

Diễm Phương
https://www.camau.gov.vn/

5/5 - (1 bình chọn)

Phước Lâm Tự – Chùa Phước Lâm Vũng Tàu

Nếu như bạn là một du khách đang muốn tìm hiểu về du lịch văn hóa tâm linh của Vũng Tàu thì chắc hẳn Phước Lâm Tự sẽ phải là điểm đến hàng đầu mà bạn nên lựa chọn.

Phước Lâm Tự là một trong những ngôi chùa cổ ở thành phố Vũng Tàu, được xây dựng cách đây khoảng 200 năm. Với giá trị về mặt tôn giáo cũng như kiến trúc và thời gian xây dựng thì vào năm 1992 ngôi chùa này đã được xếp hàng là di tích lịch sử cấp quốc gia.

Nằm trên con đường Nguyễn Bảo, phường 6, thành phố Vũng Tàu, ngôi chùa có tổng diện tích trên 6000 m², được xây dựng vào năm 1886. Ngôi chùa cổ trước đây là dãy nhà 3 gian 2 chái, sườn kết cấu kiểu tứ tượng.- Một số tượng bài trí bên trong như A Di Đà, Hộ Pháp, Tiêu Diện bằng gỗ, ngoài ra đều là tranh vẽ. Sau năm 1956, ngôi chùa cũ bị phá bỏ, làm lại toàn bộ với diện tích mặt bằng được nới rộng. Trên nóc chùa, ba tháp chuông đã làm cho kiến trúc chùa Phước Lâm có nét riêng so với các ngôi chùa khác. Hàng chữ Phước Lâm Tự màu đỏ và năm trùng tu (1956) được ghi ở mặt trước.

Từ cổng chùa có hai cửa vào chánh điện, trang trí mặt trước chùa khá công phu với việc cân gạch men, hoa văn màu sặc sỡ, hàng cột vuông và mái vòm cong ảnh hưởng kiến trúc Tây phương. Đặc biệt trước sân chùa còn hai cây cổ thụ: Cây ta-la vốn là quà tặng của Đại đức Narada ở Tích Lan mang sang vào năm 1968 và một gốc tràm sum suê cành lá, tạo bóng râm mát cho sân chùa. Lần trùng tu lớn năm 1993 làm cảnh quan chùa có phần thay đổi. Cổng tam quan từ ngoài vào đưa khách tham quan đến bên hông chùa để bước lên nhà Tổ.Có một hồ sen nhỏ ở bên trong sân chùa, dành đặt pho tượng Quan Âm Nam Hải cao 3m5, xây dựng đình trạm bốn mái trên đầu tượng. Bình Tịnh thủy được thiết kế cho nước tràn xuống tưới mát suốt ngày. Chánh điện được tu sửa lại, mái lợp ngói móc vào năm 1978. Nhà hậu tổ được làm mới lại hoàn toàn, nhưng vẫn theo kết cấu sườn mái bằng gỗ và kiểu cổ.

Chùa Phước Lâm hiện nay còn lưu giữ khá nhiều tượng phật, tượng quan âm có giá trị như pho tượng Quan Âm Nam Hải, Phật nhập Niết Bàn, tượng Chuẩn Đà bằng gỗ, đại hồng chung bằng đồng, … , và đặc biệt là pho tượng cổ Visnu bằng đá – vị thần bảo tồn vũ trụ có từ thế kỷ VII rất quý hiếm.

Qua nhiều lần trùng tu hiện nay chùa được chia làm 4 khu chính là Tam quan, chính điện Phước Lâm tự, Tượng Phật Bà Quan Âm, khu nhà ở của tăng ni phật tự và vườn tháp. Không gian của chùa rất rộng rãi và thoáng đãng thu hút một lượng lớn du khách, tăng ni phật tử từ khắp nơi đến tham quan và tỏ lòng thành kính với Phật Tổ

Với lối kiến trúc ảnh hưởng của phong cách Ấn Độ, cùng vẻ đẹp của cảnh quan thiên nhiên, của lịch sử văn hóa thuần Việt cổ xưa, Phước Lâm tự hiện đang là một trong những điểm đến yêu thích hấp dẫn khách hành hương

5/5 - (1 bình chọn)

Đôi nét nội dung khối tài liệu về Côn Đảo thuộc phông Phủ Thống đốc Nam Kỳ (1861-1945)

Côn Đảo là một nhà tù đầu tiên, qui mô lớn nhất và nổi tiếng tàn bạo như “một địa ngục trần gian” của chế độ thực dân ở Đông Dương. Lịch sử nhà tù Côn Đảo từ khi được thực dân Pháp thành lập cho đến ngày hoàn toàn giải phóng (1861-1945) gắn với những trang sử tranh đấu oai hùng của nhiều thế hệ người Việt Nam yêu nước đấu tranh vì độc lập tự do của dân tộc Việt Nam.

Gần 400 hồ sơ, tài liệu liên quan đến quá trình hình thành và hoạt động của nhà tù Côn Đảo (1861-1945) hiện đang được bảo quản tại Trung tâm LTQGII, bao gồm các hồ sơ về tổ chức hành chánh; các báo cáo hoạt động hàng tháng của nhà tù; các phong trào đấu tranh của tù nhân; danh sách tù nhân bị giam giữ, vượt ngục, chết tại Côn Đảo; hay các hồ sơ cá nhân của tù nhân như: bản án, giấy chứng tử,… Đây là khối tài liệu thuộc phông Thống đốc Nam kỳ, đang rất được nhiều nhà nghiên cứu cũng như gia đình dòng họ của cựu tù Côn Đảo khai thác nhằm phục vụ nhu cầu nghiên cứu và làm hồ sơ chính sách.

Toàn bộ khối tài liệu về Côn Đảo được viết bằng tiếng Pháp trên giấy Pelure, đặc biệt quý hiếm và quan trọng vì được hình thành cách nay hơn 100 năm, phản ảnh được toàn bộ thực trạng đời sống cũng như hoạt động đấu tranh, giam giữ của tù chính trị ở Côn Đảo trong những năm kháng chiến chống Pháp.Để hiểu rõ thêm về tổ chức và hoạt động của nhà tù Côn Đảo thời Pháp thuộc, nằm trong phông Thống đốc Nam kỳ, hiện đang được bảo quản tại Trung tâm Lưu trữ quốc gia II, chúng tôi xin giới thiệu vài nét về nội dung và thành phần tài liệu có liên quan.

Năm 1861, sau khi chiếm được thành Gia Định, lo sợ quần đảo án ngữ vùng biển Đông Nam Việt Nam bị các nước thực dân khác dòm ngó như các thế kỷ trước, Bonard – Thuỷ sư Đô đốc Pháp, hạ lệnh cho thông báo hạm Norzagaray chiếm đóng Côn Đảo. Ngày 28-11-1861, tại đảo, Lespès Sebastien Nicolas Joachim – trung uý hải quân Pháp đọc “Tuyên cáo xâm lược”, chính thức đặt ách cai trị thực dân đối với Côn Đảo. Bản tuyên cáo này được bảo quản trong hồ sơ số 3494.GD, phông Thống đốc Nam kỳ, nội dung như sau:

Hôm nay, thứ 5 ngày 28/11/1861, vào lúc 10h sáng

Tôi tên là Lespès, Sébastien Nicolas  Joanchim, Đô đốc chỉ huy trưởng chiến hạm Morzagaray, theo lệnh của chính phủ Pháp, nhân danh Hoàng đế Napoléon III,  tiến hành đánh chiếm Côn Đảo…

Việc đánh chiếm này diễn ra trước sự chứng kiến của các sĩ quan tàu Morzagaray.

Biên bản được lập cùng ngày tại vùng Tây – Nam Côn Đảo.

Ký tên: J.Lespès

Nhưng không tổ chức khai thác thuộc địa như các vùng đất khác, cho rằng, Côn Đảo là nơi đất đai cằn cỗi, khí hậu khắc nghiệt, dân thường khó có thể mưu sinh, thực dân Pháp đã chọn nơi đây cho mục đích duy nhất là làm nơi lưu đày tù nhân. Ngày 1-2-1862, Bonard – đại diện cho chính quyền thực dân Pháp ở Nam kỳ, ký quyết định thành lập nhà tù Côn Đảo – quyết định mở đầu của hơn một thế kỷ bi tráng trong lịch sử phát triển của đảo.

Về quản lý hành chính, trong hai thập niên đầu, thực dân Pháp giữ Côn Đảo trực thuộc sự quản hạt của tỉnh Vĩnh Long như dưới thời kỳ nhà Nguyễn. Đến ngày 16-5-1882, Tổng thống Pháp Jules Grévy ký sắc lệnh xác lập quần đảo Côn Lôn (Côn Đảo) là một quận của Nam kỳ. Mặc dù thiết lập Côn Đảo về mặt hành chính là một đơn vị cấp quận. Nhưng ngay từ ngày đầu xâm lược với mục đính duy nhất là duy trì nơi đây thành một nhà tù khổng lồ lưu đày những người Việt Nam yêu nước, chính quyền thực dân áp dụng chính sách ngăn cấm mọi hoạt động sinh sống của cư dân.

Chính sách này sau đó được chính quyền thực dân trắng trợn pháp lý hóa bằng một nghị định. Ngày 17-5-1916, Toàn quyền Đông Dương ban hành nghị định thiết lập nội quy của nhà tù Côn Đảo, trong đó quy định về việc nhà tù Côn Đảo có quyền quản lý và sử dụng mọi tài sản ở Côn Đảo. Đồng thời cấm tất cả người dân, kể cả người Âu đến sinh sống tại đây. Giám đốc nhà tù Côn Đảo có mọi quyền hành đối với đảo, vừa là người điều hành mọi hoạt động của nhà lao, quản lý về cả mặt hành chánh, cảnh sát (bao gồm cả hải cảnh) và tư pháp. Cùng với sự tàn bạo của chế độ tù đày, giám đốc nhà tù Côn Đảo còn được biết đến với danh xưng là “chúa đảo”.

Về lĩnh vực tổ chức điều hành: Nội dung tài liệu chủ yếu liên quan đến xây dựng, cải tổ, mở rộng các khu vực nhà lao, cụ thể như trong bản báo cáo về hoạt động của nhà tù Côn Đảo năm 1938 tại Hs số IIB53/192(3) phông Thống đốc Nam kỳ đã nêu:

Nhà  lao Côn Đảo bao gồm các ngục I, II, III và một số đội lao động  bên ngoài như:

          Sở lưới, Sở chuồng bò, nhà máy điện, Sở lò gạch, Sở vườn tiêu, Sở củi, trại tù phát lưu và Sở muối, nông trại Cỏ Ống, vịnh Tây – Nam và các trạm gác, Sở ruộng, Sở An Hải, Ong Hội, đảo Hòn Cau, Sở làm đường, hòn đá trắng, đội tìm kiếm vượt ngục.

          Các đội lao động trong các trại và đội xây dựng ngủ trong ngục.

          Tù nhân được phân loại và phân chia thành từng đội để làm những công việc phù hợp và giúp phát triển nhà lao.

          NGỤC I: ngục I là ngục chính có kho chứa vũ khí, phòng Đội trưởng, kho lương thực. Tổng số tù nhân bị giam ở đây khoảng từ 600 đến 700 tên…, gồm 10 phòng giam không kể ở hầm xay lúa, hầm giam, nhà bếp.

Vào lúc điểm danh, tù nhân được sắp xếp theo từng loại và từng phòng giam để phân vào đội lao động.

          Tù giam ở ngục I gồm các loại: tù khổ sai có thời hạn và vĩnh viễn, tù cấm cố, tù phát lưu bị phạt nhốt giam, tù bị phạt nhốt hầm, tù nhốt hầm đặc biệt. Các đội lao động: các xưởng; các trại lao dịch; đội vệ sinh; các sở rẫy; lò vôi; nhà máy điện; hầm xay lúa; nhà bếp; phòng giam số 6 “tù bán chính trị”, tù nguy hiểm không được phép ra ngoài….

          NGỤC II: Tổng số tù nhân trong ngục này là 110 tên tù chính trị. Bọn chúng không bao giờ đi ra khỏi khoảng sân rộng trong đó. Chúng nuôi gia cầm, trồng rau để cải thiện bữa ăn hàng ngày.

          NGỤC III: Ngục này nằm hơi xa thị trấn, dùng để giam tù cấm cố. Tù nhốt hầm ở đây khoảng 90, hay 100 tên…. Đội thợ xây, các đội làm vườn, làm bếp, tù nhân bị bệnh, đang điều trị là 80 tên. Ngoài ra, còn có phòng an ninh, nơi giam các thành phần “kích động và nguy hiểm” cho việc giữ gìn trật tự và kỷ luật. Phòng giam này được thành lập vào tháng 6/1938.

          Các đội lao động bên ngoài được thành lập:

Sở lưới: bao gồm 50 người, có nhiệm vụ hàng ngày đi đánh cá. Chúng được trang bị thuyền, tàu và phải đảm bảo các hoạt động đánh bắt ở cửa biển, cũng như đời sống hàng ngày trong tù.

Chuồng bò: Đây là đội lao động bên ngoài hùng hậu nhất gồm: 230 đến 250 tù nhân. Lò gạch, Sở tiêu, khai thác gỗ trên rừng thường gắn chung với Chuồng bò. Khoảng 90 tên khai thác gỗ cung cấp toàn bộ củi dùng cho nhà lao, cho lò vôi, làm than củi, làm gạch. Một khu vườn rộng cung cấp rau xanh cho nhà lao. Ngoài ra còn có một chuồng mới được xây dựng có thể chứa được 36 con.

Các xưởng: gồm 150 lao động tù nhân, đủ mọi ngành nghề: thợ mộc, thợ cưa, đóng xe, thợ máy, thợ rèn, thợ khóa…, việc chế tạo và sửa chữa các loại vật dụng bằng gỗ và sắt được giao cho các xưởng này. Tàu, thuyền, bè ở Côn Đảo, và những vật liệu bánh lăn có đường kính 60cm, đều được sản xuất tại đây.

Nhà máy điện, nhà máy nước đá và phòng lạnh: có một đội ngũ nhân công tù nhân là 20 người.

Sở Xây dựng: Hơn 100 tù nhân tham gia vào đội xây dựng. Tất cả các công trình xây dựng mới, sửa chữa lều trại đều do nhân công tù nhân làm.

Sở gạch: Sở này cung cấp các loại gạch, ngói, gạch lát cho đội thợ xây (60.000 tấm), cho Sở vôi (40.000 tấm) dùng để nung. Mỗi năm Sở gạch sản xuất từ 3-400.000 tấm.

Sở tiêu và sở củi: gồm 90 nhân công: 60 làm công việc chặt củi; 30 làm công việc trồng tiêu.

Trại tù phát lưu và Sở muối: tất cả tù phát lưu tập trung ở trại này, Chúng làm việc trong các Sở rẫy, ruộng muối, hầm đá, và ở hòn đá trắng.

Trại Cỏ Ống: Có 80 tù nhân làm việc ở đây, họ chủ yếu trồng lúa và làm vườn.

Vịnh Tây Nam và đồn canh gác: Đội canh gác vịnh này được thành lập,  gồm 20 tù nhân cho Vịnh Tây Nam và 10 tù nhân làm việc ở đồn canh gác… Những tên này thỉnh thoảng đi làm vườn và đánh bắt rùa vào mùa mưa.

Sở ruộng: Đội nhân công tù nhân này có nhiệm vụ trồng lúa ở thị trấn.

Sở rẫy của tù nhân, Sở An Hải, Ông Hội: Các Sở này được trồng rau củ của Pháp, theo mùa. Đến mùa mưa, nhân công tù nhân ở đây sẽ trồng các giống rau củ của người Việt. Tù phát lưu làm việc ở Sở An Hải và Ông Hội. Sở rẫy của tù nhân là nơi làm việc của đội nhân công tù nhân ở ngục III.

Sở làm đường, đèo: 120 nhân công tù nhân người Cao Miên chịu trách nhiệm tuyến đường mòn này, nối trung tâm thị trấn đến vịnh Tây Nam, và nếu có thể , sẽ tiếp tục chạy dài đến trại Cỏ Ống. Tuyến đường giao thông này đã được thực hiện từ nhiều năm rồi. Nó giúp cho việc theo dõi một cách hiệu quả các vụ vượt ngục ở Côn Đảo.

Đồn điền Đá Trắng: Một đội 20 tù nhân được đưa đến đây đề trồng chuối.

Đảo Hòn Cau: 20 hoặc 25 tù sắp mãn hạn được đưa đến đảo này để làm vườn và đánh bắt rùa vào mùa mưa.

Sở tìm kiếm vượt ngục: giống như tên gọi của mình, đội này có nhiệm vụ truy lùng và bắt lại các tên vượt ngục. Đội này bao gồm từ 10-15 tên tù, có phẩm chất tốt và can đảm”.

Hoặc như trong báo cáo ngày 30/10/1942 tại hồ sơ số G8/94 phông Thống đốc Nam kỳ, Giám đốc Khám lớn Sài Gòn đã đưa ra một số ý kiến cải tổ nhà tù Côn Đảo để tránh vượt ngục

 “…Cũng như các nhà tù khác, tôi cũng nhận thấy kỷ luật nơi đây hơi lỏng lẻo, và nguyên nhân không phải hoàn toàn do không đủ nhân sự quản lý, mà sự yếu kém chung này xuất phát từ những nhân viên cai ngục đến từ Khám lớn Sài Gòn.

Trang phục của cai ngục người Pháp và cả người Đông Dương rất luộm thuộm. Cai ngục người Pháp không đội nón theo đúng quy định, viện cớ là trời nóng, không mang súng mẫu 92, kêu là quá nặng, và thay bằng súng lục nhỏ hơn, kích cỡ 6;35.

Ngoài ra, viện cớ là 3 tháng nay không có liên lạc với Nam kỳ, nên các cai ngục không đủ quần áo kaki để mặc, họ chỉ mặc trang phục bằng vải toan màu xanh trong lúc làm nhiệm vụ. Từ thái độ làm việc sai quy tắc này đã dẫn đến một kết quả công việc không tốt. Cuối cùng, là việc thiếu các huân chương, huy hiệu lấp lánh phải đeo theo đúng quy định: một cai ngục khai rằng, họ đã chờ đợi các huy hiệu này từ  Sài Gòn đã 7 tháng nay rồi.

Người Chỉ huy ở đây có quyền bắt buộc các cai ngục phải ăn mặc đúng quy định, bởi vì tất cả nhân viên người Pháp đều nhận được tiền trợ cấp trang phục.

Tôi nhận thấy rằng, Giám đốc nhà lao phải đưa ra mức kỷ luật và các huấn thị nghiêm khắc đối với vấn đề này.

Riêng về nhân viên Sở ngục người Đông Dương, họ còn bi thảm hơn: trang phục lôi thôi, xộc xệch, giày đi kêu lộp cộp, được trang bị súng nhưng phần lớn là không biết sử dụng.

Các cai ngục luôn luôn đứng riêng lẻ. Trong thời gian lục soát phạm nhân, các cai ngục thường không tập trung: Nếu để súng rơi xuống vai, thường là các phạm nhân sẽ là người dựng lên cho họ, với một thái độ vờ như kính trọng vị chỉ huy: thật là ngạc  nhiên khi đến giờ vẫn chưa thấy phạm nhân nào tước vũ khí và chiếm quân dụng của cai ngục, khi họ chỉ có 1 mình đứng trong đám đông toàn tù nhân.

Các phòng giam không được chắc chắc. Cần phải hủy bỏ:

  1. Tất cả các khung cửa sắt trong mỗi phòng giam, vì nó rất thuận tiện cho phạm nhân trèo lên mái nhà. Nên thay các khung cửa sắt này bằng cách khóa 2 lớp cửa phòng giam.
  2. Hố xí bằng kim loại, được quấn tròn bằng sợi dây sắt”: cần phải thay bằng gỗ, với các cột bằng mây.
  3. Các chìa khóa bình thường: cần phải thay bằng các khóa hiệu “Yale” và nhất là phải để chìa khóa bên ngoài phòng giam, ngoài tầm với của phạm nhân.
  4. Các phòng làm việc đối diện với cửa phòng giam, vì các phòng này có thể quan sát được qua lỗ cửa phòng giam. Cần phải thay đổi việc này vì sự cần thiết của công việc canh gác.
  5. Ở mỗi cửa phòng giam, đều có các lỗ cửa nhỏ. Các cai ngục và giám thị nếu đặt một mắt quan sát phạm nhân qua lỗ cửa nhỏ này, sẽ có nguy cơ bị phạm nhân làm cho bị thương, thậm chí có thể gây chột mắt với chỉ một cộng rơm cứng…”.

Cùng với tổ chức điều hành, chính quyền Pháp cũng ban hành nhiều văn bản hành chánh, đề ra các quy định cụ thể về chế độ giam giữ, phân loại tù nhân tại nhà tù Côn Đảo. Theo đó, nhà tù Côn Đảo không chỉ là nơi giam giữ tù nhân chịu án lâu năm, mà đôi  khi còn dành cho những tù nhân có mức án dưới 2 năm với mọi loại án.

Theo như trong báo cáo của Thanh tra Thuộc địa năm 1935-1936, hồ sơ số III6/N04(2), phông Thống đốc Nam kỳ, chính quyền Pháp đã ban hành một số văn bản quy định các loại án cho tù nhân tại nhà tù Côn Đảo như sau:

“Án lưu đày, được thực hiện theo nghị định ngày 11-01-1915. Những tù nhân án lưu đày chủ yếu bị giam tại ngục 1 và ngục 2 – nơi được xem là những ngục kiên cố nhất Côn Đảo.

Án câu lưu được xử theo điều 20 luật hình sự và được sửa đổi bởi Sắc lệnh ngày 31-12-1912 của chính quyền thực dân Pháp.

An cấm cố, theo nghị định của Toàn quyền Đông Dương ngày 19-01-1893, tù cầm cố và tù câu lưu phải được giam riêng. Nhưng do chưa xây đủ nhà giam nên trong giai đoạn đầu 2 loại tù này bị giam chung với tù lưu đày. Sau này, giám đốc nhà tù Côn Đảo cho xây thêm ngục số 3 để giam giữ tù cầm cố.

Án khổ sai cùng chịu các chế độ tù đày như các tù nhân khác, nhưng được thành 3 loại với công việc và tiền công lao động khác nhau.

Án nhốt  hầm dành cho những tù nhân vi phạm kỷ luật trong thời gian thụ án.

Án phát lưu, đây là loại án nhẹ, tù nhân được nhốt ở 2 trại phía ngoài, nơi thích hợp cho công việc đồng áng. Số còn lại được sử dụng làm vườn, làm công việc vệ sinh hay làm việc trong các xưởng…”.

Ngoài ra, qua khối tài liệu về Côn Đảo này, người đọc có thể tìm hiểu được nội quy sinh hoạt của tù nhân, các quy định về khẩu phần ăn hàng ngày, số lượng tù nhân bị giam giữ tại đây… cũng như các phong trào đấu tranh của các tù nhân chính trị trong các hs số II 53/182(3) và G80/46, GIIA45/291(2) IIA45/223(4), IIA45/263(6), IIA45/304(3), 5048, 5046, 5081… phông Thống đốc Nam kỳ. Trong Công văn ngày 31/12/1941, hồ sơ số IIA45/223(4) phông Thống đốc Nam kỳ, Giám đốc nhà tù Côn Đảo đã báo cáo về hoạt động đấu tranh của tù chính trị:

Chúng ta cũng biết rằng người Nhật đến Đông Dương đã gây nên sự náo động trong các ngục. Tù nhân vốn không được thông tin về diễn biến chính trị và tình hình thế giới, bị tước hầu như tất cả các thông tin dù là những thay đổi nhỏ nhất về cuộc sống trên đảo. Nhưng từ khi người Nhật đến, một số tên tù chính trị lợi dụng việc này để tuyên truyền trong nhà tù

Để sự việc không vượt quá giới hạn, tôi đã yêu cầu lính canh không để sự việc diễn ra nữa và báo lại cho tôi biết ngay để trừng trị nghiêm khắc, tôi xin được trình cho Ngài những sự việc sau đây:

1/ Từ lâu tôi đã biết rằng, các tù nhân bị kết án 5 năm vì can tội âm mưu lật đổ chính quyền, đã tổ chức một số phiên họp bí mật bên trong các phòng giam ở Banh số 3. Tôi đã yêu cầu lính canh đặc biệt giám sát họ. Và ngày 23 tháng 11, ông Bonifay, làm việc ở Banh số 3, đã biết được nội dung phiên họp mà tên tù trong phòng giam đó tổ chức, cuộc thảo luận rất sôi nổi, nội dung phiên họp đã được dịch lại nhờ người giám ngục số 38, như : lý do tham gia Đảng Cộng Sản, phản ứng của tù nhân chống lại cai ngục Pháp… Tên tù đã tổ chức phiên họp này chính là tên phản trắc Nguyen Van Khue, số tù 9693, bị Tòa án quân sự Sài gòn kết án tù chung thân khổ sai vì can tội phản quốc. Phòng giam của hắn ở cạnh những phòng giam giữ các tù nhân bị kết án âm mưu lật đổ chính quyền. Chính từ đó mà các phiên họp trong các phòng giam đã được lan rộng khắp ở Banh số 3. Ngay tức khắc, hắn đã bị nhốt vào xà lim trong 60 ngày và cả phòng đó bị nhận hình phạt đeo hòn sắt trong 10 ngày.

2/ Sau khi người Nhật đến Đông Dương, ngày 15 tháng 12, cai ngục Belcome làm việc ở Banh số 3, đã nghe được tên tù ở phòng giam số 4, đang nói chuyện với đồng bọn của hắn. Cai ngục này đã được người giám ngục số 63 dịch lại nội dung buổi thảo luận đó, liên quan đến mối quan hệ giữa hai nước Pháp – Nhật, rằng: theo thỏa thuận giữa hai nước trên thì chế độ lao ngục rất tàn nhẫn. Tên tù diễn thuyết đó đã bị các bạn tù của hắn tố giác, hắn là Huynh Van Tam số tù 210, bị kết án 5 năm tù vì tội âm mưu lật đổ. Ngay lập tức hắn bị giam 60 ngày trong xà lim cách ly

3/ Vào buổi tối ngày 16, cai ngục tình cờ nghe được âm mưu phá hoại của các tên tù tại các phòng giam số  6 và 7 ở Banh số 3. Cai ngục Mr Manfredi đã nhờ người giám ngục dịch lại nội dung phiên họp. Phiên họp rất sôi động. Những tên tù diễn thuyết này là tên Huynh Van Thuong, số tù 211, vốn được biết đến với tài ngâm thơ để mua vui cho đồng bọn và tên tù Huynh Văn Kien, số tù 1200, được biết đến với việc hát nhạc quốc tế. Các tên này bị kết án tù giam: Tên thứ nhất bị kêu án 5 năm, tên thứ 2 là 2 năm.

Mặt khác tôi xin báo rằng tên tù Nguyen Van Tao, số tù 9902, đang ở trạm quân y. Nhờ vào thông tin giữa các tên tù bị giam trong phòng giam và tên cầm đầu đang ở trạm quân y, tôi đã dám chắc rằng, tên cầm đầu này, bằng cách này cách kia, đã thành công trong việc báo tin cho các tên bạn tù của mình.

Tôi đã sớm cho 3 tên tù vào xà lim cách ly trong 60 ngày và đeo cùm sắt cho những tên tù khác ở các phòng giam này trong vòng 1 tháng.

Sáng ngày 18, tôi đã đến các phòng giam này để xử phạt chúng, nhằm cho chúng biết rằng, sẽ có những hình phạt thích đáng dành cho chúng nếu chúng lập lại các hành động như trên, và đồng thời giải thích cho chúng biết về sự hiện diện của người Nhật trên đảo.

Khi tôi vừa mới rời khỏi phòng giam, thì tên Phan Dinh Cac, số tù 1093, bị kết án 2 năm ở nhà tù, vì tội đe dọa an ninh Nhà nước, đã yêu cầu được nói chuyện với tôi. Cai ngục trưởng đã dẫn hắn vào phòng tôi và hắn đã khai với tôi ( lời khai đính kèm ) rằng, bọn tuyên truyền không chịu hối cải mà vẫn đang tiếp tục tuyên truyền trong nhà tù

Tôi đã đưa hắn vào giam ở một Banh khác , trong khi chờ đợi thời gian đưa hắn đến Hòn Cau.

Duong Bach Mai và Le Hong Phong ngay lập tức được đưa đến xà lim cách ly trong 60 ngày và các tên còn lại này ở tất cả các phòng giam sẽ chịu hình phạt đeo hòn sắt trong 10 ngày và bị xiềng xích cho đến khi có lệnh mới. Để an ninh hơn, tôi đã đưa chúng vào các phòng giam của Banh số 2, vì các phòng giam này cao hơn và an ninh hơn.

Tôi đến các phòng giam tiếp theo và đưa ra hình phạt, tôi đã hỏi liệu có tên tù nào khác có muốn khai gì với tôi không, nếu không muốn bị phạt. Nguyen An Ninh, số tù 9901 và Pham Van Kinh, số tù 960 đã đến trình diện. Lúc đầu thì bọn họ luôn luôn che giấu, rồi tỏ vẻ không biết gì đến cộng sản và khai với tôi là cũng không liên quan gì đến âm mưu của các phòng giam khác. Và cuối cùng, sau một lúc ngập ngừng, tên tù  960 đã khai nhận với tôi …”

Nhìn chung, đây là một khối tài liệu rất quan trọng, có giá trị về mặt lịch sử rất lớn. Nó phản ánh đầy đủ và chân thật chính sách cai trị, đàn áp người Việt của chính quyền thực dân, từ những ngày đầu xây dựng, thành lập nhà tù cho đến năm 1945. Vì vậy, từ một quần đảo kỳ vĩ, giàu tiềm năng, Côn Đảo chìm trong gần một thế kỷ của một “địa ngục trần gian”, trở thành chứng tích của những ngày tháng bị đọa đày trong lao ngục thực dân, đế quốc của biết bao thế hệ những người Việt Nam yêu nước.

Trần Thị Thùy Linh

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

  1. Procès verbal de prise de possession de l’archipel de Poulo Condore. 1861. Hs số G.Divers. 3494 phông Thống Đốc Nam kỳ, Trung tâm Lưu trữ quốc gia II
  2. Rapport de l’ Insptecteur de 2e classe des Colonies en 1935-1936. HS số III60/N04(2) phông Thống đốc Nam kỳ, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II.
  3. Rapport en 1938. HS số IIB53/192(3) phông Thống đốc Nam kỳ, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II.
  4. Rapport sur la reconstruction de Poulo Condore en 1942. HS số G8/94 phông Thống đốc Nam kỳ, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II.
  5. Note du 31/12/1941 du Directeur du pénitencier de Poulo Condore au Gouverneur de la Cochinchine. HS số IIA45/223(4) phông Thống đốc Nam kỳ, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II.
Rate this post

Thăm chùa Tam Bảo Rạch Giá – nơi ra đời của tạp chí “tiến hóa”

Chùa Tam Bảo tọa lạc trên một khu đất rộng gần 4.000m² ở đường Sư Thiền Ân, TP.Rạch Giá (Kiên Giang). Chùa có lối kiến trúc tổng thể độc đáo, bố cục gọn gàng, kết hợp hài hòa các chất liệu gạch, gỗ, đá.

Đây là nơi được vua Gia Long ban sắc phong, cũng là nơi hoạt động của Đảng Cộng sản Đông Dương tỉnh Rạch Giá trước năm 1945. Nơi đây ra đời của “Tạp chí Tiến hoá” một trong những tờ báo tiên phong của phong trào cách mạng Việt Nam. Chùa còn là một trong những nơi sản xuất và cất dấu vũ khí cho cuộc Khởi nghĩa Nam kỳ.

Trong quá trình hoạt động cách mạng tại đây đã ghi nhận những tấm gương khí tiết sáng ngời của những chiến sỹ cộng sản mặc áo cà sa, góp phần viết nên truyền thống đấu tranh cách mạng kiên cường của Đảng bộ và nhân dân Kiên Giang thời kỳ tiền khởi nghĩa. Chùa vẫn còn giữ được nét kiến trúc cổ và đã được Nhà nước công nhận di tích lịch sử văn hoá cấp Quốc gia năm 1998.

Chùa Tam Bảo Rạch Giá

Truyền thuyết chùa Tam Bảo

Tương truyền : Khi quân Tây Sơn đánh vào Gia Định , Nguyễn Anh sống sót dẫn một toán quân đi lánh nạn ở vùng biển Hòn Tre (huyện Kiên Hải). Trong lúc quân lính đói khát thì Bà Hoặng (tức Dương Thị Can) là người phụ nữ không có chồng con, nhưng là người giàu có ở trên đảo đã tiếp ứng cho chúa Nguyễn một ghe chở đầy gạo, muối và tơ tằm để quan quân họ Nguyễn qua cơn nguy khốn. Khi Nguyễn Anh lên ngôi Hoàng đế, đã cho người đi tìm Bà Hoặng ở Hòn Tre để báo ơn. Lúc này Bà đã vào đất liền, dựng một ngôi chùa nhỏ mái tranh vách đất vào năm 1802 ở Rạch Giá thờ đức Thích Ca Mâu Ni Phật. Quá trình tu, bà Hoặng luôn hướng về “tam bảo” mà theo bà đó là công đức quan trọng nhất của mọi nhà tu, cho nên bà đặt tên chùa là Tam Bảo. Tam Bảo chính là ba ngôi báu: Phật Bảo, Pháp Bảo, Tăng Bảo: Phật bảo là người giác ngộ không đam mê dục vọng thấp hèn, không tham lam trục lợi, không si mê mọi sự cám dỗ của vật chất, từ đó là có lòng vị tha, bao dung cao cả, mọi sự cám dỗ không làm lay chuyển được mình. Đó là đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Pháp Bảo là những lời dạy của đức Phật cho chư tăng được thể hiện ra trong kinh, luật và luận. Trong đó Phật đã tổng hợp mọi điều mà các tu sỹ phải làm theo. Tăng Bảo là một đoàn thể tăng già hoà hợp từ bốn vị trở lên, đi theo con đường chân lý của Phật, là những vị sư đứng giữa Phật và chúng sinh.

Sau khi bà Hoặng qua đời, Vua Gia Long (1802 – 1820) đã sắc phong cho ngôi chùa của bà là “Sắc Tứ Tam Bảo Tự”. Trong đó chữ “Sắc” : nghĩa là lệnh của Vua ban cho thần dân, đó là một loại giấy tờ cao nhất của triều đình do Vua ký và đóng dấu. Chữ “Tứ” : nghĩa là ban cho. Chữ “Tam Bảo” là ba ngôi báu: Phật Bảo, Pháp Bảo, Tăng Bảo. Chữ “Tự” có nghĩa là chùa. Rất tiếc là tấm sắc phong này đã bị mất trong thời kỳ bị giặc Pháp bố ráp những năm 30-40 của thế kỷ trước. Sắc phong của chùa trước đây là một loại văn bản bằng chữ nho có ấn tín của nhà vua viết trên nền giấy in nổi hoa văn rồng phượng màu vàng (kích thước khoảng 0,5 x1,2 m).

Nét đẹp không gian kiến trúc chùa Tam Bảo

Trải qua hàng trăm năm tồn tại, chùa Tam Bảo được trùng tu tôn tạo nhiều lần với nhiều thế hệ nhà sư trụ trì. Đây là ngôi chùa có nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc khá đẹp với một không gian yên tĩnh, trang nghiêm. Năm 1913 Hoà thượng Nguyễn Văn Đồng, Pháp danh Thích Trí Thiện hiệu Hồng Nguyện, đời thứ 39 dòng Lâm Tế về đây trụ trì cho xây dựng lại chùa, đến năm 1917 thì khánh thành. Gỗ xây chùa, gỗ tạc tượng đều được mua về từ Campuchia. Lần trùng tu gần đây nhất là năm 2000 chùa được xây dựng lại sạch đẹp, khang trang.

Khuôn viên chùa Tam Bảo Rạch Giá

Từ ngoài lộ du khách bước vào cổng chùa được xây theo lối kiến trúc mái Tam Quan, lợp ngói ống, các họa tiết trang trí như chữ “Vạn”, bông sen tượng trưng cho Phật pháp được đắp bằng vữa. Trong sân có cây bồ đề cổ thụ bốn mùa xanh tươi. Phật thoại có ghi rằng : “Khi đức Phật Thích Ca thành đạo, ngài ngồi thiền dưới cội bồ đề”. Dưới cội bồ đề, người nghệ nhân đã khéo léo tạo tác bằng chất liệu xi măng hình tượng đức Phật A Di Đà đang ngồi thiền định, trên đầu là 7 con rồng che chở cho ngài. Hình tượng trên gắn liền với tích truyện của Phật giáo, đó là xa xưa khi đức Phật “nhập định” dưới Thủy Cung đã được Long Vương tình nguyện hóa thân thành 7 con rồng để làm ngai đỡ cho Phật ngồi. Trong sân chùa có ngọn Tam Bảo Tháp được xây ba tầng. Tầng trên cùng là để thờ Phật. Tầng giữa thờ kinh và tầng dưới thờ tro cốt của các Hoà thượng đã trụ trì chùa Tam Bảo như Hòa thượng Thích Trí Thiện, hòa thượng Thích Bảo Châu vv…

Từ sân chùa, du khách vào Tây Lang là dãy nhà phía trước, bên phải Chánh điện. Nhà Tây Lang gồm 3 gian, mái lợp ngói, nền lót gạch Tàu dùng để làm Phòng thuốc nam miễn phí gọi là “Tuệ Tĩnh Đường”.

Từ Tây Lang có cửa thông ra một hồ sen trồng toàn sen trắng. Hoa sen là hiện thân của sự thanh cao trong sáng, thường gắn với đạo Phật. Phật ngồi trên đài sen đã trở thành một hình ảnh quen thuộc, trong hoa sen đã có quả, tượng trưng cho ý nghĩa nhân –quả của Phật pháp. Một cây cầu nhỏ, cong cong được bắc ngang hồ sen tạo lối dẫn lên bậc tam cấp đặt bức tượng Quan Thế Nam Hải cao khoảng 2 mét, đang đứng trên một toà sen. Hai bên cầu trang trí hình bánh xe tròn tượng trưng cho vòng luân hồi của tạo hóa. Ý nghĩa của cây cầu tượng trưng cho điểm cao của sự giác ngộ, còn hồ sen là tượng trưng cho chiều sâu của sự giải thoát. Xung quanh hồ sen là đủ các loại cây kiểng, nào là Hải Đường, nào là Thược Dược, Thiết Mộc Lan …… Hương thơm từ hoa cỏ quyện lẫn trong mùi hương trầm ngan ngát khiến du khách cảm thấy sảng khoái, quên hết mọi ưu phiền. Nếu có thời gian du khách hãy nán lại bên những khóm hoa, bởi ở đó nhà chùa có treo những tấm bảng nhỏ xinh ghi lại cảm xúc của các vị hòa thượng cũng như du khách có thi hứng khi viếng cảnh chùa).

Đối diện với Tây Lang là Đông Lang. Đây là dãy nhà được dùng làm Trụ sở Văn phòng thường trực của Ban trị sự Tỉnh hội Phật giáo Kiên Giang. Trong dãy nhà Đông Lang còn dành ra một gian làm phòng truyền thống trưng bày nhiều hình ảnh truyền thống của Phật giáo Việt Nam. Trong đó có những hình ảnh nổi bật như các vị lãnh đạo Đảng, nhà nước về thăm chùa qua các thời kỳ. Anh chân dung các vị Hòa thượng gắn liền với lịch sử đấu tranh cách mạng chùa Tam Bảo như các vị: Thích Trí Thiện, Thích Thiện An, Thích Thiện Chiếu, Pháp Linh…

Tòa Chánh Điện là dãy nhà tường xây, nền tôn cao 70 cm. Trên các vách tường, riềm cửa, người ta lắp vào đó những khuôn bông có hoa văn trổ thủng thay thế cho những cửa sổ. Chùa có ba tầng mái ngói, được lợp bằng ngói ống. Những hàng cột gỗ đen to, thân cột phình ra được đục đẽo thành hình bát giác trông có vẻ vững chắc hơn. Chánh điện được chia làm ba gian, mỗi gian đều có bàn thờ. Các bao lam bằng gỗ được chạm hình nổi, sơn son thếp vàng các hình rồng phượng, hoa lá, chim muông, đầy tính nghệ thuật tạo ấn tượng linh thiêng cho người xem. Trong đó hình tượng con rồng được sử dụng nhiều nhất. Xa xưa đã trở thành một biểu tượng nhất nguyên về vũ trụ, vừa ở dưới nước, vừa ở trên trời. Trong các thư tịch cổ và truyền thuyết dân gian, con rồng thường xuất hiện để nói lên vận mệnh của đế vương hoặc là hiện thân của thần nước.

Nhà Hậu Tổ là dãy nhà ba gian lợp ngói ống dùng làm nơi thờ vị tổ phái thiền dòng Lâm Tế và các vị Hòa thượng trụ trì chùa Tam Bảo qua các thời kỳ. Điểm độc đáo nhất của nhà Hậu Tổ là hai cánh cửa bằng gỗ lim dày khoảng 10 cm được biến thành một tác phẩm điêu khắc tinh xảo tuyệt đẹp với hình tượng thần Kim Cang gác cửa.

Hệ thống tượng phật và nét đẹp tín ngưỡng

Chùa Tam Bảo có nhiều pho tượng rất đẹp và thể hiện trình độ cao về kỹ thuật điêu khắc.

Tại Chánh điện, theo hướng từ ngoài cửa chính đi vào thì dãy Bàn thờ thứ nhất đặt tượng thờ Đức Phật Chuẩn Đề bằng gỗ 18 tay ngồi xếp bằng trên lưng con khổng tước cao 1.85 thước. Mặt tượng mang vẻ đẹp hiền từ. Những bàn tay có nét mềm mại uyển chuyển như đang múa. Đây chỉ là một loại hình của tượng Quan Âm (còn gọi là Quan Thế Âm – Avalokitecvara). Sự tích về Quan Âm có từ đời nhà Nguyên bên Trung Quốc được truyền vào Việt Nam từ thế kỷ XV rồi từ từ được “Việt hóa”. Tích truyện kể rằng : Công chúa Diệu Thiện là con thứ ba của vua Diệu Trang. Nàng đã từ bỏ cuộc sống vinh hoa phú quý chốn cung đình để tu hành. Quá trình tu hành khổ hạnh gặp phải biết bao ngăn trở, kể cả sự cấm đoán của vua cha. Khi vua cha bị loạn đảng đoạt ngôi, bị mắc chứng bệnh kỳ lạ, công chúa đã dâng hiến đôi tay đôi mắt của mình để chữa trị cho cha. Với tấm lòng bồ tát bao dung cao cả như vậy, cuối cùng công chúa cũng tu thành chính quả tại chùa Hương Tích và trở thành phật bà ngàn mắt ngàn tay. Con số “ngàn” ở đây không phải là một con số toán học mà chỉ là đại từ phiếm chỉ năng lực cứu độ vô biên của Phật Quan Âm.

Những mặt tường bên trong chánh điện có vẽ các bức tranh theo điển tích của đức Phật. Chẳng hạn như bức tranh thứ nhất Thái tử Tất Đạt Đa cùng với người hầu rời bỏ hoàng cung, cưỡi ngựa vượt sông Anôma vào rừng tìm lối tu hành. Bức tranh Thái tử Tất Đạt Đa tu luyện dưới gốc cây bồ đề trở thành Phậtvv

Ngay tại cửa chánh điện chùa Tam Bảo có bức tranh vẽ cảnh Thập Điện Diêm Vương. Nó giáo dục đạo lý “ở hiền gặp lành”, “ác giả ác báo”. Thập Điện Diêm Vương là mười vị vua cai quản các miền âm ty, mỗi vị đứng đầu một điện để xét công, luận tội những người mới chết, trên cơ sở ấy mà ban thưởn ay trừng phạt, sau đó cho đầu thai ở kiếp tương ứng. Những cảnh vẽ trong Thập Điện Diêm Vương thực chất là 10 bức tranh liên hoàn miêu tả những cảnh rùng rợn mà linh hồn những tội nhân khi chết đi bị đày xuống 10 cửa điện ở âm ty để chịu các hình phạt khác nhau.

Chùa Tam Bảo hàng năm tổ chức những ngày đại lễ như : Lễ Cầu An được tổ chức từ ngày mùng 8 đến rằm tháng Giêng âm lịch. Lễ Phật Đản được tổ chức long trọng vào ngày rằm tháng Tư âm lịch, kỷ niệm ngày đức Phật ra đời. Lễ Vu Lan (rằm tháng Bảy vào rằm tháng Bảy âm lịch).

Chùa Tam Bảo – những dấu ấn lịch sử

Thời kỳ tiền khởi nghĩa ở Rạch Giá.

Thời kỳ 1936 -1939 ở nước Pháp lực lượng dân chủ và tiến bộ dành được thắng lợi trong cuộc bầu cử. Chính phủ Pháp có nhiều cải cách đối với các nước thuộc địa. Đảng ta có chủ trương chuyển hướng hoạt động công khai. Tại chùa Tam Bảo, ta tranh thủ những người có cảm tình với cách mạng đứng ra thành lập hội Phật học kiêm tế Rạch Giá. Ban đầu chỉ có 3 vị sư là Hoà thượng Thích Trí Thiện, Thích Thiện Chiếu và nhà sư Pháp Linh chủ động làm nòng cốt thành lập Hội để biến chùa Tam Bảo trở thành một căn cứ kháng chiến bí mật. Danh từ “Hội Phật Học Kiêm tế” nghĩa là hội không chỉ nghiên cứu Phật học mà còn để thực hành “kinh bang tế thế”, dùng tôn giáo để hoạt động chính trị, lãnh đạo phong trào yêu nước tại địa phương.

Tháng 1 năm 1938 Hội ra tạp chí Tiến Hoá làm cơ quan ngôn luận. Thông qua tạp chí Tiến Hoá quần chúng nhân dân sẽ được giác ngộ cách mạng, từ đó mạnh dạn đứng lên đoàn kết thành một lực lượng cách mạng hùng hậu đấu tranh chống Thực dân Pháp xâm lược. Ngày 1/1/1938 Tạp chí Tiến Hoá đã ra mắt số đầu tiên. Nội dung Tạp chí gồm các phần như: thông luận, diễn đàn, phê bình nghiên cứu, bách khoa thưởng thức, thời cuộc. Đây là tờ tạp chí có nội dung phong phú lành mạnh nhất so với các báo chí Phật giáo lúc bấy giờ. Mục triết học thường thức bàn về duy tâm luận và duy vật luận để quần chúng biết thế nào là duy vật biện chứng. Mục bách khoa thường thức để truyền bá khoa học. Mục y học hướng dẫn trị các chứng bệnh thông thường. Mục tin tức thường đưa tin về nước Pháp để quần chúng hiểu được nước Pháp không phải là cường quốc, nước Pháp không có gì đáng sợ.

Tạp chí Tiến Hóa nghiên cứu về Phật giáo nhưng có tư tưởng rất tiến bộ. Tư tưởng đó thể hiện như : Chống lại chính sách ngu dân, mị dân của thực dân Pháp, chống lại chính sách ru ngủ quần chúng bằng kinh sách, bằng mê tín dị đoan, Tạp chí tiến hóa còn đề cập đến vấn đề xã hội như mở trường học, lập cô nhi viện, lập phòng khám bệnh và phát thuốc, vận động tập thể dục vv….

Tạp chí Tiến Hóa là tạp chí cách mạng, tuyên truyền tinh thần yêu nước chống Thực dân Pháp và truyền bá chủ nghĩa Mác Lên nin. Báo ra được 15 số (1938-1939) thì phải đóng cửa trước sự bố ráp của kẻ thù.

Trạm giao liên của Tỉnh uỷ Rạch Giá

Trong thời kỳ Đảng còn hoạt động bí mật, nhiều cuộc họp bí mật của Đảng diễn ra tại chùa. Sau cuộc khởi nghĩa Nam kỳ bị thất bại, Tỉnh uỷ lâm thời Rạch Giá chọn chùa Tam Bảo làm đầu mối giao thông liên lạc, đồng thời làm nơi cất dấu vũ khí từ rừng U Minh Thượng đưa về. Công việc đang tiến hành trôi chảy thì đầu tháng 6 năm 1941, cơ sở bị lộ.

Đêm 14/6/1941 lính mật thám Sa Đéc cùng Sở mật thám Rạch Giá bao vây chùa Tam Bảo, rồi một toán ập vào chùa lục soát, bắt người. Đồng chí Trương Minh Cụ có mặt trong chùa nhưng tẩu thoát. Đồng chí Cụ gặp đồng chí Lâm Xuyến là thợ điện ở nhà máy đèn Rạch Giá, hai người đi báo cho đồng chí Trần Văn Thâu chuyển số lựu đạn ra khỏi chùa Tam Bảo nhưng không kịp. Nhiều người đã chạy thoát. Trong chùa đêm đó chỉ còn Hòa thượng Thích Trí Thiện (tức Nguyễn Văn Đồng), Hoà thượng Thích Thiện Ân ( tức Trần Văn Thâu) thầy giáo Tất và một vài cô vãi.

Bọn lính lục soát từ Chánh điện, đến nhà Hậu tổ và các Liêu. Khi xét trong nơi ở của hoà thượng Thích Thiện Ân bắt gặp nhiều lon sữa bò, chão bể, cọ sơn, dầu hắc, những ống tre đựng tài liệu mật, những truyền đơn …. Vì không khai, hoà thượng bị giặc đánh đập tra tấn rất tàn nhẫn. Khi chúng đào từ vườn chùa phát hiện được một cái khạp trong đó đựng 61 quả lựu đạn. Địch tiếp tục tra tấn, trói Hoà thượng treo lên nóc chùa. Một lúc sau Hoà thượng dụ địch rằng, vẫn còn một vài chỗ cất dấu vũ khí. Chúng bèn hạ Hoà thượng xuống và cởi trói để người chỉ nơi còn vũ khí. Khi đi ngang qua chiếc bàn chứa đầy lựu đạn, Hoà thượng nói: “Đồ này không xài bây giờ thì còn xài lúc nào nữa”. Nói đoạn, Hoà thượng liền xô mạnh chiếc bàn, một tên mật thám đỡ bàn lại, chỉ có một quả lựu đạn rơi xuống gạch nổ tung, làm cho vài tên mật thám bị thương. Chúng lại tiếp tục treo thầy Thiện An lên cao, đánh đập tra khảo.

Cuối cùng bọn lính mật thám rút ra khỏi chùa, chúng bắt hết người, vơ vét tài sản. Những người bị bắt, chúng giải đi Sa Đéc (Đồng Tháp) rồi đi tòa đại hình ở Sài Gòn. Chúng tuyên án tám Đảng viên bị kết án tử hình là : Trần Văn Thâu, Tám Lọ, Ninh thợ bạc, Râu lớn, Râu nhỏ, Phan Văn Bảy …. Chị Hồng, chị Bé, chị Bưởi án chung thân khổ sai, Bảy Đà 15 năm tù ở. Hòa thượng Thích Trí Thiện (Nguyễn Văn Đồng) 5 năm tù biệt xứ, thầy giáo Tất được tha bổng.

Tiếng bom nổ tại chùa Tam Bảo chứng minh ngọn lửa cách mạng của nhân dân Kiên Giang vẫn rực cháy và sắp bùng lên đốt sạch quân xâm lược. Đó là bước chuẩn bị tất yếu góp phần vào thắng lợi lịch sử của cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945, mở ra kỷ nguyên mới cho cả dân tộc ta.

Đấu tranh chống chế độ độc tài Ngô Đình Diệm

Sau sự kiện đêm 14/6/1941, chùa Tam Bảo bị chính quyền thực dân đóng cửa. Chùa trở nên hoang vắng đìu hiu. Trong chùa chỉ còn lại một vài bà vãi già chăm lo việc nhang khói. Phật tử cũng không dám bước chân đến chùa vì hàng ngày chùa luôn bị bọn mật thám canh gác. Cho đến khi Cách mạng tháng Tám thành công thì bọn thực dân mới run sợ, chúng cho mở cửa chùa để làm dịu bớt tình hình. Nhân đó tăng ni Phật tử mở một Đại trai đàn cầu siêu cho Hoà thượng Thích Trí Thiện, Thiền sư Thích Thiện Ân cùng các đồng chí đã hy sinh. Năm 1951 Hội Phật Học Nam Việt tỉnh Kiên Giang tiếp quản chùa và đặt trụ sở tại đây. Chùa dần trở lại sinh hoạt tín ngưỡng thu hút Phật tử trong tỉnh đến chiêm bái ngày càng đông. Hội hoạt động mạnh từ năm 1955 -1968 tham gia vào cuộc đấu tranh của Phật Giáo chống chế độ độc tài Ngô Đình Diệm. Mặc dù chùa luôn đặt dưới sự kiểm soát nghiêm ngặt của mật vụ, nhưng lực lượng đấu tranh vẫn thành công trong việc rải truyền đơn và phát tờ tin kêu gọi nhân dân vùng lên chống ách kìm kẹp của chế độ độc tài Ngô Đình Diệm.

“Sắc Tứ Tam Bảo Tự”là ngôi chùa cổ kính có niên đại từ thế kỷ 18, trải qua những bước thăng trầm lịch sử, chùa đã có đóng góp nhất định vào phong trào giải phóng dân tộc. Chùa là một cơ sở bí mật để vận động phong trào yêu nước trong giới tôn giáo giai đoạn 1930 -1945 và đấu tranh chống lại chế độ độc tài Ngô Đình Diệm nhưng năm 50 -60 của thế kỷ trước. Đây là trụ sở của Hội Phật Học Kiêm Tế, xuất bản tạp chí Tiến Hoá, phát triển các hoạt động từ thiện xã hội như: mở phòng thuốc miễn phí, mở lớp học bình dân, cô nhi viện vv…Đó chính là “Đoá hoa sen đỏ rực” ánh hào quang bác ái của đức Phật tỏa hương giữa đời thường. Chùa Tam Bảo còn là nơi ghi dấu chiến tích anh hùng thời kỳ chống Thực dân Pháp xâm lược, đây là nơi chế tạo và tàng trữ vũ khí, nơi in truyền đơn, là đầu mối giao liên giữa Xứ uỷ Nam kỳ và Tỉnh uỷ Rạch Giá. Sự hy sinh cao đẹp của Thiền sư Thích Thiện Ân và các nhà sư yêu nước của chùa Tam Bảo đã góp phần viết nên trang sử anh hùng của Đảng bộ và nhân dân Kiên Giang. Năm tháng đi qua nhưng hình ảnh của các nhà sư yêu nước sống mãi trong tâm hồn các Phật tử và nhân dân Kiên Giang.

https://dulich.petrotimes.vn/

Bùi Công Ba

Rate this post