Lưu trữ hàng tháng: Tháng Mười Hai 2020

Côn Đảo cùng cả nước kháng chiến thắng lợi (1951-1954)

Cuộc kháng chiến phát triển mạnh mẽ và thắng lợi (1951-1954), Chiến sỹ cách mạng tại Nhà tù Côn Đảo tham gia vào cuộc chiến này một cách mạnh mẽ cùng cả nước kháng chiến.

Bước chuyển tình thế

Thất bại ở Biên Giới thu đông 1950 đã làm cho thực dân Pháp nhận ra rằng, chúng không thể thắng được trong cuộc chiến tranh này bằng quân sự.

Chiến thắng Biên Giới còn để lại tiếng vang lớn trên các lĩnh vực chính trị, ngoại giao, binh địch vận. Ngay khi tiếng súng ở Biên Giới vừa ngừng, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã gặp gỡ một số tù binh Pháp tại mặt trận. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quyết định trao trả tất cả tù binh là thương binh cho quân đội Pháp tại Thất Khê. Đài tiếng nói Việt Nam công bố chính sách của Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đối với tù hàng binh trong buổi phát thanh bằng tiếng Pháp, tăng thêm lượng tin tức chiến sự và tù hàng binh. Lễ Nôen 25-12-1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký lệnh ân xá cho một sô tù binh Pháp.

Chính sách nhân đạo của Chính phủ Hồ Chí Minh đối với tù hàng binh Pháp có tác động mạnh đến binh lính và nhân dân Pháp. Quan tư thầy thuốc Đuyarít (Duaris) sau khi được ấn xá đã lên tiếng tố cáo Chính phủ Pháp đã lừa gạt, đẩy thanh niên Pháp vào cuộc chiến tranh xâm lược bẩn thỉu. Bị điều về nước, Đuyarít tiếp tục phản đối cuộc chiến tranh xâm lược và tuyên truyền về chính sách nhân đạo của Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Nhân dân Pháp yêu cầu Chính phủ Pháp phải đối xử nhân đạo với tù binh Việt Nam và kết thúc chiến tranh để con em họ được trở về Pháp.

Ở Côn Đảo, bọn chúa ngục vẫn tiếp tục chính sách khủng bố. Ngày 6-1-1951, tù nhân ớ nhiều khám làm lễ kỷ niệm ngày thành lập Đảng và ngày bầu cử Quốc hội. Khám 6 Banh II (khu Trần Phú) bị đánh đập và bỏ đói một ngày. 44 tù nhân trong khám họp hội nghị bất thường, quyết định tuyệt thực để phản đối. Mặc dù bị xé lẻ thành 4 nhóm, giam riêng ở 4 nơi (Bản Chế, Nhà Thương, Chuồng Bò và Khám 6) nhưng cả 4 nhóm đều đồng tâm tuyệt thực cho đến khi địch nhượng bộ, chấp nhận cải thiện đời sống, bỏ đánh đập.

Đoàn tù nhân ở Chí Hòa mới ra Côn Đảo chưa được 10 ngày cũng bị khủng bố trong đợt kỷ niệm ấy. Các anh Đinh Khắc Phong, Trần Bình Hẳn, Nguyễn Văn Một (tức Long), Bảy Vinh (tức Đào Năng An) bị phạt xà lim Banh I, còng chân và bỏ đói. Đại diện tù nhân ở nhiều khám đã lên tiếng phản đối việc khùng bố Khám 6 Banh II và đoàn tù ở Chí Hoà mới ra. Trước áp lực đấu tranh của tù nhân, Laphốt cho giải tỏa đợt khủng bô, trả hết tù nhân bị phân tán và phạt xà lim về khám cũ.

Laphôt chuẩn bị một đợt khủng bố tù quy mô hơn bằng chế độ biệt lập hết sức khắc nghiệt và sự câu kết giữa nhà tù với những tên tù gian làm tay sai cho chúng. Laphôt đã gửi phúc trình cho Cao ủy Pháp, báo động về tình hình an ninh ở Côn Đảo về khả năng bạo loạn của tù nhân mà y cảm thấy như một nguy cơ thường trực.

Cuộc đổ bộ bất đắc dĩ của một đơn vị Việt Minh lên Côn Đảo do một tai nạn thuyền bè trong chuyến chở vũ khí vào Nam Bộ (ngày 29-1-1950) cũng được đề cập tới như một dấu hiệu đáng ngờ về sự phôi hợp tấn công của lực lượng vũ trang từ đất liền. Laphốt đã đề nghị Cao ủy cho phép áp dụng chế độ biệt lập, biện pháp an ninh cao nhất đối với những tù nhân kháng chiến nguy hiểm. Khu biệt lập Banh II được hình thành.

Tháng 2-1951, Đảng bộ nhà tù Côn Đảo tổ chức Đại hội lần thứ 2. Đảng ủy chuẩn bị báo cáo và đưa xuống các chi bộ thảo luận, góp ý bổ sung rồi gửi về văn phòng Đảng ủy. Báo cáo đánh giá trong nhiệm kỳ 6 tháng, Đảng bộ đã xây dựng được tổ chức Đảng thống nhất trên toàn đảo; phát triển số đảng viên tăng lên gấp rưỡi; tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Liên đoàn tù nhân. Đảng bộ đã phổ biến đường lối kháng chiến cho cán bộ, đảng viên, nâng cao nhận thức và lòng tin vào thắng lợi của cuộc kháng chiến, về sách lược, Đảng bộ phân biệt đối tượng cụ thể, từng loại kẻ thù, từ chúa đảo đến xếp banh, chủ sở, gácdang, thầy chú để tranh thủ và có sách lược đấu tranh cụ thế.

Đại hội lần thứ hai đã bầu ra Ban chấp hành Đảng bộ gồm 9 người. Bí thư Đảng ủy Lê Trọng Bộ được bố trí ra Nhà Thương với bệnh án ho lao cùng Trần Khắc Du (Nguyễn Ngọc Cảnh), Phó bí thư hình thành bộ phận thường trực của Đảng ủy tại Nhà Thương.

Khi ấy Laphốt đã cho dọn dẹp xong dãy Khám 8-9- 10 ở Banh II (trước chúng làm kho vật liệu) và rào dây thép gai xung quanh, thiết lập một khu biệt lập để cách ly và siết chặt kỷ luật với những người tù kháng chiến trung kiên. Những người tù kháng chiến hoàn toàn bị bất ngờ trước thủ đoạn mới của Laphốt.

Được sự khuyến khích của Laphôt, một nhóm tù gian đã lập ra tổ chức Liên minh dân chủ xã hội, gọi tắt là Liên xã. Cầm đầu Liên xã là những tù nhân thuộc các đảng phái quốc gia (Việt Nam Quốc dân đảng, Đại Việt, Cao Đài, Hòa Hảo) như Nguyễn Văn Tân, Lê Trung Chánh, Nguyễn Văn Kỷ, Già Huệ… Có tên từng theo kháng chiến như Võ Văn Nguyệt, từng tham gia Liên đoàn tù nhân nhưng bất mãn, bị quyền lợi vật chất lôi kéo.

Ngày 28-2-1951, bọn Liên xã ở kíp Lò Vôi đem dao nhọn vào Khám 5 Banh II khiêu khích đòi lật đổ Ban chấp hành tù nhân khu. Các anh Nguyễn Trí Tuệ, Chủ tịch Ban chấp hành tù nhân khu Lò Vôi đã cùng với Trác Quang Lành, Điệp, Hưng tổ chức lực lượng, tay không đánh trả bọn Liên xã, Nguyễn Trí Tuệ bị đâm trọng thương ở cổ. Giám thị trưởng Rônhông kịp thời can thiệp, y phạt hầm Nguyễn Trí Tuệ vì tội gây rối trong tù!?

Rônhông vẩn cho phép bọn Liên xã được giữ vũ khí trong khám, bất chấp quy chế nhà tù. Ngày hôm sau, bọn Liên xã dùng dao nhọn khiêu khích tù kháng chiến ở Chuồng Bò, nhưng Liên đoàn tù nhân đã đánh trả chúng đích đáng. Giám thị trưởng Rônhông lại có mặt đúng lúc, y ra lệnh còng chân tất cả tù kháng chiến rồi cho bọn Liên xã đánh đập bằng gậy gộc để trả thù. Anh Trần Văn Đức tức Mi, trưởng ban trật tự của tù nhân khu Chuồng Bò bị đánh ngất đi, đầu và mặt sưng húp. Mười hai tù nhân kháng chiến bị phạt xà lim. Các anh Đức, On, Tâm bị tên cò Busăng (Bouchand) tra tấn tàn bạo và bị chồng án thêm 4 năm tù nữa.

Ngày 4-3-1951, Rônhông lại hỗ trợ cho bọn Liên xã mang dao vào gây rối ở Khám 7 Banh I. Anh Phạm Trọng Hồng (Hồng Võ Sĩ) đã cùng với Nguyễn Sáng lãnh đạo tù nhân Khám 7 đập bể lu nước, lấy mảnh vỡ làm vũ khí chống lại dao nhọn của chúng. Trước sức mạnh áp đảo, bọn Liên xã phải chạy tháo thân, tên Kỳ bị đứt gân chân không đi nổi. Rônhông lại can thiệp ngay, bắt 50 tù kháng chiến vào cấm cố và cho bọn Liên xã quay trở lại chế ngự Khám 7.

Trước sức mạnh đoàn kết và tinh thần chiến đấu của tù nhân kháng chiến, bọn tù gian Liên xã không sao lật đổ được Liên đoàn bằng vũ lực. Khi ấy nhà tù mới ra mặt khủng bố. Ngày 6-3-1951, viên Giám thị trưởng

Rô nhông chỉ huy hàng chục gácdang, có lính và tay sai Liên xã đi theo ập vào từng khám. Bọn Liên xã đã lập sẵn danh sách những người lãnh đạo ở các khu, những tù nhân trung kiên kháng chiến. Chúng mở cửa, gọi tên, chỉ mặt và bắt hàng loạt tù trung kiên ở tất cả các khám đưa về Khu biệt lập Banh II.

Trước đó, Khám 6 cấm cố ở Banh I đã bị thanh lọc. Khoảng 30 người bị đưa thẳng về Khu biệt lập Banh II. Số còn lại chúng chia thành 2 kíp, mỗi kíp 25 người, ở Khám 6 và Khám 7 Banh I. Sau vụ xung đột với Liên xã Khám 7 (Sở Chuồng Bò, ngày 29-2-1951), chúng đưa hầu hết tù kháng chiến ở Khám 6 và Khám 7 vào khu biệt lập, còn bọn Liên xã thì ở lại.

Bọn Liên xã tiếp tục được nhà tù cho phép sử dụng dao nhọn và vũ khí thô sơ để chế áp tù kháng chiến. Chúng dựng lên tổ chức phản động Liên xã ở tất cả các khu chống lại Liên đoàn tù nhân. Chúng chiếm “đài phát thanh”, kêu gọi tù nhân phải tuân theo sự lãnh đạo của chúng.

Trong vòng 2 tháng sử dụng bọn tù tay sai, Laphốt đã đưa 250 tù kháng chiến vào biệt lập, hỗ trợ cho Liên xã lập tổ chức phản động ở Sở rẫy An Hải, Sở Lưới, Chuồng Bò, Lò Vôi, Sở Bản Chế và Nhà Thương. Tuy chúng có tổ chức nhưng tù kháng chiến vẫn giữ được tương quan, không để chúng lấn át. Khám 1 (áo trắng) thì Liên xã chưa giành được quyền lãnh đạo nhưng chúng khống chế hoạt động của Liên đoàn. Nhà tù sử dụng Liên xã như kiểu cặp rằng trước đây, ưu đãi bọn này về vật chất để sử dụng làm tay sai không chế hoạt động của tù nhân kháng chiến.

Vụ Liên xã và chế độ cấm cố biệt lập là đợt khủng bố quy mô và hết sức thâm độc. Những người tù kháng chiến đã phải đấu tranh dai dẳng và quyết liệt trong nhiều năm sau đó.

Tháng 5-1951, Giátty (Henri Jarty) ra nhận chức Giám đốc Côn Đảo. Giátty được đánh giá là một “sĩ quan ưu tú, rất gắn bó với chức vụ… khéo léo và kiên quyết” (Văn thư số 1574/CB/MIL của Thủ tướng Nam Việt Nam gửi Trung tâm hành chánh Viễn Đông). Ngay trên chuyến tàu ra nhận chức, Giátty đã đàn áp đẫm máu đoàn tù từ Chí Hòa ra Côn Đảo khi họ hát bài Quốc ca chào đất liền, vào lúc tàu nhổ neo rời bến. Đến Côn Đảo, hắn còn đuổi theo đánh đoàn tù một trận nữa, từ cầu tàu vào Banh I.

Giátty ráo riết tăng cường bố phòng Côn Đảo. Ngay trong tháng đầu nhận chức, y làm công văn xin đổi 3 trung liên F.M của Nhật (cỡ nòng 303) để sử dụng đạn 303 sẵn có, xin cấp bổ sung 25 súng lục để đủ trang bị cho mỗi gácdang Pháp một súng; xin thêm 5 gácdang, đưa tổng số gácdang lên 50 tên; xin thêm 54 lính Âu – Phi, đưa tổng số lính Âu – Phi lên 104 tên vào cuối năm 1951; xin cấp một canô tốc độ 8 hải lý giờ để tuần tra quanh đảo.

Giátty tiếp tục duy trì chế độ cấm cố biệt lập, tiếp tục chính sách dùng tù trị tù và khủng bố tù kháng chiến. Y đưa Pátxi (Passi) làm Giám thị trưởng thay Rônhông. Mới đến Côn Đảo hơn một tháng, Giátty đã chỉ huy cuộc tổng khủng bố toàn đảo vào ngày 20-5- 1951. Từ sáng đến trưa, bọn gác ngục đánh tất cả tù nhân ở các khám, trận ấy không ai không đố máu. Anh Lan bị đánh gãy một tay, nằm liệt luôn 3 tháng. Anh Huệ bị đánh đến ho ra máu, mấy tháng sau thì chết.

Ngày 1-7-1951, Giátty và Pátxi lại cầm đầu một toán ác ôn đánh đập tàn nhẫn đoàn tù ớ Chí Hòa vừa ra Côn Đảo, đánh anh Lý Hải Châu chết ngất vì Giátty và Pátxi biết anh lãnh đạo cuộc đấu tranh tuyệt thực 11 ngày vừa nổ ra ở Chí Hòa và tổ chức cho một số tù nhân vượt ngục.

Vào nghề gác ngục từ thời trai trẻ, Pátxi từng qua hết các nhà tù lớn ở Đông Dương như Sơn La, Hỏa Lò, Khám Lớn, Chí Hòa và trở thành con cáo già trong nghề, leo hết ngạch gác ngục ở Côn Đảo. Pátxi thâm thù cộng sản từ trong xương tủy. Y là một trong những tên gác ngục gian giảo và rất thủ đoạn. Gặp lại một người cộng sản từng bị tù ở Sơn La năm 1944, y reo lên một cách thân mật như gặp được bạn cũ. Với những tù nhân biết tiếng Pháp, y lễ độ gọi là ngài. Biết tù cộng sản có văn hóa, y vui vẻ đàm luận về một tác phẩm văn học Pháp, một trường phái âm nhạc, hội họa, hoặc về vẻ đẹp một loài hoa. Nhưng khi hắn đưa quân vào khủng bố thì không trận nào không đẫm máu. Đánh xong, hắn lại chào hỏi ngọt ngào, lại nói chuyện vui vẻ, đôi khi còn mời tù nhân hút thuốc.

Bọn chúa ngục Côn Đảo sau mỗi lần thất bại trong chính sách trị tù thì chúng lại xảo quyệt hơn. Thủ đoạn dùng tù “quốc gia” trị tù kháng chiến khởi đầu từ Laphốt và Rônhông đã được Giátty và Pátxi thực hiện một cách hữu hiệu. Nhưng ngày tàn của bọn chúa ngục cung không còn xa nữa. Thủ đoạn ấy chỉ là cơn giãy giụa cuối cùng của thực dân Pháp và tay sai trên hòn đảo này.

Đấu tranh chống Liên xã, củng cố lại Liên đoàn tù nhân

Sau vụ Liên xã, hầu hết những người lãnh đạo trong Đảng ủy và Liên đoàn tù nhân bị bắt vào biệt lập. Đảng ủy quyết định bổ sung thêm một số ủy viên: Tùng Lam tức Thép, Hoàng Sinh Hồng tức Tân, Trần Nam tức Trần Chiêm. Cả ba đều thuộc nhóm dân quân Sài Gòn – Gia Định vừa bị đày ra Côn Đảo, làm khổ sai ở kíp Chỉ Tồn, có điều kiện trực tiếp chỉ đạo phong trào.

Đảng ủy tích cực chỉ đạo chống khủng bố. Chỉ thị của Đảng ủy gửi đến các cơ sở đã phân tích âm mưu “dùng tù trị tù” của thực dân Pháp và vạch mặt bọn cầm đầu Liên xã làm tay sai đắc lực cho nhà tù. Đảng ủy kêu gọi tù nhân đoàn kết xung quanh Liên đoàn tù nhân, kiên quyết lập lại tồ chức ở những khu bị Liên xã khống chế.

Tù nhân các khu tiến hành bầu bổ sung một số ủy viên Ban chấp hành đã bị bắt vào biệt lập. Ở các khu Liên xã không chế, tù kháng chiến đã bầu ra Ban chấp hành bí mật để lãnh đạo tù nhân. Tư Ba Đào, người tù thường phạm có uy tín trong giới giang hồ ra lời hiệu triệu vạch mặt bọn đầu sỏ Liên xã là tay sai cho giặc và kêu gọi những người lầm đường lạc lối hãy quay lại sát cánh với Liên đoàn, chống âm mưu dùng tù trị tù của thực dân Pháp.

Vào lúc đông nhất, Liên xã tập trung được chừng 300 tên. Ngoài mấy tên cầm đầu thuộc đảng phái quốc gia, bọn tay chân hầu hết là tù tư pháp, lưu manh giang hồ. Trong bọn này có một số người trước đây đã đi theo Liên đoàn, nhưng không quen nếp sinh hoạt chặt chẽ hoặc không chịu đựng được những hình thức đấu tranh quyết liệt do Liên đoàn tổ chức nên đã đầu hàng địch. Trong bọn này còn có cả một đôi người đã từng tham gia kháng chiến nhưng bất mãn hoặc cầu an, cầu lợi nên can tâm làm tay sai cho địch.
Bọn Liên xã ở Sở Lưới bắt tù nhân mỗi ngày đánh 5 giác lưới (trước chỉ 3 giác). Chúng còn quản lý cá cho nhà tù, không để tù chính trị giấu một phần về cải thiện như trước nữa. Ở kíp cắt cỏ, chúng bắt nộp mỗi ngày 60kg (trước là 30kg). Bọn Liên xã ở Sơ Củi tiếp tay cho Nhà tù bắt tù nhân tăng mức củi. Củi Nhà Đèn trước đây đã hạ xuống 3 tấc, chúng bắt tăng 3,5 tấc mỗi ngày. Anh em không làm đủ, chúng đánh đập và còng chân ở Khám 6 Banh I. Liên tục trong một tuần, Ban chấp hành bí mật của tù nhân Sở Củi đã lãnh đạo anh em chỉ làm đúng 3 tấc, cuối cùng chúng phải nhượng bộ.

Ban chấp hành Liên đoàn tù nhân sở Chỉ Tồn lãnh đạo tù nhân chống tăng mức khổ sai. Khu Sở tẩy – Nhà bếp, tù kháng chiến đã chiếm lại “đài phát thanh”, lập lai Ban chấp hành, anh Hưng làm Chủ tịch, Vũ Văn Thùy tức An là Phó Chủ tịch, giữ vững đầu mối liên lạc cho Đảng ủy và Liên đoàn tù nhân kháng chiến. Cuối năm 1951, Sở Rẫy An Hải lập lại dược Ban chấp hành, sau khi Đảng ủy bố trí một số tù nhân có uy tín về đó.

Cuộc đấu tranh chống Liên xã ở Khám 1 (áo trắng) và Sở Lưới diễn ra quyết liệt nhất. Các anh Nguyễn Văn Mẫn làm bồi ở Sở Cò; Nguyền Minh Sướng làm bồi cho xếp Banh I; Mai Hữu Hương thư ký kho bạc đã tố chức đánh áp đảo bọn Liên xã trong lúc chúng đang phát thanh đưa tin tức phản động, nói xấu kháng chiến. Bọn Liên xã bị dồn vào góc tường, không dám ho he. Ban chấp hành tù nhân được lập lại, nhưng không được bao lâu. Một tên trong Liên xã lợi dụng lúc sơ hở, chạy vọt ra cửa khám kêu cứu ầm ĩ. Gácdang đến can thiệp, bắt tù nhân ra sân xếp 2 hàng. Ba anh cầm đầu bị chúng lôi ra cho Liên xã đánh bằng củi tạ rồi phạt còng.

Tại Sở Lưới, Vũ Ngọc Chung (tức Lý Trứng, công an Hà Nội) được Đảng ủy bố trí về cùng Châu Bình Phong và Nguyễn Thống lật để tên Trần Văn Khánh, tay sai đắc lực của chủ sở Machiơ. Nhà tù lại can thiệp, Châu Bình Phong bị lôi về hầm xay lúa cho mấy tên Rờsẹc và Liên xã đánh đập dã man. Vũ Ngọc Chung bị đưa vào khu biệt lập. Ngày 23-12-1951, cuộc xung đột giữa tù kháng chiến và bọn Liên xã lại nổ ra tại Sở Lưới. Giám thị trưởng Pátxi cùng Saden và 3 tên gácdang khác, 6 lính lê dương đến can thiệp, đưa bọn Liên xã ra ngoài rồi xông vào đánh đập tàn nhẫn cả khám. Ba người tù kháng chiến là Nguyễn Văn Lực (C.11899), Bùi Đình cầu (C.12747) và Nguyễn Văn Lác (C. 12477) bị phạt xà lim, còng chân rồi còn bị đánh tiếp.

Cuộc đấu tranh ở Sở Lưới còn dai dẳng cho đến năm 1954. Với sự dung dưỡng của tên gácdang đểu cáng Saden, bọn Liên xã ở Sở Lưới đã đâm chết anh Trần Vần Vinh (tức Vinh Rỗ) vào ngày 3-5-1954, khi anh từ khu biệt lập vừa giải tỏa, được điều ra Sở Lưới. Vinh Rỗ là một người tù thường phạm hoạt động tích cực cho Liên đoàn. Bọn Liên xã lôi kéo không được nên đã trả thù hèn hạ. Các bạn tù ở Nhà Thương hết lòng điều trị nhưng không cứu được anh.

Ớ các khu khác thì vai trò bọn Liên xã kết thúc sớm hơn. Cuối năm 1952, các khu Nhà Thương, Chuồng Bò, Lò Vôi đã được củng cố lại. Bọn Liên xã qua nhiều trận đụng độ với Liên đoàn đều bị khối tù trung kiên đánh cho sứt đầu mẻ trán. Mấy tên cầm đầu không được đưa về tham gia nội các chính phủ bù nhìn như nhà tù đã hứa nên chúng bớt hung hăng. Bọn thống trị thấy liên xã không lật nổi Liên đoàn nên cũng nhạt dần. Nhiều tù thường phạm nhận rõ bộ mặt cơ hội và phản động của bọn cầm đầu Liên xã nên đã có thái độ trung lập.

Theo báo cáo của Đảng ủy nhà tù, tháng 9-1952, trong tổng số 2.337 tù nhân, có 2.000 người tham gia tổ chức Liên đoàn, chỉ còn 100 tên theo Liên xã. Hơn hai trăm người còn lại thuộc số mới ra, chưa gia nhập Liên đoàn và một số già yếu, tư tưởng trung lập, chỉ xin ủng hộ Liên đoàn mà không tham gia.

Tên Nguyễn Văn Tân, cầm đầu Liên xã số tù C.11815 phải thắt cổ tự tử vào ngày 27-2-1953. Có nhiều dấu hiệu Tân bị bức tử vì có dính vào vụ lạm dụng 200.000đ ở hợp tác xã tiêu thụ. Vụ này liên quan đến Giám thị trưởng và chủ sự hợp tác xã. Tân là thư ký nắm hết đầu dây mối nhợ nên khi phái đoàn thanh tra ở Sài Gòn ra điều tra, Tân bị bắt lên Sở Cò khai thác. Đêm ấy, Giám thị trương Pátxi bảo lãnh cho Tân. Sáng hôm sau, người ta thấy xác Tân treo trên cây bằng lăng trong vườn nhà Pátxi.

Số phận mây tên khác cũng không khá hơn. Lê Trung Chánh được ân xá về Sài Gòn rồi chết vì bệnh ho lao. Người ta nói rằng Chánh sinh bệnh mà chết vì không ai đoái hoài tới như những lời hứa hẹn đền đáp công lao cho một thời làm tay sai trong tù. Võ Văn Nguyệt thì bị Pháp bỏ rơi hẳn. Năm 1954, Pháp đưa Nguyệt về trao trả tại Sầm Sơn, vì Nguyệt đã từng có một thời đi với kháng chiến. Nguyệt trốn dưới hầm tàu không dám lên. Thủy thủ Pháp lôi ra đánh cho một trận nhừ tử, nhưng cuối cùng thì Nguyệt cũng về được Sài Gòn. Nguyệt đổi chủ, bán mình cho Mỹ.

Hoạt động của tù chính trị tại Khu biệt lập Banh II

Trong lúc các sở ngoài tập trung vào cuộc đấu tranh chống Liên xã thì tù nhân khu biệt lập củng cố tổ chức, học tập văn hóa, chính trị và lý luận. Chương trình lý luận, chính trị gồm các môn học:

– Duy vật biện chứng.

– Chủ nghĩa Mác-Lênin.

– Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam.

– Lịch sử cách mạng Nga.

– Tình hình trong nước và thế giới.

– Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.

– Vấn đề ruộng đất…

Tài liệu do một số đảng viên có trình độ nhớ và biên soạn lại. Anh Bảy Vinh là người biên soạn chủ yếu và là một thuyết trình viên xuất sắc. Do có một số sai lầm trong khi bị bắt chưa được xử lý, anh tự nguyện xin không tham gia sinh hoạt đảng trong tù, nhưng anh nhận và hoàn thành tốt mọi việc Đảng ủy giao như tổ chức học lý luận, làm đại diện tranh đấu, góp ý xây dựng các phương án đấu tranh, giải quyết những vấn đề nội bộ. Những người bạn tù gần gũi đều học được ở anh phương pháp tư duy biện chứng và phong cách đạo đức của người cộng sản trong tù.

Năm 1951, nhân dịp kỷ niệm Cách mạng Tháng Tám, khu biệt lập đã tố chức một cuộc kiểm điểm 7 ngày liền để giải quyết những vướng mắc trong nội bộ. Trong đội ngũ tù nhân kháng chiến, có nhiều người thuộc tầng lớp trí thức vừa tham gia cách mạng. Họ lao vào cuộc kháng chiến với lòng yêu nước thiết tha pha chút lãng mạn cách mạng, dũng cảm đi đầu trong đấu tranh, thể hiện khí phách trước kẻ thù, song lại cố chấp và coi thường một số cá nhân trong Đảng ủy.

Trong khi đó, một vài đảng viên cũ hạn chế về trình độ lãnh đạo, tác phong gia trương, quan cách, sinh hoạt thiếu gương mẫu. Có đảng viên giữ vai trò lãnh đạo đã đánh giá hẹp hòi đối với anh em trí thức. Khi quần chúng phản đối tư cách cá nhân một người lãnh đạo thì bị chụp mũ là chống Đảng, bị truy nguyên tư tưởng, quy kết lập trường. Mâu thuẫn phát sinh từ khi còn ở Khám 6 Banh I trong những năm 1949-1950, do không được giải quyết triệt để nên đã dẫn đến tình trạng có quần chúng không thừa nhận tư cách một số đảng viên, thiếu lòng tin vào tổ chức Đảng.

Trước tình hình đó, chi ủy khu biệt lập quyết định tiến hành cuộc kiểm điểm nội bộ, công khai trả lời những thắc mắc của quần chúng. Không khí kiểm điểm dân chủ và cởi mở. Ai có thắc mắc gì thì nêu lên hết rồi cùng nhau thảo luận. Được tự do phát biểu, quần chúng đã nêu ra nhiều câu hỏi xung quanh vấn đề tổ chức Đảng, sự lãnh đạo của Đảng và tư cách đảng viên như:

– Trung ương có cho phép thành lập tổ chức Đảng trong tù không?

– Tổ chức Đảng trong tù hoạt động công khai hay bí mật?

– Những ai được kết nạp vào Đảng có phải đạo đức tốt cả không?

– Tại sao tù nhân phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản?

Với sự đóng góp của đồng chí Bảy Vinh (Đào Năng An) và một số cản bộ có trình độ lý luận và có uy tín, những thắc mắc của quần chúng được giải đáp thỏa đáng, bằng sự phân tích sâu sắc, lý lẽ thuyết phục, thái độ chân thành.

Nội dung giải đáp trong đợt kiểm điểm ấy tựu trung là: Do hoàn cảnh trong tù chưa liên lạc được với Trung ương Đảng và Chính phủ nên chưa xin phép được, nhưng không vì thế mà đảng viên lại nằm im, không tổ chức, không lãnh đạo quần chúng đấu tranh. Nhiệm vụ của người đảng viên là ở đâu củng phải tập hợp thành tổ chức, lãnh đạo quần chúng, chống áp bức hóc lột. Việc đảng viên tập hợp lại là hoàn toàn hợp lẽ. Nêu hiểu công khai là phải có bảng hiệu, có địa chỉ, ai cũng biết thì không cho phép vì địch sẽ khủng bố. Nếu hiểu bí mật là không ai biết thì không thể lãnh đạo quần chúng được, quần chúng có thể có người biết trước, người biết sau. Ai đã biết thì phải giữ bí mật, bảo vệ Đảng; ai chưa biết thì sau sẽ biết. Tất cả những người có giác ngộ cộng sản, tiền phong chiến đấu cho sự nghiệp cách mạng của Đảng, làm đúng 5 nhiệm vụ đảng viên thì đều được kết nạp vào Đảng. Những người được kết nạp vào Đảng đều có tiêu chuẩn của người đảng viên, nhưng con người không phải siêu phàm, không tránh khỏi khuyết điểm. Những người có khuyết điểm, Đảng giáo dục để tiến lên, còn những ai không tiếp thu, không phấn đấu thì không đủ tiêu chuẩn nữa, phải đưa ra khỏi Đảng.

Cuộc kiểm điểm tháng 8-1951 là một bài học về dân chủ và công khai trong tù. Những đảng viên có tư tưởng quân phiệt, độc đoán, thiếu tin tướng ở quần chúng hoặc cầu an đã bị phê phán nghiêm khắc. Nhiều ý kiến đã tập trung làm rõ phong cách lãnh đạo của Đảng. Hơn bất cứ nơi nào, tổ chức Đảng trong tù không thể lãnh đạo bằng chức, bằng quyền mà phải bằng phẩm chất và năng lực. Quần chúng đòi hỏi Đảng phải dân chủ và công khai, phải nhìn thẳng vào những yếu kém mà sửa chữa, đảng viên phải trở thành gương soi, thành mực thước cho quần chúng noi theo.

Khi đã hiểu rõ những điều ấy thì cả quần chúng và đảng viên đều thấy mình ấu trĩ, hẹp hòi và cùng nhau xác định trách nhiệm xây dựng Đảng. Anh Phạm Văn Thất, một quần chúng tích cực tham gia công tác xã hội đã khóc vì ân hận. Anh rất thành kiến với một số đảng viên mà không hiểu rõ vai trò lãnh đạo của Đảng. Anh Sỹ nói với mọi người: “Bây giờ tôi đã hiểu Đảng, tôi tình nguyện phấn đấu để trở thành đảng viên”. Anh Phước Sẹo đã tự giác phản tỉnh là khi làm liên lạc cho Liên đoàn đã thủ tiêu nhiều công văn tài liệu để phản đối người lãnh đạo một cách tiêu cực. Anh Sỹ, anh Thất, anh Phước Sẹo sau một thời gian phấn đấu đã được kết nạp Đảng ngay trong tù. Những người khác chưa được kết nạp đều là quần chúng tốt, sau trở về thành những người có ích trên nhiều lĩnh cực công tác.

Cuộc kiêm điểm tháng 8-1951 đã giải đáp trúng những thắc mắc của quần chúng đối với đảng viên và xóa bỏ cả thành kiến hẹp hòi của một số cán bộ, đảng viên. Ai cũng thấy mình trưởng thành thêm một bước. Đảng cởi mở với quần chúng, quần chúng chấp nhận sự lãnh đạo của Đảng và bảo vệ Đảng. Chi bộ trong khu biệt lập sinh hoạt công khai, không còn phải bí mật với quần chúng nữa. Trong mấy năm ở biệt lập, không có trường hợp nào bị tố giác. Điều đó chứng tỏ một nguyên lý là: không có pháo đài nào vững chắc hơn là lòng dân khi đã tin yêu, bảo vệ Đảng.

Lúc nhàn rồi, trong tù có nhiều chuyện trên đời để bàn luận. Tù ở nhiều địa phương tụ hội về, mang theo phong tục, ngôn ngữ khác nhau. Khu biệt lập mở một cuộc vận động nói đúng tiếng Việt. Ai nói sai phải đứng nghiêm, sửa lại cho đúng theo hướng dẫn của người phát hiện, đồng thời phải đeo vào cổ một thẻ đời sống mới để làm dấu mỗi lần nói sai. Muốn bớt thẻ thì phải phát âm cho đúng, và phải bắt được người nói sai thì mới được chuyến thẻ. Tối về kiểm số thẻ mà phê bình hay khen ngợi. Cuộc vận động nói đúng tiếng Việt ở khu biệt lập đã giúp cho nhiều người có được độ chuẩn trong ngôn ngữ khi nói và viết, nâng cao ý thức về Sự chuẩn mực và trong sáng của tiếng Việt.

Ông già Tiếu là người cuối cùng được thanh toán nạn mù chữ trong khu biệt lập. Ông bị mật thám Pháp đánh thành tật bàn tay phải. Kẹp mẩu gạch vào mấy ngón tay tàn tật viết không thành, ông chuyển sang tập viết bằng tay trái. Kiên trì và nhẫn nại trong một thời gian dài, mãi đến cuối năm 1952, ông mới viết được bức thư đầu tiên cho vợ. Dòng đầu tiên ông viết: “Má bầy nhỏ à, nhờ cách mạng tôi đã biết đọc, biết viết thơ này gởi cho má nó”.

Ở biệt lập thiếu thốn nhiều thứ, từ miếng cơm, ngọn rau, hạt muối, viên thuốc cho đến ánh sáng, khí trời; nhưng bù lại, anh em có thời gian, có sách, có thầy nên có điều kiện để học tập. Lê Trung Khá dạy toán, Trần Nhật Quang, Vũ Đắc Bằng dạy văn, Trần Bảo Trung dạy tiếng Bắc Kinh, Trịnh Văn Hà dạy kỹ thuật nông nghiệp…

Mọi người tự giác học tập, theo nhu cầu, khát vọng và sở trường của mình. Nhóm các anh Tỵ, Đô, Tín, Mè, Túc, Lý, Mười Nhỏ… phấn đấu đạt mức phổ cập bậc tiểu học. Các anh Vũ Ngọc Chung, Trần Khắc Du, Vương Tự Kiên, Nguyễn Văn Hai… theo học toàn diện lên bậc tú tài. Anh Phạm Văn Bửu thì chỉ say mê học toán. Lớp toán tự học theo sách giáo khoa của George Eve, Matignon, Lamireaud, Bontaire, Wood Beiley, sau đó tự làm các đề thi tú tài ở các thành phố Lyon, Marseille, Toulouse, Alger, Bordeaux bên Pháp. Thành thạo rồi thì tổ chức thi và chấm cho nhau, tự phong bằng tú tài cho những người đỗ đạt. Anh Nguyễn Trí Tuệ, trật tự viên làm nhiệm vụ giữ trật tự trong các buổi thi. Anh chế tạo một chiếc đồng hồ bằng lon vải hộp, đục lỗ, khắc vạch, đổ nước đầy lúc ra đề thi, rồi theo vạch nước rút mà tính thời gian thu bài.

Lớp kỹ thuật canh nông do kỹ sư Trịnh Văn Hà phụ trách học khá sôi nổi. Học viên ngồi vây quanh thầy, say sưa nghe trình bày từng chuyên mục về kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi, cách tổ chức một nông trang tập thể. Kỹ sư Lưu Văn Lê trong một thời gian ngắn ở biệt lập cũng đóng góp cho lớp học những kinh nghiệm thực tiễn của mình. Lớp học còn tổ chức thảo luận về “Chương trình khai thác Đồng Tháp Mười” với những ý tưởng cải tạo vùng đất phì nhiêu này thành một vựa lúa của Đông Nam Á. Nhiều người tự nguyện tham gia nhóm Thanh niên Đồng Tháp Mười và hẹn ước với nhau, kháng chiến thắng lợi sẽ cùng nhau trở về cải tạo Đồng Tháp Mười thành vựa lúa cho đất nước.

Kể chuyện là một sinh hoạt văn hóa bổ ích. Lê Hoàng Yến có biệt tài kể chuyện trinh thám. Minh Tâm kể chuyện Nhà thờ Đức Bà Paris, Đinh Khắc Phong tự kể về đời hoạt động cách mạng gian khổ của mình. Lý Tiên Vinh với biệt hiệu Vinh “cát tó” nổi tiếng trong vai hề trên sân khấu Bản Chế, nay đem lại tiếng cười lạc quan yêu đời cho khu biệt lập, đẩy những ngày tù khổ đau ngắn lại.

Chế độ biệt lập làm suy kiệt sức khỏe tù nhân rất nhanh. Thiếu dinh dưỡng trầm trọng, thiếu khí trời và ánh sáng là căn nguyên của các loại bệnh mờ mắt, xơ cứng cơ bắp, sưng chân răng, lở miệng, thiếu máu, ho lao, tê bại. Trong bức thư gửi Giám đốc ngày 11-11- 1951, bác sĩ Đờ Rôdie (De Rozière) đã xác nhận: “Cứ 10 người tù ở biệt lập thì có 3 người tê bại. Củng trong 10 người ấy có một người lao nặng, 7 người lao trung bình vì thiếu máu”.

Ông đã đề nghị cho tù nhân khu biệt lập được tăng giờ phơi nắng, tăng khẩu phần ăn, có cá tươi và rau xanh mỗi tuần 3 lần, người ốm đau được ra nằm Nhà Thương điều trị. Trước đó tù nhân khu biệt lập ốm phải nằm riêng ở xà lim Banh II, bệnh nặng cũng không được về Sài Gòn chữa. Anh Lê Văn Đôi (C.11579) bị phong giật nhưng không được điều trị, co giật 48 lần trong 24 giờ rồi trút hơi thở cuối cùng. Các anh Nguyễn Văn Mười (C.12551), Nguyễn Văn Tình (Cas.1436), Nguyễn Văn Hà (B.2322), Trần Chính Quyền (C. 12588), Vũ Đắc Bằng (C.1603), Trần Văn Lục (C.11808), Nguyễn Văn Huệ, Rồi, Rinh cũng đều chết vì chế độ biệt lập, tất cả đều chưa đến tuổi 30.

Vũ Đắc Bằng, tức Khắc Minh, án 11 năm khổ sai chết lúc 13 giờ 15 phút ngày 29-3-1952 tại khu biệt lập. Cho đến những ngày cuối đời anh vẫn dịch sách, làm thơ, dạy học. Nhiều vở kịch của anh đã được dàn dựng tại các buổi văn nghệ trong tù. Nhiều bài thơ của anh được Nguyễn Sáng phổ nhạc. Các bạn tù dựng bia mộ anh và khắc lên đó những vần thơ hay nhất trong bài Tình không biên giới của anh mà hầu như không mấy ai không thuộc.

Vượt lên sự khủng bố đọa đày, tù nhân khu biệt lập sống có tổ chức và thương nhau như ruột thịt. Tù ở biệt lập chỉ có chiếc quần lót đang mặc là được xem như của riêng, còn tất cả đều góp lại dùng chung, từ thuốc men, áo quần, sách vở, đồ tiếp tế của gia đình đến nắm rau anh em các sơ gửi cho. Ban chấp hành liên đoàn tù nhân khu biệt lập vận động mọi người tích cực viết thư về nhà xin đồ tiếp tế. Tùy theo nhu cầu chung và hoàn cảnh từng người mà có gợi ý nên xin thứ gì, nhưng chủ yếu vẫn là thuốc bổ và thuốc bệnh. Anh Nguyễn Vãn Năng bị ho lao nặng, đã được cứu sống bằng hàng trăm lọ Péniciline và Streptomicine từ tủ thuốc của tù nhân. Anh Lê Trung Khá cũng bị ho lao nặng, được gia đình gửi cho rất nhiều thuốc nhưng đều góp cả vào tủ thuốc dùng chung, nhiều người tù đã được cứu sống bằng phần thuốc của anh. Riêng anh cũng được mọi người thương yêu săn sóc tận tình.

Trong hoàn cảnh hết sức khắc nghiệt như biệt lập, chỉ có tình thương yêu và biết tổ chức mới tồn tại được. Đó cũng là mô hình một “xã hội cộng sản” mà thời ấy anh em đã hình dung và xây dựng.

Trại tù binh

Những năm đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, bọn thực dân vẫn xem Việt Nam như thuộc địa cũ, coi tất cả những người kháng chiến là phiến loạn. Chúng ngang nhiên mở tòa án quân sự, xét xử những người kháng chiến với “tội danh” phiến loạn, để rồi giết họ bằng hàng loạt án tử hình hoặc giết dần mòn bằng các án cấm cố, khổ sai trong các nhà tù khắc nghiệt.

Cho đến khi bị bại trận ở mặt trận Biên Giới (1950), thái độ của bọn thực dân bắt đầu đổi khác. Hàng ngàn binh lính và sĩ quan Pháp bại trận bị bắt làm tù binh, trong đó có cả quan tư, quan năm thực dân sừng sỏ như Lepage, Charton, Beauíré Communal… Đã đến lúc bọn thực dân buộc phải thú nhận rằng chúng đang đương đầu với một cuộc chiến tranh thật sự, buộc phải tính đến việc lập lại trại tập trung tù chiến tranh và yêu cầu ta đối xử với tù binh Pháp theo Công ước quốc tế.

Cao ủy Pháp ở Đông Dương đã quyết định thành lập Úy ban kiểm lựa (Commision De Triage) tại các vùng chúng chiếm đóng để phân loại những người bị bắt trong các trận càn quét thành tù binh PIM (Prisonies Interné Militaire) và tù chiến tranh P.G (Prisonier de Guèrre). Những người bị bắt tại trận, bị bắt khi đang chiến đấu hoặc có vũ khí thì được xếp ngay là tù binh (PIM). Cao ủy Pháp thông qua bản “Chỉ thị về quy chế các tù binh” quy định các đôi tượng sau đây cùng được coi là tù binh:

– Những người thuộc lực lượng dân quân kháng chiến, tham gia đắc lực hoặc có khả năng tham gia kháng chiến.

– Những người hoạt động trong các tổ chức, đoàn thể có dính líu vào phong trào kháng chiến.

– Những người có dính líu hoặc khả nghi vào những hoạt động được coi là phiến loạn như tuyên truyền, giao lưu với Việt Minh (điều 2).

Ngoài các đối tượng quy định trên, những người bị tình nghi hoặc tham gia ít nhiều cho kháng chiến đều có thể coi là tù chiến tranh (P.G), Những phần tử nguy hiểm phải giam riêng trong các trại đặc biệt (điều 12 và điều 28). Ủy ban kiểm lựa căn cứ vào kết quả thẩm vấn và hồ sơ mà phân loại tù binh thành:

– Phần tử nguy hiểm loại D (Dangeureux) là những người hoạt động tích cực cho kháng chiến như tuyên truyền, phá hoại, ám sát, quân báo, công an…

– Phần tử nguy hiểm loại DI (Dangeureux No – 1) là thủ trưởng các đơn vị.

– Phần tử nguy hiểm loại D2 là bộ đội (Điều 27).

Trong năm 1950, Cao ủy Pháp ở Đông Dương và Tư lệnh quân đội Pháp ở Đông Dương còn ra nhiều văn bản hướng dẫn hoạt động của Ủy ban kiểm lựa và phân loại, giam giữ tù binh, tù chiến tranh. Nhiều trại tù binh đã hình thành trong vùng thực dân Pháp chiếm đóng. Khi bị đánh mạnh ở Bắc Bộ, thực dân Pháp chuyển một phần tù binh ở các trại phía bắc vào Nam Bộ. Bọn thực dân cũng nhanh chóng nhận ra rằng Côn Đảo là nơi lý tưởng nhất để biệt giam những phần tử nguy hiểm, không phải chỉ đối với tù án mà cả tù binh nữa.

Ngày 3-5-1951, chuyến tù binh đầu tiên thuộc các tỉnh đồng bằng và trung du Bắc Bộ bị đày ra Côn Đảo. Đoàn tù binh cũng phải nếm trải đủ các thủ tục nhập đảo như tù án, từ trận đòn phủ đầu đến “điệu múa phượng hoàng” mỗi khi vào trại. Sau khi làm thủ tục, bọn Pháp chuyển cả 111 tù binh sang Banh II, giam ở Khám 6 và Khám 7, cạnh khu biệt lập. Buổi đầu, tù binh cũng bị đối xử chung một chế độ như tù án: cơm gạo hẩm, cá khô mục và những công việc khổ sai nặng nhọc. Điều khác nhau duy nhất lúc đó là có thêm tốp lính da đen canh gác ở trại và mỗi khi đi làm khổ sai.

Ngay đêm đầu tiên đến Côn Đảo, Ban chấp hành Liên đoàn tù nhân đã gửi thư thăm hỏi và yêu cầu đoàn tù binh thông báo tin tức trong nước, tình hình nội bộ đoàn tù. Liên đoàn giữ mối liên lạc hàng ngày với đoàn tù binh, thông báo về âm mưu của nhà tù, tình hình nội bộ khối tù, hệ thống tổ chức của Liên đoàn. Sau khi nghiên cứu điều lệ của Liên đoàn tù nhân Côn Đảo, 2 khám tù bính đã làm đơn tập thể, 100% tự nguyện tham gia tổ chức Liên đoàn, lấy tên là Liên khu Trần Thành Ngọ. Anh Phạm Quý Tuyển (Thọ) đại diện Khám 6, anh Hoàng Bách (Nguyễn Văn Nhã) đại diện Khám 7.

Nhân dịp này, Liên khu tù binh đã tặng Liên đoàn tù nhân Côn Đảo một món quà đặc biệt: Bức hình Chủ tịch Hồ Chí Minh do họa sĩ Trịnh Vượng phác thảo, Trần Quyết thêu bằng tóc mình và những sợi chỉ màu do anh em góp lại. Sau hơn 2 tuần lễ đến đảo, đoàn tù binh đã tham gia lễ kỷ niệm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh do Liên đoàn tù nhân chỉ đạo. Ngày hôm sau, đoàn tù binh chịu chung trận khủng bố trả thù như wmưa roi” trên toàn đảo của bọn chúa ngục. Hai khám tù binh còn phải chịu phạt theo chế độ xà lim 3 tháng liền.

Ngày 6-10-1951, Đoàn tù binh thứ 2, gồm 135 người, ở Bắc Bộ bị đày ra Côn Đảo. Sau khi làm thủ tục nhập đảo tại Banh I, họ bị chuyển về Banh II, ở các Khám 1, 2, 3. Đoàn tù binh thứ 2 cũng làm đơn tập thể xin gia nhập Liên đoàn. Anh Phan Cơ làm đại diện chung. Hai đoàn tù binh thống nhất với nhau hình thành Liên đoàn tù binh, đổi tên là Liên khu Trần Đại Nghĩa. Đảng ủy nhà tù Côn Đảo đã chỉ đạo công tác củ tập đảng viên ở khối tù binh, chuẩn bị cho đại hội lần thứ 3 của Đảng bộ. Khối tù binh đã có những đóng góp tích cực trong việc xác định phương châm và phương pháp hoạt động của Đảng bộ nhiệm kỳ này.

Giám đốc Côn Đảo sử dụng lực lượng tù binh làm khố sai trong việc tu bổ “con đường đồn điền” từ Sở Rẫy An Hải qua Sở Chuồng Bò và rải đá đoạn đường từ Chuồng Bò lên mỏ đá. Đầu năm 1952, Giátty đưa một kíp tù binh khai đá, một kíp mở con đường ra Bến Đầm.

Lực lượng tù binh thống nhất thành một khối, giữ tư thế của một đội quân chính quy có tổ chức chặt chẽ. Ngày đầu tiên đi làm khổ sai, đoàn tù binh tập hợp hàng 4, đi đều theo hiệu lệnh của đại diện. Lúc trở về trại tù, họ cũng đi theo đội ngũ, khi đến thị trấn là đi đều cho đến khi vào trại, vốn là những chiến sĩ có tổ chức và kỷ luật, họ giữ được nền nếp quân sự ngay cả ở trong tù. Đầu trần, chân đất, cuốc xẻng trên vai, đoàn tù binh đi đều tăm tắp trên đường phố Côn Đảo và hát vang những bài ca cách mạng, dù trưa ngày nắng hay ngày mưa. Nhiều người bị đá răm đâm rách chân, toé máu cũng không rời hàng ngũ. Gác ngục, công chức và vợ con họ ra xem rất đông. Họ nhận xét rằng tù binh Việt Minh đi đều bước hay hơn lính Âu-Phi. Một số người lén tặng quà cho tù binh, khi thì vài bó rau, khi thì vài gói thuốc lá. Anh em tù binh tặng lại họ những đồ lưu niệm bằng gỗ găng, vỏ ốc hoặc những chiếc khăn tự thêu.

Tháng 7-1952, đoàn tù binh thứ 3 ở Bắc Bộ bị đày ra Côn Đảo, đưa thẳng về Banh III, ở Khám 1 và Khám 2. Hoàng Minh Chính làm đại diện Khám 1. Lâm Văn Độ đại diện Khám 2. Các anh: Nguyễn Văn Nghĩa, Vũ Duy Tiêu, Nguyễn Văn Phúng, Trần Dừa giúp Đảng ủy củ tập đảng viên trong đoàn tù binh thứ 3. Nhà tù sử dụng ngay số tù binh mới ra vào việc sửa chữa lại

Banh III. Tháng 10-1952, thực dân Pháp đày ra Côn Đảo 2 chuyến tù binh nữa, gồm 160 người ở cả ba miền, Bắc, Trung, Nam, đưa thẳng về Banh III. Sau khi sửa xong Banh III, chúng chuyển dần số tù binh ở Banh II về đó, thành lập trại tù binh. Theo báo cáo của Giám đốc Côn Đảo, đến tháng 12-1952, đã có 548 tù binh bị đày ra Côn Đảo.

Đảo ủy Côn Đảo

Trong lúc cuộc đấu tranh chống Liên xã diễn ra hết sức gay gắt, Đảng ủy đã tích cực chuẩn bị cho Đại hội Đảng bộ lần thứ 3. Anh Lê Văn Hiến (tức Văn, tức Hiến, tức Ý), nguyên Tỉnh ủy viên, Trưởng ban Chính trị Tỉnh đội Hải Dương, đã báo cáo với Đảng ủy nội dung cơ bản của Đại hội toàn quốc lần thứ II của Đảng (2-1951) và tham gia soạn thảo các nghị quyết của Đại hội Đảng bộ. Nhờ nắm vững tinh thần Đại hội lần thứ II của Đảng và biết tiếp thu những kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng bộ trong 2 năm trước, anh Văn đã có đóng góp tích cực vào việc xác định phương hướng đấu tranh trong giai đoạn mới. Dự thảo Nghị quyết Đại hội Đảng bộ đã xác định rõ các mục tiêu đấu tranh trong tù:

– Chống áp bức khủng bố.

– Cải thiện đời sống vật chất.

– Nâng cao đời sông tinh thần.

– Bảo vệ mạng sống tù nhân.

– Xây dựng lực lượng dự bị cho kháng chiến và tổ chức giải thoát khi có điều kiện.

Đế thực hiện các mục tiêu đó, cần sử dụng và kết hợp nhiều phương pháp như kiến nghị, dư luận, trực diện yêu sách, đình công bộ phận hoặc tổng đình công khi cần thiết. Yêu sách đưa ra phải thiết thực, tranh thủ giành thắng lợi từng bước, hết sức hạn chế đấu tranh tuyệt thực để tránh hao tổn sức khỏe và lực lượng. Điều kiện quyết định thắng lợi trong tranh đấu là phải thống nhất lực lượng, tổ chức chặt chẽ, đoàn kết thành một khối và giữ được kỷ luật nghiêm minh.

Kỷ luật tự giác là một nội dung được nhấn mạnh trong nghị quyết Đại hội. Giáo dục, giác ngộ, thuyết phục, đoàn kết và thương yêu vừa là phương châm lãnh đạo, vừa là động lực trong các hoạt động của Đảng bộ nhiệm kỳ này. Một số hình thức kỷ luật có tính chất nhục hình đều bãi bỏ.

Nghị quyết Đại hội xác định, vào tù là tiếp tục cuộc kháng chiến trên một mặt trận mới, vì thế nhiệm vụ của Đảng bộ là phải tổ chức, giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên, rèn luyện lực lượng cho kháng chiến, đồng thời phải góp phần với kháng chiến, tiến công dịch bằng các hình thức phá hoại kinh tế địch, chia rẽ hàng ngũ địch, chuẩn bị lực lượng để khi có thời cơ sẽ tự giải phóng cho mình. Nghị quyết còn đề cập đến nhiệm vụ của Đảng bộ trong việc đoàn kết và lãnh đạo bộ phận tù nhân là người thiểu số, người gốc Cao Miên, Lào, Trung Quốc. Vấn đề xây dựng kinh tế tập trung, phục vụ các cuộc tranh đấu và các hoạt động của Đảng bộ cũng được đề cập một cách cụ thể.

Đại hội lần này có số lượng đảng viên đông hơn trước, với sự đóng góp tích cực của gần trăm đảng viên thuộc khối tù binh mới củ tập và phân chi bộ Khám tử hình mới thành lập do Lý Hải Châu làm Bí thư. Một số đảng viên của phân chi bộ Khám tử hình đã hy sinh anh dũng trên trường bắn ngay sau ngày Đại hội như các anh Lê Như Thu tức Anh (G.236), Nguyễn Văn Vầu (G.221), Nguyễn Văn Cơ tức Huỳnh (G.226), v.v…

Vào những ngày cuối năm 1951, đầu năm 1952 Đại hội đại biểu lần thứ 3 Đảng bộ Côn Đảo được tổ chức. Ở khu biệt lập, việc nhóm họp khá thuận lợi. Khu vực tù binh, các đại biểu báo ốm nghỉ lao động khổ sai để thảo luận tại khám. Ở các kíp khổ sai thì tùy theo điều kiện từng nơi mà bố trí họp. Mỗi nhóm đại diện đều có một người phụ trách, nhận tài liệu và hướng dẫn thảo luận. Ngày đầu các đại biểu nghe và thảo luận phần I nghị quyết, đánh giá tình hình hoạt động trong hơn một năm qua của Đảng bộ; ngày hôm sau tiếp tục nghe và thảo luận phần II về phương hướng hoạt động của Đảng bộ. Các ý kiến đóng góp được chuyển về bộ phận tổng hợp qua đường dây liên lạc.

Đại hội lần thứ 3 nhấn mạnh yêu cầu đấu tranh cho quyền sống hàng ngày, chống khủng bố đánh dập, đòi nhà tù thực hiện đúng theo quy chế, đối xử với tù binh phải theo công ước quốc tế. Đại hội chủ trương tiếp tục phân hóa bọn tù gian Liên xã, cô lập và vạch mặt những tên đầu sỏ làm tay sai đắc lực cho Pháp; tranh thủ số quần chúng Liên xã, hạn chế những hoạt động khiêu khích của chúng, tiến tới lập lại tổ chức Liên đoàn ở các khu bị chúng chiếm giữ. Đại hội nhất trí với các nhiệm vụ mà nghị quyết Đại hội đã nêu, trước hết, hướng hoạt động của khối tù nhân vào các cuộc đấu tranh hàng ngày, đồng thời phải bí mật chuẩn bị cho cuộc giải thoát lớn, quy mô toàn đảo khi có điều kiện.

Đại hội bầu ra Ban chấp hành Đảo ủy, thống nhất giữa tù binh và tù án. Đồng chí Lê Văn Hiến (tức Văn, thường gọi là Văn Hiến) là Bí thư với bí danh là Vũ Chính. Đồng chí Lê Mai là Thường vụ Đảo ủy, kiêm Chủ tịch Liên đoàn tù nhân. Giúp việc cho Đảo ủy có Ban tuyên huấn, Ban kinh tế – xã hội, Ban đảng vụ, Ban tuyên truyền văn nghệ và Ban thi đua. Mỗi banh có một chi bộ (5 chi ủy viên), mỗi khám là một phân chi (3 phán chi ủy viên).

Đại hội quyết định đổi tên Liên đoàn tù nhân thành Liên đoàn tù nhân kháng chiến Côn Đảo. Dưới cấp toàn đảo, mỗi banh có Ban chấp hành liên khu, mỗi khám đều có Ban chấp hành khu. Ban chấp hành khu còn tổ chức tù nhân trong khám thành từng toán 10 người theo mâm ăn, có toán trưởng phụ trách; trong toán còn có tổ 3 người (tổ tâm giao), chặt chẽ như một đạo quân chiến đấu.

Thực hiện nhất nguyên chế trong lãnh đạo, các cấp ủy đảng đều cử người tham gia và trực tiếp lãnh đạo Liên đoàn tù nhân kháng chiến ở các cấp. Ngoài những người được giao chuyên trách một công tác của Đảng bộ, các đảng viên còn lại đều đảm nhiệm một nhiệm vụ của Liên đoàn. Liên đoàn vừa là một tổ chức quần chúng dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, vừa giống như một chính quyền của tù nhân kháng chiến. Mỗi đảng viên vừa là người lãnh đạo, vừa là một thành viên của Liên đoàn với đầy đủ quyền lợi, trách nhiệm và nghĩa vụ.

Đại hội lần thứ 3 kết hợp được kinh nghiệm của lực lượng tù án trong nhiều năm xây dựng phong trào với trình độ tổ chức chặt chẽ của lực lượng tù binh và những chủ trương mới mà các đoàn tù binh vừa đem ra; kết hợp việc củng cố tổ chức Đảng với kiện toàn tổ chức Liên đoàn. Đại hội đề ra được những chủ trương và biện pháp thực hiện sự lãnh đạo toàn diện và trực tiếp của Đảng trên mọi lĩnh vực hoạt động của tù nhân kháng chiến Côn Đảo.

Cuối tháng 2-1952, 75 tù nhân án khổ sai từ 20 trở lên ở nhà lao Hỏa Lò (Hà Nội) bị đưa vào Chí Hòa rồi đưa ra Côn Đảo, giam riêng ở Khám 6 Banh II, phiên chế thành một ê kíp Chỉ Tồn, làm các việc khổ sai và dọn tàu. Khám tù này ra nhập Liên đoàn tù nhân, mang tên khu Hoàng Sâm. Anh Lương Quang Thăng làm Chủ tịch khu kiêm Đại diện. Khám Hoàng Sâm có chi bộ từ nhà lao Hỏa Lò, gồm 11 đảng viên do Hoàng Nam tức Phan Xuân Tiềm làm bí thư; Phạm Gia Thọ và Lương Quang Thăng trong chi ủy. Đảo ủy công nhận chi bộ Hoàng Sâm là một phân chi bộ trong Banh II.

Những biến động trên chiến trường trong những năm 1951-1952 đã để lại nhiều dấu ấn trong chính sách trị tù của thực dân Pháp tại Côn Đảo. Mùa hè năm 1951, ta mở chiến dịch Quang Trung (tức chiến dịch Hà Nam Ninh), tên quan hai Bernard de Lattre bị bắn chết tại trận. Tháng giêng 1952, trung úy Leclère, con trai đại tướng Leclère bị bắt sống trên mặt trận Hòa Bình. Tướng Lattre de Tassigny Tổng chỉ huy kiêm Cao ủy Pháp ở Đông Dương về Pháp và từ trần. Chính phủ Pháp vẫn tiếp tục đẩy mạnh cuộc chiến tranh. Ngày 17- 1-1952, Thủ tướng Pháp Edgar Faure tuyên bố trước Quốc hội Pháp: “Chiến tranh vẫn được thúc đẩy mạnh, mặc dù De Lattre qua đời’\

Để trả thù cho những trận thua đau và cũng là để tỏ rõ dã tâm thúc đẩy chiến tranh, thực dân Pháp đã xử bắn hàng loạt các chiến sĩ cách mạng. Riêng năm 1952, chúng đã bắn 35 người tại Côn Đảo, chiếm 56,4% số người bị xử bắn trong suốt 9 năm (1946-1954) tại đây. Ngay trong tháng giêng 1952, chúng đã xử bắn 3 đợt, tổng số 16 người, trong đó có thiếu nữ Võ Thị Sáu.

Võ Thị Sáu sinh năm 1933, là đội viên Đội Công an xung phong huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa. Gia nhập công an xung phong từ năm 13 tuổi, chị đã tham gia nhiều trận đánh, đặc biệt là các trận phá cuộc họp do tỉnh trưởng Lê Thành Tường tể chức tại Đất Đỏ năm 1948, nhân dịp Quốc khánh Pháp (14-7-1948); trận diệt tên cai tổng Tòng (11-1949). Tháng 2-1950, Võ Thị Sáu bị bắt trong trận diệt hai tên ác ôn Cả Suốt, Cả Đay và bị kết án tử hình. Bản án tử hình người thiếu nữ chưa đủ tuổi thành niên này đã làm chấn động dư luận lúc đó. Thực dân Pháp giam Võ Thị Sáu ở Chí Hòa gần 2 năm. Cho đến đợt khủng bố trả thù này, chúng mới y án và đưa chị ra Côn Đảo xử bắn.

4 giờ sáng 21-1-1952, bọn Pháp đưa hơn 40 tù nhân xuống tàu ra Côn Đảo, trong đó có Võ Thị Sáu và 3 tù án tử hình. Tàu ghé Vũng Tàu đón cố đạo và chánh án ra dự cuộc hành quyết. Ngày 22-1-1952 tàu đến Côn Đảo. Chúng giam riêng Võ Thị Sáu tại xà lim của Sở Cò, canh gác nghiêm ngặt. Được tin thực dân Pháp đưa người thiếu nữ Võ Thị Sáu ra đảo xử tử, Đảo ủy và Liên đoàn phân công ngay một số tù nhân làm bồi ở Sở Cò và văn phòng Giám đốc bí mật tiếp xúc, động viên chị giữ vững tinh thần trước phút hành hình. Ngay buổi chiều ấy, bộ phận tù áo trắng đã chuyển đến chị Sáu lời chào của Đảo ủy và Ban chấp hành Liên đoàn tù nhân Côn Đảo. Các anh cũng tìm hiểu được lý lịch và thành tích chiến đấu của chị Sáu đế làm cơ sở tố cáo kẻ thù và giáo dục truyền thống cho tù nhân.

Mờ sáng ngày hôm sau, 23-1-1952, thực dân Pháp đưa Võ Thị Sáu đi bắn. Tại văn phòng Giám thị trưởng, chị từ chối rửa tội.

Trời chưa sáng hẳn. Gió chướng rít từng hồi. Người con gái bé nhỏ bình thản đi giữa những tên đao phủ ra nơi hành hình. Những người tù ở các khám đều đứng dậy hất vang vài Chiến sĩ ca đưa tiễn chị.

Phút cuối cùng, chị Sáu từ chối bịt mắt. Chị cất giọng hát bài Tiến quân ca và hô to các khẩu hiệu:

– Đảng cộng sản Việt Nam muôn năm!

– Hồ Chủ tịch muôn năm!

– Việt Nam độc lập muôn năm!

Cùng trong buổi sáng đó, bọn Pháp bắn thêm một tử tù nữa là anh Hồ Văn Năm (Năm Đen, số tù G.248). Mộ anh chôn ngay cạnh mộ chị Sáu.

Trưa hôm ấy, tù nhân ở nhiều khám đã bỏ ăn và viết đơn tố cáo thực dân Pháp hành hình Võ Thị Sáu. Một người lính Lê dương già, gốc Đức đã bỏ ăn ba ngày. Trong mấy ngày chờ tàu về Sài Gòn, người lính Lê dương đã nói với những tù nhân làm bồi rằng anh ta hoàn toàn bị ám ảnh bởi đôi mắt bình thản và thái độ trầm tĩnh đến lạ lùng của chị Sáu. Sau đó, anh ta xin đổi về Pháp, bỏ hẳn nghề bắn thuê.

Các kíp tù đi làm khổ sai ở ngoài đã nhặt đá xếp quanh ngôi mộ chị. Tù nhân Sở thợ hồ dành từng nhúm xi măng, gom lại đúc bia mộ chị. Được tin ấy, chúa đảo Giátty ra tận nơi, đập nát tấm bia và cho lính cào bằng ngôi mộ. Ngày hôm sau lại có một tấm bia mới đặt lên, đống đá được xếp cao hơn trước. Bọn gác ngục đã đánh nát lưng cả kíp thợ hồ để tìm người đúc bia nhưng không sao tìm được. Trận ấy, anh Bảy “gà cồ” đã chìa lưng đỡ đòn cho những bạn tù yếu đuối. Tấm lưng anh nát tướp, ứa máu, không còn chỗ nào lành lặn.

Bác sĩ Huy làm nhiệm vụ khám nghiệm tử thi đã chứng kiên từ đầu đến cuối cái chết anh hùng của Võ Thị Sáu. Ông luôn miệng trầm trồ: “Thật là một người gang thép, một người anh hùng thật sự bằng xương bằng thịt mà ông tận mắt chứng kiến”. Ông dành mối thiện cảm ngày một nhiều hơn cho những người tù kháng chiến và trở thành liên lạc cho tù nhân. Nhiều tài liệu như Duy vật biện chứng, Bàn về mâu thuẫn do anh Bảy Vinh biên soạn, cuốn Tuyên ngôn dộc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hòa do anh em khu biệt lập Banh II chép lại đã được chuyển qua bác sĩ Huy đến đầu mối liên lạc tại Nhà Thương.

Nguyễn Văn Danh, thư ký văn phòng Giám thị trưởng đã chứng kiến và rất khâm phục thái độ can đảm của Võ Thị Sáu. Danh nhiều lần trầm ngâm bày tỏ lòng khâm phục chị Sáu trước các bạn tù. Danh vốn là tù kháng chiến, bị Liên xã chia rẽ và lôi kéo. Sau nhiều lần, Danh trung lập thái độ, không làm hại gì cho Liên đoàn.

Giống như Nguyễn Hoài Cư trước đây, Võ Thị Sáu đã làm cho cái chết trở thành bất tử. Dũng khí của chị trước phút hy sinh đã tô thắm thêm truyền thống bất khuất của Đảng bộ và toàn thể tù nhân kháng chiến Côn Đảo.

Phương án võ trang giải thoát

Bằng mọi cách để vượt ngục là tư tưởng thường trực trong những người tù kháng chiến. Các chiến sĩ trong lực lượng võ trang khi sa vào tay giặc đã không ngần ngại khi tính đến những phương án bạo động giải thoát mà họ vốn có sở trường.

Đoàn tù binh khi còn ở căng Đoạn Xá (Hải Phòng) đã có phương án đục tường, vượt rào nhưng chưa thực hiện được. Xuống tàu ra Côn Đảo, anh em lại tổ chức lực lượng tính cướp chiếc tàu L’Espérant rồi đổ bộ vào vùng tự do nhưng không thành. Đến Côn Đảo, đi làm khổ sai một thời gian, họ đã tự tính một phương án võ trang giải thoát. Khối tù án đã giúp Đảo ủy tống kết những kinh nghiệm vượt đảo, kể cả thành công và thất bại và các loại phương tiện vượt ngục mà tù nhân đã sử dụng.

Phương án võ trang giải thoát được đặt ra sau khi nghiên cứu tất cả các phương tiện vượt ngục, các loại vật liệu trên đảo, từ vạt mây trên rừng đến tấm ván trên vách nhà xưởng; tính toán việc bố trí lực lượng và dự toán những khả năng thời cơ. Nếu thời cơ hoàn toàn thuận lợi, có thế võ trang cướp đảo, tổ chức vượt ngục bằng tất cả các phương tiện như thuyền nan, thuyền ván, thuyền khung mây bọc vải, sà lan, ca nô hoặc chiếm tàu của địch. Trong điều kiện hạn chế hơn, có thể giải thoát từng bộ phận lớn hay bộ phận nhỏ mà khả năng cho phép.

Khác với các cuộc vượt ngục lớn hay nhỏ, toàn bộ kế hoạch giải thoát (dù là một bộ phận nhỏ) đều do thường vụ Đảo ủy trực tiếp chỉ đạo. Mục đích đặt ra là tổ chức giải phóng một lực lượng cách mạng chứ không mang ý nghĩa giải thoát sinh mạng cho cá nhân. Các cuộc vượt ngục lẻ thì tùy theo điều kiện của từng nhóm, nhưng kế hoạch giải thoát từng bộ phận thì cá nhân phải phục tùng tập thể.

Đầu năm 1952, nhà tù đưa một kíp tù binh xẻ gỗ ở phía Cỏ Ống và một bộ phận tăng cường để chuyển ván đã xẻ về nhà lao. Kíp thợ xẻ lúc đầu có 10 người, do gácdang Lơben (Lebel) gốc Ấn Độ phụ trách, có 3 lính Âu-Phi đi cùng. Thời gian sau, kíp thợ xẻ tăng lên gần ba chục người. Anh Lê Phong tức Lê Đức Lâm làm đại diện. Kíp thợ xẻ được Đảo ủy giao chuẩn bị phương tiện cho một chuyến vượt biển. Người đi do Đảo ủy bố trí. Các anh Phan Du, Trần Văn Xược, Đỗ Quang Hiệp, Thê đã thay nhau vào tổ đi kiếm rau cải thiện để luồn rừng, chặt tre, vót nan đan thuyền. Tre ở cỏ Ông khá nhiều. Thuyền nan tre là phương tiện khá quen thuộc của người dân vùng đồng bằng Bắc Bộ.

Công việc đang tiến triển thuận lợi thì đột nhiên nhà tù rút toàn bộ kíp thợ xẻ điều về Bản Chế xẻ gỗ thay cho máy cưa. Mấy chục súc gỗ do kíp kéo cây ở Bảy Cạnh đưa về rắn quá, cưa đĩa ở Bản Chế không nhá nổi. Xẻ xong đợt gỗ ở Bản Chế thì nan tre trên rừng đã mục. Phương án thuyền nan tre bỏ dở.

Lần thứ 2, kíp thợ xẻ bị điều đi xẻ gỗ trên rừng phía cầu Ma Thiên Lãnh. Nhận được lệnh tiếp tục chuẩn bị vượt ngục, kíp thợ xẻ quyết định phương án đi thuyền ván vì ở Ma Thiên Lãnh rất hiếm tre. Nhờ làm binh vận tốt, kíp thợ xẻ được bổ sung thêm người. Một bộ phận dựng lán xẻ ở phía đầu Mom (mũi Cá Mập). Anh em đã đào tạo thêm nhiều tay thợ xẻ, mỗi ngày vài người luồn sâu vào trong núi hạ gỗ búng (một loại gỗ nổi, có nhiều ở Côn Đảo) xẻ ván giấu đi, chuẩn bị đóng thuyền. Bọn lính Âu-Phi khá dễ dãi. Chúng chỉ cần đếm đủ đầu người lúc đi, lúc về, còn công việc thì để cho đại diện ta điều khiển. Anh em sở Bản Chế đã cung cấp đai thùng, đục, giũa để làm thêm cưa.

Đáng ngại là bọn Rờsẹc. Chúng rất tinh thông và hay sục sạo. Nơi nào có gỗ búng, nơi nào có tre mây, chỗ nào đóng được thuyền bè, bãi nào thường hạ thủy là chúng đều biết hết. Nhóm xẻ ván đóng thuyền phải ngụy trang từng gốc cây vừa hạ, chôn giấu hết lá cành, gỗ xẻ xong giấu biệt làm nhiều nơi, nhưng bọn Rờsẹc đã phát hiện kíp đầu Mom đang xẻ ván đóng thuyền với đầy đủ tang chứng. 8 tù binh trong kíp xẻ ở đầu Mom bị bắt về tra khảo để tìm ra manh mối tổ chức vượt ngục. Kíp xẻ ở Ma Thiên Lãnh được tin cũng phải thủ tiêu toàn bộ số ván đã giấu đủ để đóng 2 chiếc thuyền. Ai cũng tiếc đứt ruột.

Được Đảo ủy chỉ đạo, các anh Trần Văn Xược, Đỗ Quang Hiệp, Phan Lượng, Thép, Qua (tức Mậu) đứng ra nhận hết để khỏi lộ phương án giải thoát của Đảo ủy. Cả 5 anh đều phải trải qua đủ mọi cực hình nhưng không ai hé răng khai gì, ngoài việc nhận chủ mưu vượt ngục. Anh Qua (Mậu), quê ở Hoành Bồ, tỉnh Quảng Yên (nay thuộc Quảng Ninh) bị đánh bầm dập cả người, máu chảy ròng ròng từ đầu xuống mặt vẫn không nao núng. Anh không trả lời những câu hỏi của tên cò như tổ chức có những ai? Cưa, giũa lấy ở đâu?…, mà quay lại hỏi hắn: “Các ông còn cách đối xử nào dã man hơn nữa không”.

Khí phách can trường của anh làm bọn chúa ngục phải kiêng nể, lau máu mặt cho anh và thôi không đánh nữa. Chúng kết thúc hồ sơ 5 người.

Sau khi tu bổ xong “con đường đồn điền” qua An Hải và rải đá đoạn đường 700 mét lên Chuồng Bò, Giátty đưa lực lượng tù binh mở con đường ra Bến Đầm. Hắn trù tính sẽ nối Côn Đảo với vịnh bến Đầm trước mùa gió chướng. Trong các báo cáo gửi về Sài Gòn, Giátty cho rằng công việc mở con đường này đang trở nên cấp thiết để cung cấp thực phẩm cho Côn Đảo. Bến Đầm là vịnh duy nhất mà tàu bè ra vào được trong mùa gió chướng. Trong tương lai, y sẽ kéo dài con đường này vòng qua phía tây của đảo, nối liền với nhánh đường phía bắc, từ thị trấn qua đèo ông Đụng. Con đường này sẽ giúp chúng kiểm soát được toàn bộ phía tây hòn đảo, nơi xuất phát phần lớn các cuộc vượt ngục.

Cuối tháng 5-1952, địch đưa một kíp tù binh hơn trăm người ra mở đoạn đường từ mũi Cá Mập ra Bến Đầm. Chúng cho tù nhân dựng lán ở trong một thung lũng nhỏ. Kíp tù binh thứ hai, khoảng 100 người rải đá đoạn đường từ Sở Đá ra mũi Cá Mập. Kíp tù này sáng có ô tô đưa đi, tối xe đưa về banh ngủ. số tù binh còn lại làm ở công trường đá. Kíp thợ xẻ tiếp tục xẻ gỗ về đóng đồ cho bọn thống trị. Một kíp khác sửa Banh III.

Tình thế đã xuất hiện thời cơ cho một cuộc giải thoát. Các Đảo ủy viên trong khối tù binh đã phác thảo một phương án võ trang cướp đảo, đưa toàn bộ tù nhân trở về. Theo phương án, bộ phận ở Đầm sẽ tổ chức làm thuyền và lực lượng xung kích phát động cuộc khởi nghĩa, bắt gọn trung đội lính Âu-Phi ở đó. Kíp rải đá ở đầu mũi Cá Mập đồng thời hưởng ứng. Sau đó tất cả cải trang thành đội lính rồi lên ô tô về đảo, bất ngờ đánh chiếm trại lính, dinh chúa đảo, đài vô tuyến điện ở cầu Tàu. Kíp làm đá (cách thị trấn chưa đầy lkm) sẽ vận động theo lệnh cho các khu đồng loạt nổi dậy cướp đảo.

Ba mục tiêu quan trọng nhất là trại lính, dinh Giám đốc và trạm vô tuyến điện ở Cầu Tàu được tính toán kỹ và xây dựng lực lượng nội ứng tại chỗ. Tốp tù binh lao công ở trại lính hàng ngày (gần chục người) do các anh Lê Bá Linh, Nguyễn Ngọc Điệt và Trương Đăng Dũng phụ trách có nhiệm vụ cướp vũ khí và đánh chiếm trại lính từ bên trong đã điều tra nắm chắc quân số, trang bị và bố phòng của địch.

Mục tiêu dinh Giám đốc và trạm vô tuyến điện Cầu Tàu do lực lượng tự vệ bí mật của tù án làm nội ứng. Đội tự vệ của tù áo trắng phần lớn là những người làm bồi bếp có một số chiến sĩ Cô Tô tham gia sẽ đánh chiếm dinh Giám đốc, bắt gácdang. Tù áo trắng là lực lượng am hiểu hơn cả quy luật hoạt động và đặc điểm của mỗi tên gác ngục, kể cả đường ngang ngõ tắt của chúng.

Đội xung kích thứ 2 của tù án làm nhiệm vụ đánh chiếm trạm vô tuyến điện đã được hình thành trong kíp làm cỏ vê (trồng hoa, dọn vệ sinh) ở Cầu Tàu. Đảo ủy chỉ định Hoàng Xuân Tuế, chiến sĩ công an Hà Nội, một đảng viên trung kiên được kết nạp tại Côn Đảo chỉ huy. Mạng lưới tù áo trắng đã bố trí cho Tuế từ kíp Chỉ Tồn về Cầu Tàu để nhận nhiệm vụ mới.

Đội xung kích thứ 3 của tù án là khu Hoàng Sâm, chuyên đi dọn tàu. Kíp Hoàng Sâm có nhiệm vụ chiếm tàu chở hàng làm phương tiện vượt đảo. Đoàn Hoàng Sâm có 75 tù án ở Hỏa Lò, đến Côn Đảo vào đầu tháng 5 năm 1952, được bổ sung thêm 18 tù nhân ở Trung Bộ mới ra, tổng số 93 người. Phạm Gia Thọ, Phó bí thư phân chi bộ Hoàng Sâm phụ trách xây dựng lực lượng đã chọn được hơn 30 người hăng hái, trung kiên lập ra một trung đội tự vệ, lấy tên là “đội hành động” (trong giao dịch thì gọi là “đội trật tự” để giữ bí mật). Nguyễn Phạm Toán tức Nguyễn Thanh Sơn là trung đội trưởng, Nguyễn Văn Phòng là trung đội phó.

Sau khi trinh sát nắm tình hình, tiếp cận mục tiêu, kế hoạch chiếm tàu hàng được vạch ra cụ thể. Tiểu đội một sẽ mở màn trận đánh chiếm buồng chỉ huy, đài vô tuyến trên tàu, bắt thuyền trưởng, thuyền phó, chiếm lĩnh độ cao quan sát và chi viện cho 2 tiểu đội còn lại. Tiểu đội 2 sẽ chiếm buồng lái, bắt lái chính, lái phụ, thủy thủ và chi viện cho tiểu đội 3. Tiểu đội 3 bắt gácdang, thầy chú, thủy thủ trên boong và thợ máy dưới hầm tàu.

Mỗi sở tù khổ sai khác, kể cả khu biệt lập, đều có tổ chức lực lượng tự vệ bí mật. Nhiệm vụ của mỗi khu là bắt gácdang, thầy chú, lính gác trong khu vực mình khi có hiệu lệnh, sau đó sẽ theo sự phân công của Đảo ủy. Anh Tùng Lam, Phó bí thư Đảo ủy chỉ đạo việc bố trí lực lượng quân sự ở khối tù án. Anh Trần Nam, Đảo ủy viên đặc trách ngoại giới vận, trực tiếp chỉ huy mũi xung kích của tù áo trắng đánh vào dinh Giám đốc và bắt gácdang, thầy chú. Anh Vũ Ngọc Toàn, Chủ tịch Liên đoàn tù nhân Liên khu Võ Nguyên Giáp (Banh I), chỉ huy mũi xung kích của sở Chỉ Tồn đánh chiếm đài vô tuyến điện và chiếm tàu hàng.

Trong tương quan lực lượng lúc đó, việc võ trang chiếm đảo không phải là chuyện khó. Báo cáo năm 1952 của Giám đốc Giátty (số 2270-P, ngày 5-1-1953) cho biết, đến tháng 12-1952, Côn Đảo chỉ có 104 lính Âu – Phi, 10 sĩ quan và thủy thủ Pháp, 47 gácdang người Âu. Nếu kể thêm mấy chục thầy chú và công chức người Việt thì lực lượng chiến đấu của chúng cũng chỉ có trên 200 tên. Bọn này lại thạo dùng roi mây, báng súng, còng xiềng hơn là tác chiến. Cùng thời điểm đó, Côn Đảo có 548 tù binh và 1.739 tù án. Quá nửa số tù án đó là những chiến sĩ trong lực lượng võ trang (công an xung phong, biệt động, tự vệ thành, Vệ quốc đoàn, bộ đội địa phương…). Địch có vũ khí trong tay, còn tù nhân thì có lòng căm thù, có khát vọng được giải phóng và nhiều mưu mẹo.

Toàn đảo lao vào chuẩn bị cho phương án võ trang giải thoát một cách hết sức khẩn trương và bí mật. Đi làm khổ sai, các lực lượng đều bám sát mục tiêu, đối tượng, nắm chắc mọi tình huống. Giờ nghỉ, anh em tập võ thuật, tập chiến thuật tay không bắt địch, tập vượt rào, vượt tường dưới các hình thức thể dục, thể thao như kéo co, đánh vật, nhảy cao, nhảy xa, chồng người vượt xà, tập trói lính, tập ném hỏa mù sao cho trúng mắt đối phương. Các chiến sĩ trong đội xung kích đều tự trang bị dây trói chắc chắn thay cho giải rút quần. Chiến thuật chủ đạo là tay không bắt địch, tuyệt đối tránh đổ máu.

Tù nhân sở Bản Chế rèn được trên trăm mũi mác xung kích trang bị cho bộ phận ở Đầm. Kíp làm đá lấy được gần hai chục kíp mìn đế khi cần sử dụng. Ban tạo tác của Đảo ủy đã chế tạo được hàng trăm gói “lựu đạn” hỏa mù bằng tro bếp trộn tiêu và ớt bột; tạo tác được hàng chục thùng sắt tây để đựng nước ngọt, làm phao; hàng chục hộp sơn, hàng trăm ký nhựa đường cùng các loại búa, rìu, dao, rựa, cưa, đục. Gần ngàn bộ quần áo tù đã được góp lại để bọc thuyền, may buồm. Tất cả được chuyển vận ra Đầm qua kíp tù binh làm ở đầu mom Cá Mập. Áo quần có thể mặc vào trong người. Các thứ khác thì để lẫn trong vật liệu, dụng cụ đi làm hoặc chia nhỏ, giấu trong thùng cơm canh, đem đến hộp thư chết. Kíp Đầm cử giao liên luồn rừng đến nhận. Đó là cuộc chuẩn bị vượt ngục quy mô lớn nhất của toàn đảo trong lịch sử hơn trăm năm của nhà tù này.

Công tác binh địch vận cũng góp phần quan trọng vào việc chuẩn bị vượt ngục. Bộ phận binh vận của tù binh gồm tất cả những người làm đại diện kíp, đại diện khám, đại diện chung. Đảo ủy chỉ đạo công tác binh vận phải tập trung vào lính Âu – Phi, chiếm 91% lính đồn trú trên đảo. Họ là những người anh em các dân tộc bị áp bức, lừa gạt, cùng đường phải cầm súng đánh thuê. Các chiến sĩ binh vận của Đảo ủy đã được học về địa lý châu Phi, về đất nước, con người, sản vật, phong tục tập quán của nhiều dân tộc Phi châu như Angiêri, Xênêgan, Côttinoa, Ghinê, Môdămbích, Sariêng. Hằng tuần, các đại diện đều họp kiểm điểm công tác binh vận, rút kinh nghiệm trong cách giao thiệp và tranh thủ binh lính địch. Phạm Quý Tuyển (Đảo ủy viên) được phân công lãnh đạo hơn chục anh em đại diện kíp, đại diện khám làm công tác binh vận.

Đội ngũ binh vận đã gây được thiện cảm với hầu hết những người lính châu Phi, gieo vào lòng họ nỗi nhớ quê hương và chán ghét cuộc chiến tranh xâm lược bẩn thỉu, khơi lên mối đồng cảm của các dân tộc cùng chung ách áp bức của thực dân Pháp, tặng họ những chiếc khăn mùi xoa thêu hình cây dừa và cây chuối, hình ảnh chung của xứ nhiệt đới. Binh lính da đen thường cung cấp tin tức và âm mưu của bọn chúa đảo cho anh em. Khi bị huy động vào các cuộc khủng bố, họ thường “giơ cao đánh khẽ”, có khi còn lén cho anh em cả muối, đường, thuốc bổ. Hoàng Bách tức Nguyễn Văn Nhã, một trong những dại diện của khối tù binh đã viết bài thơ Anh lính da màu tặng những người lính “quê hương tận xứ Phi châu xa vời” dã có nhiều thiện cảm với tù nhân Côn Đảo.

Đối với các giám thị trông coi công việc khổ sai, anh em tù binh cũng giữ một thái độ đúng mực. Chỉ có đại diện mới được quyền giao dịch, còn những anh em khác tuyệt đôi không được tiếp xúc. Lời nói, cử chỉ của đại diện phải đàng hoàng trên tư thế của người kháng chiến, không xúc phạm họ, không hạ thấp mình; sẵn sàng cho họ bó củi, mớ rau, con cá hoặc đan rổ rá, đóng giúp đồ dùng trong nhà như bàn ghế, giường, tủ. Họ xin là cho, họ cần là giúp, tuyệt đối không mua bán đổi chác trên tư cách của người lính Cụ Hồ chiến đấu giải phóng cho dân tộc, chỉ giúp đỡ nhân dân chứ không cầu lợi.

Điều đó có ảnh hưởng tốt, nhưng cũng đem lại sự hiểu lầm trong gác ngục, công chức là tù binh tốt hơn tù án; rằng tù binh gần Cụ Hồ được giáo dục có kỷ luật hơn. Nhiều gác ngục Việt Nam cứ gần tù binh là hỏi chuyện về Cụ Hồ. Anh em nhân đó mà giải thích cho họ, tù binh hay tù án đều là người kháng chiến, là người lính Cụ Hồ. Họ cũng ngỏ lời sẵn sàng giúp anh em những việc không vượt quá khả năng.

Lực lượng làm công tác địch vận ở khối tù án chủ yếu lại là những người tù áo trắng. Họ làm thư ký, lao công, bồi bếp cho tất cả các công sở, cho từng gia đình gác ngục, am hiểu hoàn cảnh và tâm tính từng tên. Anh Trần Nam, Đảo ủy viên được đưa vào làm thư ký Kho Bạc, chỉ đạo công tác ngoại giới vận. Các đảng viên trong chi bộ áo trắng là những thành viên tích cực của Ban ngoại giới vận như: Lê Văn Ngô, Trương Qua, Cao Hồng Quý, Huỳnh Phò… Ban ngoại giới đảm nhiệm nhiều công việc quan trọng như giao thông liên lạc, ngoại vận (vận động giáo dục, công chức và gia đình họ), tạo tác (tìm kiếm chế tạo các vật dụng) theo yêu cầu của Đảo ủy và tiếp tế cho các khu.

Các anh Lê Văn Ngô, Trần Nam, Trương Qua đã giác ngộ và tổ chức bà Bùi Thị Quý, vợ giám thị Cácliê (Carlier) thành một cơ sở giao liên tin cậy của Đảo ủy. Nhà bà ở cạnh nhà chủ sở Rờsẹc Đúplây (Douplei) lại là nơi liên lạc, hội họp rất an toàn của chi bộ áo trắng và Ban ngoại vận Đảo ủy. Sau này, tù nhân khu Hoàng Sâm tiếp tục liên hệ với bà Bùi Thị Quý để cảm hóa giám thị Cácliê bớt hung ác hơn trước. Ông Trần Văn Thiều, công chức ở Kho Bạc, ông Ba Dương lái ca nô cùng nhiều gia đình gácdang, thầy chú có cảm tình đã mua giúp sơn, vải cùng các phương tiện vượt ngục.

Chính sách dân vận đúng đắn của Đảo ủy đã góp phần tích cực vào việc chuẩn bị cho phương án võ trang giải thoát. Đảo ủy tích cực chỉ đạo việc giác ngộ và tổ chức các tù nhân người Trung Hoa, Khơme, Lào, Thái và các dân tộc ít người. Các anh Trương Qua, Quách Ngự phụ trách công tác người Hoa. Các anh Cao Sơn, Chao Xem, Thạch Vi nhận vận động anh em tù Khơme làm ở sở Rờsẹc. Nhóm tù nhân người Lào có các anh Bun Thoong, Nai Cà Lươn chịu trách nhiệm vận động. Nhóm tù nhân người Thái và các dân tộc ít người thì giao cho Ban chấp hành các khu chỉ đạo và xây dựng khối đoàn kết.

Công tác vận động tù Khơme làm ở sở Rờsẹc có chuyển biến rất khả quan. Số ác ôn làm tay sai cho nhà tù lùng bắt các cuộc vượt ngục ít hẳn đi. Tốp Rờsẹc ở Bến Đầm còn chỉ cho tù binh những nơi có nhiều mây và lờ đi không báo cáo trong khi anh em chặt hàng ngàn cây mây về làm thuyền. Vì thế, cuộc chuẩn bị vượt ngục quy mô lớn nhất giữa lúc bọn tù gian Liên xã còn đang hoành hành mà không bị lộ.

Cuộc vận động còn đem lại kết quả không ngờ là một phần lớn tù Khơme đồng tình tổ chức vượt ngục với tù kháng chiến. Cao Sơn, chiến sĩ ítxarác người Khơme đã cùng Trần Minh và một số tù kháng chiến vượt ngục thành công, trở về tham gia kháng chiến ở Nam Bộ.

Chao Xem và Thạch Vi đã tổ chức cho 83 tù Khơme, phần lớn làm ở Rờsẹc vượt ngục cùng 4 tù kháng chiến ở Nhà Đèn là Bùi Văn Hậu, Tạ Văn Quang, Lý Tài và Trâm. Cuộc này không thành, nhưng tình đoàn kết của những tù nhân Việt Nam và Khơme được vun đắp bền vững hơn.

Nhóm tù chính trị người Hoa đã giúp Đảo ủy có hiệu quả trong việc cảm hóa số tù tư pháp người Hoa. Trong hơn sáu chục tù nhân người Hoa, có hơn 2/3 là tù tư pháp, nhưng tất cả anh em đều ủng hộ Liên đoàn, không một ai theo Liên xã. Tù người Hoa làm những món ăn truyền thông như rađi (củ cải đỏ), vằn thắn mì… mà gácdang Pháp rất thích. Nhiều anh trong lúc làm bồi, làm bếp đã chế biến các món ăn độc đáo và thu được khá nhiều tiền góp cho quỹ xã hội của Liên đoàn, quỹ tạo tác của Đảo ủy. Một phần trong số tiền ấy được chuyển thành sơn, vải và các phương tiện vượt ngục. Các anh Quách Ngự, Trương Qua, Trần Bảo Trung, Hàn Giang Nguyên, Hàng Chức Nguyên, Thích Nguyên, Giang Thủy, Ngũ Hương, Lý Tài, Liêu Hồng, Hà Thành Quang… là những hạt nhân đóng góp tích cực trong công tác người Hoa và thực hiện nhiều nhiệm vụ khác của Đảo ủy.

Một .phần lớn hoạt động của tù nhân trong năm 1952 đã tập trung cho phương án võ trang giải thoát. Công tác chuẩn bị khấn trương nhất cho kế hoạch giải thoát do bộ phận xung kích ở Đầm thực hiện. Kế hoạch đào hầm bí mật, đóng thuyền vượt ngục được định ra rất sớm nên ngay từ khi dựng lán, kíp tù binh đã chọn một gò đất cao, không có đá tảng. Lán rộng 6m, dài 30m trong một thung lũng giữa mũi Cá Mập và vịnh Bến Đầm. Lán được quây kín bằng tranh tre, chỉ có một cửa bên hông, trông thẳng sang trại của lính Âu-Phi.

Bên trong lán có 2 dãy giường sạp chạy dọc theo 2 bên, rộng hơn 2m. Anh em chặt mây song về chế ra đan thành từng tấm lớn trải ra thay giát giường. Mỗi tấm giát vừa vặn một mê thuyền khi vượt đảo. Thang giường cũng được đẽo sẵn theo hình bơi chèo, xà nhà căn vừa đủ để làm cột buồm. Khung thuyền, thanh ngang, thanh dọc đều được làm giả khung giường, theo đúng kích cỡ, đục đẽo sẵn và lắp tạm dưới giường, chờ ngày vào đúng vị trí.

Buổi tối, từ 6 giờ đến 10 giờ, một kíp tiến hành đào hầm dưới gầm giường, đất được san đều ra nền nhà rồi ngụy trang phía trên bằng những lớp đất cũ, trên rải SỎI. Hầm đào đến đâu được chống, chèn chắc chắn theo phương pháp chống lò của thợ mỏ Hòn Gai. Lâu ngày, đất đổ đầy gầm giường, anh em làm sập giường và đề nghị bọn lính cho sửa vào ngày chủ nhật, nhân đó mà dọn đất ra ngoài và đưa gỗ vào chèn chống, đóng khung thuyền vào nhà, xuống hầm. Hàng trăm mét khối đất đá đã được đưa ra ngoài, hàng chục thước khối gỗ chèn chống và đóng khung thuyền đã được đưa vào nhà rồi xuống hầm bằng cách ấy. Ngày làm khổ sai, tối thay nhau đào hầm, san đất, ngụy trang, chuyển cây, chèn chống, luyện tập võ thuật, chiến thuật chồng người vượt xà nhà, tập bơi…

Ản đói mặc rách, gian nan nhiều nhưng ai cũng phơi phới trong lòng. Hầm tôi, làm đêm, mò mẫm từng xẻng đất, nhưng ánh sáng của độc lập tự do đã tỏa sáng tâm hồn họ.

Việc đào hầm đang tiến triển thì bât ngờ đụng tảng đá lớn hơn 2 mét khối, nặng vài tấn, không có cách nào đưa lên nổi. Chỉ một tảng đá thôi cũng đã làm tắc đường hầm, phá sản một kế hoạch được chuẩn bị hết sức công phu và hao tổn mồ hôi công sức. Vào giờ phút tưởng như bế tắc thì những người tù kháng chiến nguyên là thợ mỏ Hòn Gai đã cứu vãn tình thế. Theo kinh nghiệm xử lý hầm lò, họ đào sâu đất cát phía vách hầm rồi khoét cho hổng chân, đánh sập đá xuống. Tối nào các anh trong đội tuyên truyền văn nghệ cũng ca hát đến 22 giờ đêm để làm lạc hướng chú ý của lính gác. Ngày chủ nhật, họ bứng những cây dừa con về trồng quanh lán để nghi binh. Tên quản da đen vui vẻ hỏi:

– Các anh định ở đây suốt đời sao?

Anh em trả lời:

– Bao giờ hết chiến tranh chúng tôi sẽ về!

Khi đó, trong 2 căn hầm bí mật dưới lòng đất, 5 chiếc khung thuyền đã đóng sẵn, 2 chiếc đã cạp xong mê. Tất cả chỉ còn đợi mùa gió chướng. Chưa có năm nào mà hàng ngàn con người trong tổ chức ở hàng chục sở tù khổ sai, thuộc các trại tù binh và tù án lại cùng hồi hộp, khắc khoải, cồn cào, nao nức chờ mùa gió chướng như lần ấy.

Nỗi lo toan lớn nhất vẫn tập trung nơi kíp xung kích ở Đầm. Dưới căn hầm tôi đã xếp chật những khung thuyền. Họ khâu từng tấm áo tù thành tấm lớn rồi quét sơn, hắc ín để bọc thuyền. Tất cả đã từng chịu đựng đói khát, mệt nhọc, ngột ngạt triền miên, nhưng họ cảm nhận ngay một nguy cơ là công việc chuẩn bị đã lâu, vải có dấu hiệu ẩm mục; sơn giảm phẩm chất, mây đan mê để lâu cùng tóp lại, thưa roãng ra. Anh em phải đan một cái thúng, cắt một mảnh vải bọc thử rồi đem ra Bến Đầm hạ thủy, ngồi thừ, thấy được, nước không thấm, nhưng vẫn lo, mong gió chướng đến cháy gan cháy ruột.

Năm ấy gió chướng đến muộn. Cuối tháng 11 mới có vài đợt gió thổi, lúc nổi, lúc lặng. Tàu ra ít. Đảo ủy quyết định sang tháng 12, gió thổi sòng sẽ khởi sự. Các đội xung kích đạo quân ngầm đều đã sẵn sàng. Tất cả đều nắm chắc mục tiêu, rèn luyện võ thuật, chiến thuật, chính sách tù hàng binh, kỷ luật chiến trường. Chiến thuật chủ đạo là tay không bắt địch, 3 người đánh một. Phương châm tác chiến là bắt sống tất cả, hết sức tránh đổ máu, thực hiện tốt chính sách tù hàng binh. Thời cơ khơi sự đồng thời cũng là điều kiện bảo đảm thắng lợi gồm nhiều yếu tố:

– Gió chướng thật sòng.

– Có tàu hàng ra.

– Lực lượng xung kích ở Đầm và mủi Cá Mập phải đánh nhanh thắng gọn.

– Đồng thời đánh chiếm các mục tiêu chủ yếu như đài vô tuyến điện, trại lính, dinh Giám đốc, tàu hàng.

Tuy nhiên, các nhân tố thời cơ có thể không đến cùng một lúc nên phương án võ trang giải thoát đặt ra nhiều tình huống và giải pháp linh hoạt. Nếu đủ điều kiện bảo đảm cho toàn đảo thì đi toàn đảo, không đủ điều kiện thì đi bộ phận. Nếu không có tàu ra thì phải trù liệu các phương tiện trên đảo, các vật liệu hiện có để gấp rút đóng thuyền bè. Sau khi võ trang bạo động sẽ cử một đội cảm tử ở lại không chế đài vô tuyến phát tín hiệu an toàn theo định kỳ liên lạc để Sài Gòn không nghi ngờ. Đội cảm tử sẽ trở về sau bằng chiếc ca nô của đảo, khi một phần lớn tù nhân đã về đất liền. Đảo ủy cũng dự kiến trước những tình huống trắc trở vì gió không sòng, vì tàu không ra hay vì lực lượng xung kích đánh không gọn thì sẽ chỉ đi một bộ phận, để bảo vệ an toàn cho những người ở lại.

Một vấn đề đặt ra và day dứt nhất trong lãnh đạo là khi nổ ra võ trang bạo động, tất nhiên sẽ có tổn thất, hy sinh; vượt ngục tất yếu có thành, có bại. Đảo ủy đã chỉ đạo công tác chuẩn bị thật chu đáo, giáo dục các chiến sĩ tinh thần quyết tâm, quả cảm nhưng hết sức thận trọng và kỷ luật. Nếu phải chết vì bàn tay vấy máu của kẻ thù thì can đảm hy sinh như một người lính trên chiến trường, nhưng không được phép sơ xuất để đưa mình vào con đường tự sát.

Những yêu cầu khắt khe ấy đã đặt trọng trách lên những người có vai trò lãnh đạo. Đồng chí Văn Hiến, Bí thư Đảo ủy được bố trí vào kíp làm đường ở đầu Mom để trực tiếp chỉ đạo. Văn Hiến là người thận trọng, chín chắn, việc gì cũng tìm hiểu thâu đáo, phân tích có lý, có tình. Phan Du, tổng chỉ huy lực lượng võ trang toàn đảo được bố trí ở kíp Đầm để trực tiếp chỉ đạo lực lượng xung kích và quyết định tình thế khi khởi sự. Phan Du là người rất kiên quyết trong hành động. Bên cạnh Phan Du còn có Hoàng Tiễn, chỉ huy phó lực lượng vũ trang toàn đảo, đồng thời là đại đội trưởng Đại đội quyết thắng – lực lượng xung kích ở Đầm.

Phạm Quý Tuyển vừa là đại diện, phụ trách địch vận, đồng thời là một cán bộ quân sự, chỉ huy trưởng đại đội xung kích thứ 2 của tù binh ở đầu mũi Cá Mập. Bên cạnh đó còn có Lê Mai, Lưu Trí Viễn trong Đảo ủy cùng Lê Văn Ngọ, một đồng chí cũ dày dạn kinh nghiệm cùng họp thành “Bộ tư lệnh tiền phương” của cuộc võ trang giải thoát. Anh Tụng, nguyên Chủ tịch huyện An Dương – Hải Phòng; anh Triển, nguyên Phó chủ tịch huyện Tứ Kỳ – Hải Dương cũng tham gia Ban tham mưu tác chiến. Lực lượng tù binh còn lại ở Banh III được tổ chức thành đại đội thứ 3 do anh Phạm Bạt Tụy chỉ huy.

Đợt gió chướng thứ 2 bắt đầu thổi về vào những ngày cuối cùng của tháng 11. Đảo ủy chỉ đạo lực lượng xung kích hoàn tất việc chuẩn bị, dự kiến nếu đợt gió này kéo dài sẽ khởi sự vào trưa 4-12-1952. Nhưng một sự biến bất ngờ đã xảy ra. Tên phản động Hoàng Minh (tù binh) tố giác âm mưu vượt đảo. Hắn chỉ điểm cho gác ngục bắt Phan Cơ, đại diện kíp làm đá khi anh giấu kín mìn trong nón bàng để giao cho lực lượng xung kích. Phan Cơ bị tra tấn 3 ngày liền, không khai báo.

Hoàng Bách đại diện kíp làm đường cũng bị chỉ điểm, bị phạt xà lim ba tháng. Tên quan hai Gácđét (Gardès) đưa thêm lính ra, tập hợp toàn bộ kíp Đầm điểm danh, khám xét rất kỹ lưỡng khu vực lán trại, từ mái nhà, vách tường đến giường nằm, nền nhà.

Tình thế rất căng thẳng, Phan Du ra hiệu cho anh em các mũi xung kích chuẩn bị. Trường hợp bắt đắc dĩ, nếu địch xăm trúng hầm là phát lệnh làm luôn. May sao, địch không phát hiện được gì, Gácđét và tốp lính hộ tống lầm lũi về trại.

Nguy cơ bị lộ là mối đe dọa cấp bách nhất lúc đó. Nếu địch phát hiện ra căn hầm thì tai họa sẽ ập xuống toàn đảo. 5 khung thuyền lớn với hàng chục hộp sơn, hàng trăm ký nhựa với vô số dụng cụ, phương tiện, lương thực, thực phẩm, vũ khí tự tạo giấu trong căn hầm đó sẽ liên quan đến khắp các bộ phận, đổ bể hàng loạt cơ sở. Khi ấy không thể vài người đứng ra nhận mà xong được. Đảo ủy quyết định lùi lại một tuần nữa để theo dõi địch tình và chuẩn bị thật kỹ lưỡng, chờ đợt gió chướng tiếp theo sẽ đi.

Ngày 12-12-1952, cuộc bạo động đã nổ ra, bắt đầu từ kíp Đầm. Đợt gió chướng thứ 3 đã thổi về trước đó 2 ngày. 11 giờ trưa, chiếc khăn lệnh tung bay phần phật trên tay Phan Du cùng tiếng thét “xung phong” vang dội. 28 tổ xung kích của Đại đội Quyết Thắng ở Đầm đã trói gọn 28 lính da đen, thu hết vũ khí, không phải nổ phát súng nào. Bằng những thế võ hiểm, các chiến sĩ xung kích đã quật ngã ngay những tên lính to gấp hai ba lần.

Ở kíp đầu mom Cá Mập, do một vài tổ xung kích không bám sát địch nên đã xảy ra vật lộn và nổ súng. Ta chết 1, địch chết 2, một tên chạy thoát vào rừng, chỉ bắt được 2 tên, 2 tên nữa lăn xuống vực. Trận đánh không suôn sẻ như dự kiến.

Trưa ấy gió lặng dần. Không ai tính hết cho những bất ngờ trong khi bạo động. Ban chỉ huy hội ý cấp tốc và quyết định không đánh về đảo mà chỉ đi theo phương án giải thoát bộ phận. Cuộc bạo động đã nổ ra rồi, không thể dừng lại được.

Bộ phận làm công tác binh vận giải thích cho số lính da đen bị bắt về chủ trương võ trang vượt đảo giải phóng tù nhân và chính sách tù binh của ta. Những người lính này được trả lại đầy đủ tư trang, được ăn uống đầy đủ và chịu trói lại, để tù nhân vượt đảo. Tên quản cảm động, xin tặng các chiến sĩ ta một chiếc la bàn và một tấm bản đồ. Lực lượng còn lại dỡ hầm, ráp thuyền, đến 16 giờ đã hoàn chỉnh 5 chiếc thuyền sườn gỗ, khung máy bọc vải, có đủ buồm chèo. Mỗi thuyền còn được côn thêm 2 bó nứa hai bên để sóng to khỏi lật. Anh em dùng ô tô chở người và thuyền ra Bến Đầm để hạ thủy.

Trưa ấy các đội xung kích ở Côn Đảo cứ nóng lòng chờ. Bọn địch ở đảo vẫn không hay biết gi. Tên lính bị sổng trốn biệt đến đêm mới dám mò về. 17 giờ không thấy xe chở kíp làm đường về, chúa ngục cho lính lên tìm mới biết đoàn tù binh đã lên thuyền ra khơi. Sau này anh em cứ tiếc mãi. Nếu trưa ấy mà mũi xung kích đánh thẳng về thị trấn thì chắc thắng.

Gió lặng dần rồi đổi hướng. Đoàn thuyền chật vật suốt đêm chưa qua được lớp sóng đất. Hai thuyền bị vỡ cách bờ không xa. Mười mấy người bơi được vào bờ. Ba thuyền đi được đến mờ sáng thì khung mây ngấm nước rão ra, nước vào lưng thuyền. Nhiều người tự nguyện nhảy xuông biển hy sinh cho nhẹ thuyền. Trên thuyền số 1, năm chiến sĩ trong đội quyết tử xung phong hy sinh để bảo vệ lãnh đạo và những anh em còn lại. Nguyễn Hòa tức Nhạ, ôm phao cá nhân, lặng lẽ nhào xuống biển giữa đêm đen dầy đặc, bốn đồng dội theo sau anh. Nước vẫn vào, thuyền chìm dần, mây người nữa tiếp tục nhảy xuống biển, trong đó có cả anh Văn Hiến, Bí thư Đảo ủy. Một vài người nhờ giữ được phao, hoặc được thuyền khác kéo lên trong đó có Nguyễn Hòa, còn phần lớn bị sóng cuốn đi vì kiệt sức.

Sáng hôm sau máy bay và tàu chiến Pháp truy đuổi bắt lại tất cả những người trên 3 chiếc thuyền còn lại. Sô người trên 2 thuyền chìm gần bờ dạt vào đảo cùng bị bắt sau đó 12 ngày. Theo báo cáo số 2270-P ngày 5-1-1953 của Giám đốc nhà tù, có 198 người vượt đảo chuyến ấy, trong đó có 4 tù án (2 lái ô tô và 2 máy lu). Con số bị bắt lại cho đến ngày 5-1-1953 là 117 người. Số còn lại có lẽ là bị chết đuối cả (81 người).

Bọn Pháp đánh những người tù ngay khi họ vừa được vớt từ dưới biển lên boong tàu, người nào cũng tả tơi như giẻ rách. 16 người không lết nối khi chúng hất xuống cầu tàu. Giátty còng chân tất cả vào Khám 6 Banh I. Tên quan hai trưởng trại trực tiếp cầm chìa khóa, chỉ được mở khi có lệnh của Giám đốc. Nhiều người đã hấp hối vì hai ngày say sóng, phơi nắng và đòn hiểm. Khát cháy cổ.

Nửa đêm, mấy anh còn khoẻ phải nhổm dậy, cởi quần lót từng người nôi lại thành dây rồi quăng ra thấm nước đọng thành vũng gần cầu tiêu, vắt cho mỗi người vài giọt vào miệng. Anh Cơ Còi chân nhỏ, rút được ra khỏi còng, lẻn vào nhà cầu chắt được ít nước để vệ sinh con lại chia cho mỗi người vài ngụm. Biết bọn địch chuẩn bị giam số tù binh vượt ngục vào đây, anh em tù án đã múc nước vào đầy khạp, nhưng chúa đảo Giátty đá ra lệnh đổ hết xuống nền nhà, chỉ còn sót lại một ít.

Ngày hôm sau, được bộ phận tù chính trị ở Nhà Thương thuyết phục, đốc tờ Bácbiê (Barbier) đã vào thăm và cứu chữa cho số tù binh. Tên quan hai trưởng trại từ chối và báo cho Giám đốc. Giátty xuống ngay. Hắn gầm lên với viên bác sĩ:

– Ông điên à! Bọn này mà xổng ra thỉ chúng nó sẽ cắt cổ cả tôi và ông đấy.

– Thì lúc ấy ông cứ việc xả súng vào họ. Ngày mai ông có thể bắn tất cả những người này, nhưng hôm nay họ là bệnh nhân. Tôi nhân danh thầy thuốc của nền cộng hòa Pháp mà cứu chữa cho họ.

Bácbiê là thầy thuốc có lương tâm. Ồng dọa sẽ báo cáo cho Cao ủy Pháp ở Đông Dương việc Giám đốc nhà tù ngược đãi tù binh và không để cho ông làm nhiệm vụ thầy thuốc. Giátty hất hàm ra hiệu cho tên quan hai mở cửa rồi hầm hầm bỏ di. Bácbiê rửa các vết thương cho từng người, cho thuốc và can thiệp cho họ được ăn cơm, uống nước.

Tôi hôm xảy ra cuộc bạo động ở Bến Đầm, địch báo động toàn đảo, khóa chặt cửa khám, cửa banh và cho lính đặt súng bố phòng khắp các ngả xung quanh thị trấn Côn Đảo. Đội lính chia nhau bố phòng chặn con đường từ Bến Đầm về Côn Đảo và các ngả đường vào thị trấn. Bọn chúng cấm cố và bỏ đói trại tù binh hai ngày liền. Ngày thứ ba mới mở cửa cho một số kíp tù dọn dẹp vệ sinh, nấu ăn và những việc khổ sai thiết yếu. Mở cửa ra là chúng đánh phủ đầu. Các khám phải chọn những người có gan chịu đòn ra làm khổ sai để giữ vững tinh thần cho cả khối tù. Bọn lính Xênêgan bị kích động việc tù binh giết chết 4 tên lính trong cuộc vượt đảo nên chúng rất hung bạo. Khối tù binh bị đòn luôn, cứ mở cửa ra là chúng đánh.

Tù án cũng bị lục soát, tước hết đồ dùng cá nhân. Các kíp đi làm khố sai ngoài trại bị kiểm soát gắt gao, chúng không cho các sở làm rẫy, lấy rau cải thiện nữa. Một vài nơi giấu tài liệu bị lộ. Trần Y, liên lạc viên của Liên đoàn bị tra tấn dã man ở sở Rờsẹc. Chúng dùng 2 khúc cây rừng cột tréo lại kẹp nát da thịt 2 ống chân nhưng không cạy răng anh được lời nào. Trần Y lúc đó mới 20 tuổi. Khi vào tù anh còn chưa đủ tuổi thành niên. Sau đợt ấy, Trần Y được Liên đoàn cấp bằng khen và Đảo ủy chuẩn y kết nạp anh vào Đảng tại Côn Đảo.

Để đối phó với đợt khủng bố này, Đảo ủy quyết định tổ chức một đợt tranh đấu với 3 hình thức:

– Thiết lập một sự im lặng đến lạnh lùng với bọn nhà tù.

– Thảo văn bản gửi Giám đốc đòi cải thiện đời sống và đòi chế độ tù binh.

– Đấu tranh tuyệt thực đòi thực hiện yêu sách, nếu chúng không giải quyết.

Tù binh sẽ là lực lượng xung kích tranh đấu, tù án phối hợp, hỗ trợ. Trại tù binh gửi yêu sách và tuyệt thực được 2 bữa thì Giátty đến. Hắn hứa sẽ nghiên cứu chế độ tù binh và từng bước cải thiện đời sống. Một phần hắn đổ lỗi cho vụ tù binh bạo động, buộc nhà tù phải áp dụng biện pháp an ninh; mặt khác hắn đổ lỗi cho chính quyền bù nhìn ở Sài Gòn tiếp tế không kịp thời trong mùa gió chướng. Tuy vậy, Giátty cũng cho xếp banh đến kho lấy tư trang dùng đã tịch thu trả lại cho tù nhân; cho các sở tù được thêm người làm rẫy, lấy rau, tăng khẩu phần cá khô, gạo. Hắn giải quyết riêng cho từng sở tù, như một “ân huệ” của Giám đốc chứ không theo kiểu nhượng bộ yêu sách đấu tranh.

Cuộc bạo động ở Bến Đầm (12-1952) là một thất bại cay đắng trong chính sách trị tù của Giátty. Hắn đã kế tục những thủ đoạn khủng bố thâm độc nhất đối với tù kháng chiến của Laphôt, đã tăng cường vũ khí, đạn dược, phương tiện, bố phòng, gácdang và binh lính. Riêng đội lính đồn trú, hắn đã xin tăng lên gấp đôi, từ 50 lên 104 tên (không kế sĩ quan chỉ huy). Vậy mà cuộc bạo động khủng khiếp đã nổ ra. Chỉ trong vài phút, ngót một nửa đạo quân chiến đấu của Giátty trở thành tù binh của những người tù kháng chiến. Trận ấy mới chỉ có chưa đầy 1/10 số tù nhân ra tay. Nếu 9/10 số tù nhân còn lại mà đồng loạt phối hợp được thì chắc chắn Giátty cũng không chạy đâu cho thoát.

Một tài liệu cho biết, thực dân Pháp dự đoán cuộc bạo động ở Bến Đầm có thể có sự phối hợp của Việt Minh và hải quân Trung Quốc. Bởi vậy, Pháp đã huy động 2 trung đoàn trong lực lượng cơ động chiến lược miền, có không quân và hải quân Pháp ở Viễn Đông phối thuộc làm nhiệm vụ tuần tra, phòng vệ vùng Duyên Hải và ngoài khơi Côn Đảo suốt ba tháng. Trong thời gian đó, Việt Minh mở những cuộc tiến công chiên lược trên khắp chiến trường Đông Dương.

Tuy không thành công trong việc giải thoát, tù nhân phải chịu nhiều tổn thất, nhưng cuộc võ trang bạo động ở Bến Đầm là một đòn tiến công vào tận sào huyệt của kẻ thù, làm rung chuyển và rối loạn nền thông trị của chúng. Đó là một cuộc biểu dương tinh thần chiến đấu và ý chí tự giải phóng của những người tù kháng chiến. Nhân cách của các chiến sĩ cách mạng và chính sách binh địch vận đúng đắn của Đảo ủy trong quá trình chuẩn bị và tiến hành võ trang bạo động đó có ảnh hưởng lớn đến binh lính và gác ngục ở Côn Đảo.

Sau trận ấy, Boócdétsui (Bordessouille) bị lột lon quản và bị tù ba tháng, nhưng hắn lại rất kính nể và biết ơn những người tù kháng chiến. Hắn đã thoát chết một lần trong chiến tranh Triều Tiên, nay lại được tù binh Việt Minh tha chết một lần nữa. Đó là ân huệ hiếm hoi của một đời lính đánh thuê. Hắn dùng tiền lương mua đường sữa lén gửi cho Phan Du và tuyên truyền trong đơn vị lính Âu Phi về những tù binh Việt Minh đầy bản lĩnh, mưu trí và nhân đạo. Trước tòa án binh Pháp ở Sài Gòn xử vụ bạo động ở Bến Đầm, Boócdétsui, Anbéctini, Xien… với tư cách là nhân chứng đã không tố giác những người chi huy cuộc bạo động, những người đã cướp súng, bắt trói họ, làm cho phiên tòa không có nhân chứng.

Trước đó, Phan Du đã nhận hết trách nhiệm về mình, song Đảo ủy chỉ đạo họp kiểm điểm rút kinh nghiệm, thống nhất lời khai. Nhờ đó mà không lộ ra phương án võ trang giải thoát toàn đảo, không một cơ sơ, đầu mối nào bị đổ bể. Khi về Sài Gòn, chuẩn bị ra tòa, Liên đoàn tù nhân Khám Lớn – Chí Hòa đã vận động luật SƯ Nguyễn Hữu Thọ bào chữa cho vụ án.

Nhờ sự chỉ dẫn trước, 117 tù binh đã thống nhất một lời khai, bác bỏ mọi cơ sở buộc tội của chúng. Tất cả đều tcí cáo chế độ nhà tù tàn bạo, bởi vậy không người tù nào không nghĩ đến chuyện vượt ngục, giải thoát. Không có tổ chức, không có chỉ huy, thấy nhà tù sơ hở là họ trốn. Tất cả cùng bắt lính; tất cả cùng làm thuyền, không ai cướp súng, không ai giết lính, không ai hành hạ binh lính. Mấy tên lính chết là do bọn lính hoảng quá bắn lộn, chết cả lính, cả tù…

Những người lính da đen được gọi ra làm nhân chứng đều xác nhận lời khai của tù binh. Điều quan trọng nhất là họ không tố giác người tổ chức chỉ huy, người bắt trói họ và cướp vũ khí, người đã vật lộn và dự phần vào cái chết của mấy tên lính xấu số. Vì thế, phiên tòa trở thành không có nhân chứng, không thể khép vào tội danh nào được. Luật sư Nguyễn Hữu Thọ đã cãi cho họ trắng án. Cuộc võ trang giải thoát đầy chính nghĩa của những người tù kháng chiến Côn Đảo giành thêm được một thắng lợi về mặt pháp lý trước dư luận công khai.

Ngay trong thời kỳ thực dân Pháp phong tỏa và kiểm soát gắt gao, một chuyến vượt ngục mạo hiểm của tù án chính trị lại thành công bất ngờ. Nguyễn Văn Thuận, tức Tư Nhỏ, tức Trần Văn Sơn, chiến sĩ công an quận 4 Sài Gòn đã cùng 2 tù chính trị là Viễn (người Quảng Trị) và Bảy (người Trà Vinh) vượt ngục bằng bè tre. Trong một buổi làm khổ sai, ba người rủ nhau lên núi, men theo vách đá dựng từ Đá Trắng qua mũi Cá Mập sang phía Bến Đầm. Chờ đến tối, họ chặt tre lao xuống bãi biển, bơi qua Hòn Tài, chặt thêm tre, côn bè thả theo gió chướng. Cơm khô, nước ngọt, củ mài đã được Viễn chuẩn bị trước, dồn trong ống tre. Sau 7 ngày đêm nhờ sóng gió, các anh đã dạt vào Cà Mau và tiếp tục tham gia kháng chiến.

Củng cố tổ chức, rèn luyện lực lượng

Năm 1953, cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta bước vào giai đoạn phản công giành thắng lợi quyết định. Vùng đồng bằng Bắc Bộ mà các tướng Pháp xem như “cái then cửa của vùng Đông Nam Á” bị uy hiếp nghiêm trọng. Thực dân Pháp tiếp tục đưa tù binh, tù chính trị ở các nhà lao và trại tù binh ở nhiều tỉnh đồng bằng Bắc Bộ chuyển vào Nam Bộ rồi thanh lọc, đày ra Côn Đảo.

Đoàn tù án thứ 3 ở Hỏa Lò Hà Nội đến Côn Đảo ngày 13-2-1953, gồm 75 người, mức án từ 7 năm trở lên, trong đó có một số cán bộ là Huyện ủy viên như Đồ Hoàng Trừ, Trần Công Hiệu, Nguyễn Văn Thế (Hùng Hậu). Chưa đầy một tháng sau, họ được tham dự sinh hoạt chính trị đầu tiên do Đảo ủy tổ chức: Lễ tang Xtalin (5-3-1953). Ngày ấy toàn đảo để tang, không ồn ào. Các khám đều làm lễ truy điệu chia sẻ nỗi đau buồn với nhân dân Liên Xô anh em. Ít ngày sau, đoàn tù án chính trị cuối cùng của các tỉnh phía Bắc bị phân tán về các sở tù khổ sai.

Tháng 4 năm 1953, thực dân Pháp đưa 25 tù binh ở Nam Bộ ra Côn Đảo. Tháng 5 năm 1953, chúng đày tiếp 125 tù binh ở Bắc Bộ và Trung Bộ ra đảo. Ngày 30- 6-1953, chuyến tù binh cuối cùng gồm 25 sĩ quan, đã trải qua hầu hết các trại tù binh từ Bắc vào Nam bị đày ra đảo. Theo báo cáo của Đảo ủy gửi về Trung ương, đến tháng 9-1953 toàn đảo có 1.847 tù án, 490 tù binh. Đảng bộ nhà tù có 500 đảng viên, trong đó 170 đảng viên ở khối tù binh, 330 ở khối tù án. Trên 100 đảng viên đã từng giữ các chức vụ từ bí thư chi bộ đến bí thư Đảng ủy; 6 người nguyên là Tỉnh ủy viên.

Các anh Đỗ Hoàng Trừ (Sở Củi-Chuồng Bò), Trần Công Hiệu (Lò Vôi) trong đoàn tù án chính trị mới ra; Lê Thành Tích (khu Trần Phú), Hoàng Nam tức Phan Xuân Tiềm (khu Hoàng Sâm) được bổ sung vào Đảo ủy. Các anh Tùng Lam, Trần Nam, Hoàng Sinh Hồng (Đảo ủy viên khóa 3), lần lượt mãn án về. Ở trại tù binh, các anh Nguyễn Văn Nghĩa, Lê Đình Thụ cũng được bổ sung thay cho những Đảo ủy viên đã hy sinh.

Đảo ủy kiểm điểm rút kinh nghiệm cuộc võ trang giải thoát của tù binh, biểu dương tinh thần chiến đấu và những gương hy sinh dũng cảm, chỉ ra những nguyên nhân thất bại để chuẩn bị cho một cuộc giải thoát quy mô hơn vào đầu năm 1954. Đảo ủy đã gắn công tác xây dựng Đảng với xây dựng phong trào quần chúng; gắn công tác xây dựng Đảng với thực tiễn đấu tranh; đề cao dân chủ, công khai và đề cao tính gương mẫu của cán bộ, đảng viên. Báo cáo của Đảo ủy đã đánh giá về công tác xây dựng Đảng như sau: “Sinh hoạt rất đều, lấy phê bình và tự phê bình, lấy đấu tranh hàng ngày với địch để củng cố Đảng, phát triển đảng viên mới, thanh thải đảng viên yếu kém, phối hợp sự giáo dục trong Đảng và ngoài nhân dân làm một, học cùng tài liệu với nhân dân. Đảng làm nòng cốt để hướng dẫn nhân dân để dưới kiểm soát trên, trên kiểm soát dưới, nhân dân theo dõi cán bộ đảng viên”1 .

Đồng thời với việc củng cố tổ chức Đảng, Đảo ủy tiến hành củng cố và xây dựng lực lượng nhân dân. Trong tháng 1 và tháng 2 năm 1953, Đảo ủy chỉ đạo củng cố lại tổ chức Liên đoàn tù nhân kháng chiến Côn Đảo, từ cấp toàn đảo, liên khu, cấp khu cho đến từng tổ 3 người. Toàn đảo chia làm 4 liên khu. Lực lượng tù binh là Liên khu I (Banh III). Lực lượng tù án gồm 3 liên khu: Liên khu II (Banh I), Liên khu III (Banh II) và Liên khu IV (các sở ngoài).

Anh Trần Mạnh (Vũ Quang Đạo) với sự cộng tác của hai anh Chính Vích và Đặng Xuân Mịch giúp Đảo ủy biên soạn lại 10 tài liệu: Vì nhân dân phục vụ; Chiến lực chiến thuật; Trường kỳ gian khổ; Phương pháp học tập mới; Lợi ích tổ tâm giao; Thi đua Đoàn-Công-Kỷ- Tiết… Đảo ủy đã tổ chức một đợt học tập chính trị trong suốt mùa hè 1953.

Trong thời kỳ củng cố tổ chức, trại tù binh đã tổ chức diệt tên phản động Hoàng Minh. Hoàng Minh tức Nguyễn Hoàng Giác, nguyên là công an trong chính quyền bù nhìn ở Sơn Tây, vì phe cánh tranh ăn mà phải vào tù. Ở Hỏa Lò, y từng làm chi điểm cho phòng nhì Pháp, bức hại nhiều người tù kháng chiến. Ra Côn Đảo, Minh câu kết với bọn Tú (công an bù nhìn Bắc Ninh), Thiết (công an bù nhìn Hà Nam), Khiêm, Giao (đảng Đại Việt) tiếp tục cuộc đời tay sai trong tù.

Chính tên Minh đã dò la và tố giác phương án võ trang giải thoát để bọn Pháp mở đợt truy tầm khám xét, suýt nữa lộ việc chuẩn bị bạo động. Hắn tố giác vụ giấu kíp mìn để đại diện Phan Cơ phải phạt xà lim. Anh Nguyễn Văn Thanh và Hoàng Minh Chính vừa được cử làm đại diện, hắn lại vu cáo hai anh chuẩn bị vượt ngục làm cho hai anh đều bị phạt xà lim. Nhà tù chỉ định hắn làm đại diện để không chế anh em. Trại tù binh đã nhiều lần đề nghị xử tử tên Minh, nhưng Đảo úy chỉ thị tiếp tục giáo dục một thời gian nữa. Những cán bộ được cử đến giáo dục đều bị Minh tố giác và bị phạt. Tháng 2 năm 1953, Đảo úy chấp nhận đề nghị của trại tù binh, lập Tòa án nhân dân xét xử tội trạng Hoàng Minh rồi tuyên án tử hình.

Các anh Vũ Danh Hiệt, Nguyễn Văn Thanh, Hoàng Minh Chính, Lê Văn Khánh, Lê Hồng Quảng, Tuyển Vẹo… xung phong thi hành bản án, diệt tên Minh ngay tại cửa Khám I Banh III. Anh Chính được tổ chức phân công đã nhận một mình anh giết tên Minh. Anh Thanh không được phân công nhưng cùng xung phong được cùng nhận để chia sẻ hình phạt với Chính. Về Sài Gòn, hai anh bị tuyên án chung thân và 20 năm khổ sai. Luật sư Nguyễn Hữu Thọ đã bào chữa, giảm án xuống mức 4 năm và 2 năm. Sau vụ xử tên Minh, bọn tên Thiết, Tú, Khiêm, Giao hoảng sợ xin chúa ngục cho ở riêng một khám.

Sau vụ Đầm, Giátty siết chặt kỷ luật nhà tù, tàu tiếp tế ra ít, đời sống tù nhân rất tồi tệ. Rau xanh, thực phẩm rất thiếu. Tên quan hai Gácđét tuyên bố với trại tù binh: “Tàu không ra thì cho tụi bay ăn cỏ”. Đảo ủy chú trọng chỉ đạo công tác xã hội, chàm lo cải thiện bữa ăn, bảo đảm sức khỏe cho tù nhân tranh đấu lâu dài. Anh Nguyễn Văn Sổ, tổ trưởng tổ Nhà bếp của trại tù binh cùng anh Vũ Danh Hiệt (Ban xã hội) và các anh Hán, Học ở Nhà bếp tìm mọi cách thay đổi món ăn hàng ngày cho anh em.

Khẩu phần thực phẩm nhà tù cấp thường xuyên là cá khô, rau lang, đôi khi có rau muống. Rau được chế biến thành các món luộc – xào – canh – nộm. Cá khô thì chiên – rim – làm ruốc – giã chả – nấu canh chua. Ai nghĩ ra món gì thì làm thử, ăn thấy ngon thì làm tiếp. Món canh chua nấu từ cá khô và chả cá khô giã nhuyễn với khoai lang, đậu xanh chiên lên được nhiều người hoan nghênh.

Sau nhiều lần đấu tranh, nhà tù cho 10 người già yếu được làm vườn, trồng rau cải thiện, nguồn rau xanh khá lên. Rau muống là thứ quý được dành cho người ốm yếu. Lá già và cọng rau già được rửa sạch, phơi khô nghiền bột đế ăn phụ thêm. Tố Nhà bếp và Ban xã hội tận tụy chăm lo cho bữa ăn của anh em như người mẹ hiền. Bữa nào thấy anh em ăn không hết suất cơm tù là các anh ứa nước mắt. Tổ Nhà bếp đi từng khám xem anh em ăn, nghe góp ý từng món ăn để cải tiến.

Anh Huân, anh Bích trong tổ y tá tù nhân hàng ngày chăm sóc sức khoẻ những người đau ốm. Ai ăn cơm, ăn cháo trắng, cháo mặn hay cháo đường đều được phục vụ. Tổ y tá, Nhà bếp còn làm nhiệm vụ liên lạc, cất giấu tài liệu cho Đảo ủy và Liên đoàn tù nhân.

Một tổ tạo tác do ông Đàm Văn Tạ tổ chức đan mũ nón cho anh em đội đi làm. Những chiếc nón bàng 2 lớp để cất giấu tài liệu làm phương tiện liên lạc đã được sản xuất hàng loạt. Tổ tạo tác thứ 2 của khối tù án do ông Phùng ở Khám 4 Banh I (Chỉ Tồn) phụ trách đan mũ, nón rổ rá, lồng bàn vỉ đập ruồi để đảm bảo vệ sinh cho bữa ăn của tù nhân.

Liên đoàn tù nhân phát động một phong trào diệt ruồi. Điều kiện vệ sinh của nhà tù rất kém nên ruồi nhiều vô kế. Chi tiêu lúc đầu giao cho mỗi người là 100 con mỗi ngày. Anh em đã hăng hái tham gia, thi đua diệt ruồi, nâng chỉ tiêu lên dần, đến mức 500 con mỗi ngày. Phong trào diệt ruồi lúc đó đã được phản ánh trên những báo tường của tù nhân Côn Đảo:

Báo cáo đồng chí hôm nay
Tôi đập ruồi suốt cả ngày không chơi
Cộng được có bốn trăm thôi
Dạo này ít bởi nhiều người tham gia.

(Ca dao Côn Đảo – Bản do anh Trần Đông Lưu giữ).

Ở khối tù án, ngoài việc tự chăm lo cải thiện ở từng bộ phận, mỗi khu đều đóng góp cho công tác xã hội toàn đảo. Khu Hoàng Sâm thường đi dọn tàu, kéo cây nên kiếm được khá nhiều rau và thực phẩm. Anh Phạm Văn Mai phụ trách công tác xã hội còn tổ chức được một rẫy riêng, hàng ngày có 4 người trông coi. Các anh đã bớt phần của mình để tiếp tế cho khu biệt lập rau muống, rau càng cua, đợt đủng đỉnh, mắm cá cơm. Mỗi khi rửa rau, khu Hoàng Sâm thường kín đáo làm “rơi vãi” quanh giếng để anh em ở biệt lập ra tắm lấy vào.

Các kíp dọn tàu, chuyến hàng có nhiều cách cải thiện độc đáo. Khi thì nhét đậu xanh vào tai heo, khi bắt rận rệp thả vào mũi bò, khi lại “lỡ” sảy chân sảy tay cho heo, bò bị thương tích phải mổ thịt hàng loạt để bọn Tây ăn không hết, phải cho bếp tù nhân. Nhờ đó, mỗi chuyến tàu ra, toàn đảo lại được ăn tươi vài bữa.

Kíp dọn hàng ở tàu vào bờ thì chọn những thùng sữa hộp, thịt hộp quăng xuống biển. Anh em đi tắm lặn xuống lấy về giấu trong các kẽ đá lớn ở cầu Tàu rồi tìm cách chuyển dần về cho Ban xã hội. Đó là một kiểu tạo tác phổ biến đối với nguồn thực phẩm dự trữ, vừa phá hoại kinh tế địch, vừa xây dựng kinh tế tập trung cho tù kháng chiến. Xây dựng kinh tế tập trung là nhiệm vụ trung tâm của Ban xã hội Liên đoàn nhằm tập thể hóa các nguồn tiếp tế, tạo tác để phục vụ đời sống hoạt động và tranh đấu của tập thể tù nhân.

Trong khi phá hoại kinh tế địch, tạo tác nguồn hàng cho ta, gácdang, thầy chú, nhân viên nhà tù đều sẵn sàng “hợp tác” với ta. Họ cũng túng thiếu, đói khát, hám ăn. Khi áp tải những chuyến dọn hàng và vận chuyển vào kho, họ sẵn lòng thông đồng với tù nhân đê lấy một vài thùng đồ và cho tù nhân gửi ở nhà họ vài thùng khác. Trong cuộc chia chác này thì các gácdang Tây cũng tỏ ra biết điều và giữ đúng giao kèo, bảo quản đầy đủ phần mà tù nhân đã gửi. Nếu lộ ra thì đương nhiên họ bị sa thải, còn tù nhân thì đâu có ngán còng, xiềng.

Gácdang cũng là những người trung gian trao đổi và cung ứng hàng hóa cho tù nhân. Nhừng lô hàng “tạo tác” được, nếu không cần thiết, tù nhân có thể đổi lại cho gác ngục. Rượu và thuốc lá là vật ngang giá thay cho tiền trong các cuộc trao đối. Có rượu và thuốc lá, tù nhân có thể đổi lại bất cứ thứ gì, từ thực phẩm, thuốc bệnh, thuốc bổ đến các mặt hàng “quốc cấm” trong nhà lao như mực in, giấy in, sơn, vải, dao, đinh, búa…

Tù nhân sở Bản Chế thì thường tạo tác các loại vảy đồi mồi, cây dương nước, gỗ găng, ốc xà cừ. Những nghệ nhân tù có thể chế tạo thành những đồ mỹ nghệ có giá trị được thủy thủ Pháp rất ưa chuộng. Nhóm tù nhân người Hoa thì tạo tác ra các thứ cần thiết bằng các món ăn truyền thống mà ngoài bàn tay họ ra, gácdang Pháp không thể tìm ở đâu trên hòn đảo tù. Một nguồn quan trọng nữa là các bưu kiện tiếp tế từ đất liền. Ai thấy gia đình mình có điều kiện đều viết thư về xin những thứ thiết yếu cho nhu cầu chung, theo gợi ý của Liên đoàn. Gia đình, thân nhân họ cũng sẵn lòng đóng góp và ý thức được như một sự góp phần cho kháng chiến. Nhiều chị khi chồng đã trả tự do vẫn tiếp tục gửi đồ ra nuôi các bạn tù của chồng mình còn ở lại.

Mỗi sở tù, mỗi người tù tùy theo điều kiện mà đóng góp cho quỹ xã hội của Liên đoàn. Ban chấp hành tù nhân khu Sơ Củi sau khi dẹp xong Liên xã đã lập quỹ xã hội bằng củi. Ngoài định mức củi nộp cho nhà tù, người có sức khoẻ, có kinh nghiệm mỗi ngày nộp thêm một phần củi cho quỹ xã hội. Ban chấp hành khu dùng quỹ củi để tương trợ cho những người đau yếu, người mới về Sở Củi, người cả đời chưa quen cầm dao, búa.

Công tác xã hội của Liên đoàn tù nhân kháng chiến đã góp phần quan trọng vào việc đoàn kết, tập hợp lực lượng và bồi dưỡng sức chiến đấu cho đội ngũ tù nhân. Liên đoàn đã giáo dục cho khối tù bằng chính những bài học xương máu trong cuộc đấu tranh của họ: đoàn kết là sống – chia rẽ là chết. Trong xã hội tù nhân, nền tảng để tồn tại không hẳn là cơ sở kinh tế mà trước hết là giác ngộ chính trị, biết cách tổ chức cùng với nếp sống văn hóa và một nền đạo đức hết sức nhân văn: sống vì tập thể, vì quyền sống con người. Ý thức đó đã được hình thành bền vững trong quá trình giáo dục, tổ chức và tranh đấu một mất một còn với kẻ thù.

Đấu tranh đòi cải thiện và giải tỏa chế độ biệt lập

Tình hình sức khoẻ của tù nhân khu biệt lập rất bi đát. Chế độ biệt lập khắc nghiệt trong vòng 2 năm đã giết hại 9 mạng người, 31 người khác bị ho lao được bác sĩ nhà tù xác nhận1 một số người đã bị thổ huyết. Nhiều người khác bị thương hàn, kiết lỵ, đen chân, xơ cứng Cơ bắp. Hầu hết đều bị quáng gà, mờ mắt. Trời vừa tối là họ không còn thấy gì, phải quờ quạng men tường mỗi khi cần di chuyển. Bác sĩ Đờ Rôdie đã nhiều lần bày tỏ sự lo ngại về tình trạng sức khoẻ của tù nhân khu biệt lập.

Giátty vẫn giữ một thái độ cứng rắn, nhất là sau khi xảy ra vụ bạo động ở Đầm. Một biến cố tiếp theo đã để lại nhiều tai họa cho khu biệt lập, khi tên Bổn không chịu được gian khổ, nhảy ra hàng giặc. Bổn tố giác các hoạt động của tù nhân, chỉ hầm tài liệu, hắn khai cả con đường liên lạc, tiếp tế giữa khu biệt lập và Nhà bếp qua cửa sổ phía tường sau. Bọn thống trị đã bố trí phục kích, bắt được anh Lực trong phiên liên lạc chui qua cửa sổ ra sân sau nhận đồ tiếp tế. Anh Lực phải vào xà lim, mây ô cửa sổ phía sau các Khám 8-9-10 Banh II đều bị chúng bịt bằng lưới sắt. Sân chơi và giếng nước cũng bị kiếm soát, không cho các sở ngoài tiếp tế rau xanh. Địch cấm luôn việc nhận bưu kiện, triệt hết mọi nguồn sống, buộc người tù phải đầu hàng. Người ốm chúng cũng không cho ăn cháo. Anh em phải nghiền cơm, trộn nước vào lon, đóng đinh treo lên tường rồi chụm lửa bằng cọng chổi, giẻ rách để nấu cháo cho bệnh nhân.

Sau khi đã triệt mọi đường tiếp tế, tên Bổn còn bày mưu cho nhà tù khống chế tù nhân khu biệt lập, làm suy kiệt sức khoẻ bằng cách cho ăn thật đói. Tình thế ấy đã buộc tù nhân khu biệt lập đi đến một quyết định là phải đấu tranh một mất một còn với bọn chúa ngục đế cứu lấy mạng sống của mình. Cuộc đấu tranh được chia làm 2 giai đoạn.

Giai đoạn 1, đại diện tù nhân đã trực diện đưa đơn yêu cầu Giám đốc nới rộng chế độ biệt lập, cho ăn uống đầy đủ, cho nhận thư từ, sách báo và thuốc men tiếp tế, người ốm được ra bệnh xá chữa bệnh, bệnh nặng được về Sài Gòn điều trị, được tăng giờ ra chơi, được trồng rau cải thiện… Đảo ủy chỉ đạo bộ phận ở Nhà Thương tích cực tác động để tranh thủ sự ủng hộ của bác sĩ. Trong lúc đại diện đưa đơn đòi hỏi thì Ban chấp hành chuẩn bị đầy đủ tinh thần và lực lượng cho giai đoạn 2 là tuyệt thực tranh đấu.

Ban chấp hành khu biệt lập phát động tinh thần quyết tử hy sinh tranh đấu đến thắng lợi, đồng thời cho phép ai ốm yếu không chịu đựng được thì cho xin phép ra trước. Một người xin ra, được Ban chấp hành khu đồng ý, còn trên 200 tù nhân quyết tử đấu tranh. Nguyễn Trí Tuệ và Hoàng Phúc tồ chức lực lượng an ninh, chuẩn bị vũ khí, lập phương án bảo vệ những người già yếu khi địch khủng bố và trấn áp những phần tử phản bội nhảy ra hàng giặc, phá cuộc đấu tranh. Nguyễn Trí Tuệ đã đọc lời hiệu triệu và kỷ luật cuộc đấu tranh.

Khu biệt lập đã đi những bước cuối cùng của giai đoạn 1 và chuẩn bị bước vào giai đoạn 2, tuyệt thực tranh đấu thì nhà tù bắt đầu nhượng bộ. Đầu tiên chúng chấp nhận cho trồng rau trong khu vực sân chơi, cho lãnh đầy đủ thuốc men gia đình gửi mà lâu nay chúng vẫn giữ, cho Số bệnh nặng được ra điều trị ở bệnh xá. Thắng lợi này có sự tác động tích cực của bác sĩ Đờ Rôdie.

Khu biệt lập tổ chức trồng rau. Giờ ra chơi anh em cạy hết gạch đá trong sân, sàng lấy đất cát vun thành luống. Hạt rau giống do các sở gửi đến và gia đình gửi ra. Hai kỳ sư nông học Trịnh Văn Hà và Lưu Văn Lê là kỹ thuật viên tổ chức cho anh em chăm sóc một cách bài bản nên rau rất tốt. Anh My cũng góp thêm kinh nghiệm làm cho một góc vườn rau tốt hẳn lên.

Giữa năm 1953, chúa ngục bắt đầu giải tỏa khu biệt lập. Chúng chọn ra khoảng 40 người thuộc đối tượng cầm đầu, đưa vào Khám 5 Banh II giam giữ với chế độ nới hơn trước. Số còn lại lần lượt cho ra các sở ngoài. Chế độ biệt lập coi như đã kết thúc sau gần 3 năm đen tối.

Chế độ biệt lập là hình phạt cao nhất trong quy chế nhà tù của thực dân Pháp. Nếu tính cả khu cấm cố ở Khám 6 Banh I (từ cuối 1948 đến đầu 1951) thì tổng cộng là 6 năm, thực dân Pháp đã áp dụng chế độ cấm cô – biệt lập ở nhà tù này. Nhưng sự đày ải, khủng bố chỉ chất chồng thêm tội ác của chúng đối với những người kháng chiến. Trong đau thương và chết chóc, người tù đoàn kết thương nhau hơn. Với khẩu hiệu hành động khẩn thiết “Hãy cứu các đồng chí chúng ta trong biệt lập”, Đảo ủy là Liên đoàn tù nhân huy động đến mức cao nhất sự chăm sóc và cơ sở vật chất tiếp tế cho khu biệt lập.

Tù nhân khu biệt lập cũng tự cứu mình bằng cách tổ chức khoa học và chặt chẽ, bằng một tinh thần cộng sản rất cao: vì tập thể, vì mọi người. Khi cần, họ có thể kết thành một khối, đấu tranh một mất, một còn với địch. Ai đã trải qua khu biệt lập đều được học tập, rèn luyện và trưởng thành nhiều mặt.

Gần bốn mươi năm sau, một tù nhân đã ghi nhận dấu ấn về thời gian ở biệt lập đôi với bản thân cũng như các bạn tù: “Khu biệt lập đã gây cho anh em một ý thức về nếp sống xã hội cao, một lề lối sinh hoạt và lãnh đạo dân chủ nhân dân, rèn luyện cho cán bộ phong cách quần chúng hóa, đào luyện cho anh em tinh thần tổ chức kỷ luật nghiêm. Những người tù kháng chiến ở biệt lập đều được đào tạo một cách toàn diện và sau khi được tự do hầu hết đều trở thành những cán bộ có năng lực và tốt của cách mạng”.

Tích cực công kích địch

Chuyến tù binh ra đảo ngày 30-6-1953 gồm 25 sĩ quan từ cấp đại đội đến Tư lệnh mặt trận. Đó là nguồn bổ sung lực lượng lãnh đạo cho Đảng bộ nhà tù Côn Đảo. Đảo ủy đã cử Lê Đình Thụ, Bí thư Banh III và Nguyễn Văn Nghĩa, Đảo ủy viên ở Banh III liên hệ trao đổi tình hình. Nguyễn Văn Thi (Khu ủy viên Sài Gòn – Gia Định), Vũ Hồng Vũ (Tỉnh ủy viên Hải Dương), Vũ Hạnh và Lý Thái Học (Đảng ủy Trung đoàn) giúp Đảo ủy tiến hành công tác xây dựng Đảng và xây dựng phương hướng đấu tranh mới. Các anh đã thẳng thắn thảo luận với Đảo ủy, đánh giá rõ tình hình địch ta tại Côn Đảo, xác định vị trí, nhiệm vụ của những người tù kháng chiến và chuẩn bị cho Đại hội Đảng bộ nhiệm kỳ mới. Nhiều vấn đề tư tưởng như quan niệm về tù kháng chiến, về sự lãnh đạo của Đảng trong tù, về các hình thức đấu tranh trong tù mà trước đây Đảng bộ chưa có điều kiện giải quyết triệt để, nay cũng được tranh luận sáng tỏ.

Tù binh, tù chiến tranh là vấn đề lớn của mỗi cuộc chiến tranh. Buổi đầu kháng chiến, gậy tầm vông, vũ khí thô sơ, lựu đạn tự chế tạo của một dân tộc dám xả thân vì độc lập tự do để chống lại đại bác, xe tăng, máy bay, tàu chiến của quân viễn chinh thiện chiến; trong tương quan lực lượng như vậy, không ít người đã bị sa vào tay giặc. Cũng không ít các chiến sĩ hoạt động trong vùng địch như công an, quân báo, tình báo, trinh sát, tự vệ thành, dân quân du kích, cán bộ cơ sở Đảng, cơ sở quần chúng bị giặc cầm tù. Họ đã kiên cường chịu đựng nhiều cực hình tra tấn; từng trải qua nhiều nhà tù đế quốc và bị địch thanh lọc đày ra Côn Đảo. Phần lớn, họ là những chiến sĩ ưu tú của cuộc kháng chiến ở ngay trong nhà tù này.

Nhà tù là một mặt trận, tù nhân là những chiến sĩ đối mặt kẻ thù ngay trong lòng dịch. Nhiệm vụ của những người cộng sản trong tù là phải tổ chức tù nhân thành một lực lượng kháng chiến ngay giữa sào huyệt kẻ thù. Phải liên tục công kích địch, phá hoại cơ sở vật chất của địch, tuyên truyền giác ngộ binh lính địch, làm suy yếu hậu phương địch, gây rối loạn hàng ngũ địch, tạo điều kiện cho các chiến trường giành thắng lợi.

Về phương pháp đấu tranh, phải sử dụng mọi hình thức, từ đấu tranh dân sinh dân chủ, đòi quyền sống, đòi giảm nhẹ khổ sai theo khuôn khổ quy chế nhà tù, cho đến mức đòi thực hiện chế độ tù binh, tù chính trị theo công ước quốc tế. Phải liên tục đấu tranh, yêu sách từ thấp đến cao để rèn luyện lực lượng tù nhân kháng chiến và đẩy kẻ địch vào thế bị động đối phó, nhưng mục .tiêu cao nhất là phải tự giải phóng cho mình, nếu cần sẽ sử dụng đến bạo lực cách mạng. Đó chính là tư tưởng chiến lược tiến công mà Đảng Đảo ủy Côn Đảo quán triệt bằng khẩu hiệu: tích cực công kích địch.

Ở Côn Đảo, lực lượng tù kháng chiến, về số lượng và tinh thần chiên đấu có thế áp đảo bộ máy cai trị tù; về trình độ tổ chức và tác chiến thì không thua kém địch. Trong những thời gian và hoàn cảnh nhất định thì lực lượng tù nhân bị chia cắt và khống chế trong vòng xiềng xích, nhưng khi đi làm khổ sai thì tù nhân có mặt ở khắp nơi, kể cả ở nhà riêng, bàn giấy, kho tàng, trại lính, căn cứ xung yếu của chúng. Đó là cái thế “con dao kề cổ địch” mà không dễ gì có được ớ các mặt trận khác. Thế và lực đó đặt ra nhiệm vụ cho người chiến sĩ trong tù là phải biết là sử dụng con dao cho đúng lúc để tiêu diệt kẻ thù, tự giải phóng mình.

Đảo ủy quyết định tiến hành một cuộc chỉnh huấn chính trị trên toàn đảo nhằm xây dựng lập trường, quan điểm và ý chí chiến đấu của khối tù kháng chiến theo đường lối của Đảng, kể cả đảng viên và quần chúng, không trừ một người nào. Trại tù binh được chọn làm thí điểm, lực lượng xung kích để thực hiện mọi nhiệm vụ của Đảng bộ.

Một số cán bộ cấp đại đội và tiểu đoàn đã tham gia chỉnh huấn ở đất liền được trưng tập vào việc biên soạn tài liệu cho cuộc chỉnh huấn. Phục vụ nhân dân là tài liệu học tập chính, chỉ rõ phẩm chất cơ bản của người chiến sĩ, từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu. Tài liệu mang tính chất lý luận, củng cố quan điểm, lập trường cho các chiến sĩ cách mạng, giáo dục cho người chiến sĩ lòng trung thành với Tổ quốc và tinh thần phục vụ nhân dân vô điều kiện.

Tài liệu thứ 2 mang tính chất thực tiễn là những bệnh trạng chính, tống kết các căn bệnh phổ biến lúc đó. Mỗi căn bệnh đều nêu rõ hiện tượng, tác hại, nguyên nhân và cách sửa chữa. Bên cạnh phần lý luận và tổng kết chung, tài liệu chỉnh huấn còn liên hệ đến thực tiễn của nhà tù Côn Đảo, tập trung vào một sô vấn đề lớn như:

– Nhà tù và người tù trong chiến tranh là một thực tiễn phổ biến mang tính quy luật.

– Những âm mưu thủ đoạn của thực dân Pháp đối với tù kháng chiến.

– Vị trí của lực lượng tù nhân trong cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện và trường kỳ.

– Tính tổ chức và những nguyên tắc hoạt động của người chiến sĩ cách mạng trong tù…

Ngày 19-8-1953, trại tù binh (Banh III) khai mạc đợt chỉnh huấn, kết hợp phát động đợt thi đua lần thứ 2, học tập tài liệu Phục vụ nhân dân. Phần lý luận được học một tháng, sau đó chuyển sang phản tỉnh, từ 20-9-1953 đến 23-10-1953 thì tổng kết.

Trong những ngày chỉnh huấn, tất cả các công tác thông tin, văn nghệ, thi đua đều phục vụ cho chỉnh huấn. Ban xã hội toàn trại tích cực cải thiện sinh hoạt để anh em có sức khỏe học tập. Ngày làm khổ sai đi gọn theo từng phòng để tiện trong việc mạn đàm. Chi ủy phân công người phụ trách hướng dẫn học tập, theo dõi thi đua. Buổi trưa các tổ mạn đàm 15 phút ở tổ. Buổi tối kiểm điểm tổ tâm giao (tô 3 người), sau đó tiếp tục học tập ở từng toán cho đến 11 giờ đêm mới nghỉ. Tối thứ bảy sơ kết tình hình học tập trong tuần và xem văn nghệ.

Trước ngày chuyển sang phản tỉnh, trại tù binh tố chức một ngày “căm thù”. Hôm ấy không ai nói cười. Tất cả các gương mặt đều đăm chiêu nghĩ về tội ác của thực dân Pháp. Bầu không khí dường như chết lặng. Khi chuyển sang phản tỉnh thì anh em phát bệnh rất nhiều. Ban xã hội phải nấu mỗi ngày 8 vạc cháo vì rất ít người ăn được cơm. Nhiều anh em khóc nức nở trước đồng đội khi nghĩ về những sai lầm, khuyết điểm của mình.

Tối 23-10-1953, trại tù binh tổng kết đợt chỉnh huấn. Các phòng đều làm lễ, phát phần thưởng cho các chiến sĩ chỉnh huấn, chiến sĩ học tập, chiến sĩ phản tỉnh và hướng dẫn viên điển hình. Anh em ca hát và biểu diễn các điệu vũ: Con chim vàng, Vào Đông Khê, Nông lúc vũ, Quân chiến vũ… Điệu Quân chiến vũ được cải biên từ những bài tập chiến thuật, võ thuật đế che mắt đích, hợp pháp hóa việc tập quân sự dưới hình thức văn nghệ trong tù, có động tác “Tiến – Tiến – Tiến”, cầm súng xông lên chĩa thẳng vào mặt quân thù làm anh em rất thích thú.

Tháng 11 năm 1953, cuộc chỉnh huấn chuyến sang Banh I và Banh II (tù án). Khi lực lượng tù binh chỉnh huấn thì tù án đã tiến hành thông tin, tuyên truyền và sắp xếp lại tô chức. Rút kinh nghiệm đợt chỉnh huấn của tù binh, tù án thực hiện phương pháp học tập theo các bước:

– Tập trung nghe giảng.

– Đào sâu suy nghĩ.

– Mạn đàm ngoại khóa.

– Thảo luận thắc mắc.

– Giải đáp thắc mắc.

Các khám tù khổ sai học trong một tuần. Buổi tối lên lớp thảo luận. Ngày đi làm thì đào sâu suy nghĩ và mạn đàm với nhau. Khu biệt lập (Khám 8-9-10, Banh II) có điều kiện học kỹ hơn (cả ngày), thời gian dài hơn (2 tuần). Những ai đã từng tham gia đợt chỉnh huấn ấy đều xác nhận rằng, trong đời mình, chưa có lần nào có được tinh thần phê bình và tự phê bình một cách sâu sắc và chân thành như lần chỉnh huấn chính trị tại Côn Đảo.

Những anh em làm công tác văn nghệ cũng được tham dự một cuộc chỉnh huấn văn nghệ. Anh em được học tập các vấn đề về lịch sử văn học, thể loại văn học, phương pháp sáng tác, quan điểm sáng tác. Các nguyên tắc dân tộc – đại chúng và khoa học của nền văn học mới được quán triệt sâu sắc. Chuyên đề “lịch sử văn học” đã giới thiệu khái quát nền văn hóa nước nhà qua các giai đoạn phát triển từ văn hóa phong kiến đến trào lưu văn học lãng mạn rồi văn học hiện thực cách mạng. Chuyên đề “thể loại văn học” đi sâu vào thơ ca là loại hình phổ biến nhất trong quần chúng và trong tù.

Đợt chỉnh huấn văn nghệ đã tạo ra một bước chuyển biến mới trong phong trào văn nghệ ở Côn Đảo. Da đen đứng dậy (Dehout Le Noir) và Nhân dân miền Nam kính yêu Bác Hồ Chí Minh là hai bài hát được sáng tác sau đợt chỉnh huấn văn nghệ, có tác dụng rất lớn trong công tác địch vận và đoàn kết khối tù kháng chiến, thôi thúc họ bước vào giai đoạn đấu tranh quyết liệt sắp diễn ra. Các bài hát Không đi lính; Không hiến máu cũng góp phần tích cực hưởng ứng cuộc vận động của Đảo ủy chống chủ trương của địch bắt tù nhân đi lính cho Bảo Đại và lấy máu tù nhân tiếp cho thương binh chúng. Hàng trăm bài thơ, hàng chục bản nhạc còn lưu lại được đến ngày nay là một di sản quý góp vào kho tàng văn học của dân tộc ta trong giai đoạn 9 năm chống Pháp.

Trong thời điểm ấy, chỉnh huấn chính trị cũng như chỉnh huấn văn nghệ không tránh khỏi sự ấu trĩ đương thời. Song, thành quả của cuộc chỉnh huấn lúc ấy là rất lớn, là cơ bản. Là cuộc vận động chính trị – tư tưởng sâu sắc của những người tù kháng chiến, đợt chỉnh huấn này giúp họ nâng cao giác ngộ giai cấp, giác ngộ dân tộc, tiến công vào những tư tưởng cá nhân, cơ hội, cầu an, quan liêu, địa vị, nhằm gột sạch những thói hư tật xấu, để rồi sau đó họ thanh thản, phấn khởi, hăng say bước vào cuộc chiến đấu một mất một còn với thực dân Pháp xâm lược.

Sau khi tổng kết đợt chỉnh huấn ở trại tù binh, Đảo ủy chỉ đạo cuộc đấu tranh đòi thực hiện chế độ tù binh và cải thiện chế độ lao tù, với các yêu sách:

– Xóa bỏ chế độ tù án, không thừa nhận các bản án mà thực dân Pháp đã xử, công nhận tất cả là tù chiến tranh. Thực hiện chế độ tù binh, tù chiến tranh theo Công ước Giơnevơ 1949.

– Không được cho tù ăn gạo mục, ăn thịt bàn chải (thịt ỉợn không cạo lông).

– Phải cung cấp rau tươi, đủ tiêu chuẩn ăn bất kỳ trong hoàn cảnh nào.

– Không được bắt làm khổ sai nặng nhọc.

– Không được cùm xiềng đánh đập, phạt xà lim.

– Bỏ quần áo tù, phát quần áo nhà binh.

– Được nhận hàng tiếp tê một cách đầy đủ, gồm cả sách báo, giấy bút, thuốc chữa bệnh…

– Cung cấp thông tin, báo chí theo yêu cầu.

– Người ốm phải được chữa bệnh, bệnh nặng phải đưa về Sài Gòn chữa, người già yếu quá tuổi, người mang bệnh thần kinh, bệnh truyền nhiễm, thương tật nặng phải được phóng thích.

– Người tù tự quản trong trại, người Pháp chỉ ở ngoài trại, khi cần phải đi làm khổ sai việc gì, thì đại diện tù nhân tự phân bổ.

Đảo ủy chỉ đạo giới hạn cuộc đấu tranh trong phạm vi Trại tù binh nhằm khảo sát thực tế kết quả xây dựng lực lượng của ta và thảm dò phản ứng của địch. Yêu sách đòi xóa bỏ chế độ tù án, chuyến tất cả thành tù chiến tranh (prisonier de guerre) là nấc thang cao nhất trong việc thăm dò phản ứng của địch.

Trong thời gian tù binh đấu tranh thì tù án tiếp tục chỉnh huấn, củng cố tổ chức, xây dựng lực lượng, làm tốt công tác binh vận, địch vận, giữ vừng thông tin liên lạc, hỗ trợ cho cuộc đấu tranh. Hình thức đấu tranh là đưa yêu sách đòi thực hiện chế độ tù binh theo Công ước quốc tế. Nếu không giải quyết yêu sách thì đình công, không một ai đi làm. Khối tù binh tổ chức học thuộc nội dung Công ước Giơnevơ 1949 về chế độ tù binh từ điều 21 đến 25 đế đấu lý với địch.

Ngày 3-11-1953, đại diện tù nhân đưa yêu sách đấu tranh. Các khám đều tuyên bố đình công không đi làm. Địch đối phó bằng cách không làm thì không cho ăn. Giám đốc Blăng 1 báo động toàn trại lính, cho bố phòng chặt chẽ tại Banh III và cho lính vào cướp hết tư trang, lương thực dự trữ của tù nhân, lục tìm vũ khí. Tù nhân hò la phản đối và kêu gọi binh lính người Phi giữ thái độ trung lập, không đàn áp tù nhân.

Ngày 8-11-1953, địch chuyển tất cả sĩ quan khám 8. Tổng đại diện Trại tù binh tên là Nam bị bắt, Nam không chịu được đòn, nhảy ra hàng giặc, chỉ cho chúng khi hầm bí mật ở bếp banh III, lấy đi 4 thùng tài liệu. Trong tình hình đó, Đảo ủy chỉ định Hoàng Văn Bảo làm tổng đại diện 2, duy trì cuộc đâu tranh đến thắng lợi.

Ngày hôm sau, trại tù binh tiếp tục đưa yêu sách như một tối hậu thư. Đại diện tù nhân tuyên bố, nếu nhà tù không giải quyết, họ sè gửi kiến nghị đến ông Đuyarăng (Durand) đại diện hội Hồng thập tự quốc tế. Giám đốc nhà tù trả lời bằng cách đưa 2 trung đội lính Âu – Phi vào đàn áp, bắt trên 80 tù nhân trung kiên do tên Nam tố giác đưa sang khu biệt lập Banh III mà tù nhân quen gọi là Chuồng Cọp Pháp, nơi có xà lim xây bằng đá, tường dày, mái cao, trên có dàn song sắt và hành lang cho lính đi tuần. Đây là lớp tù nhân đầu tiên bị giam ở Chuồng Cọp này.

Bị biệt giam, ngăn cách và không chế, thông tin liên lạc bị ách tắc, cuộc đấu tranh coi như kết thúc. Trong khi đó, chúa đảo nhận được chỉ thị từ Sài Gòn hướng dẫn việc giải quyết yêu sách đấu tranh. Tù binh được ăn thịt lợn, mỗi tuần 2 lần, được đọc thường xuyên một số tờ báo như Paris Match, Caravelle, Thần Chung; được nhận đồ tiếp tế; được cấp quần áo nhà binh; được cung cấp gạo trắng, bắp cải, rau xanh từ Sài Gòn chở ra; được khám bệnh và chữa bệnh; những người bị bệnh nặng được đưa về Sài Gòn chữa; thương bệnh binh nặng được trả tự do.

Kiểm điểm lại một tuần lễ đình công tranh đấu, Đảo ủy nhận định tinh thần và lực lượng tù nhân đã mạnh mẽ hơn trước. Địch phản ứng nhưng có mức độ. Đảo ủy tiếp tục phát động tinh thần tranh đấu từ thấp đến cao, với các yêu sách nhỏ đến lớn.

Các sở tù án cũng tích cực đấu tranh chống khổ sai. Hình thức đấu tranh được vận dụng linh hoạt. Tùy tình hình, chọn hình thức đấu tranh cho phù hợp. Có khi trực diện yêu sách, có khi đưa đơn, kiến nghị tập thể; địch không giải quyết thì có thế đình công tuyệt thực. Hình thức phổ biến lần này là lãn công phá hoại.

Thực hiện chỉ thị của Đảo ủy, tù nhân Sở Lưới đã phá hỏng chiếc xà lan gỗ. Phương tiện vận chuyển vào Cầu Tàu chỉ còn một chiếc sà lan sắt, trọng tải 40 tấn. Nhiều thuyền trưởng chở hàng ra đảo đã phàn nàn là việc bốc dỡ quá chậm. Giám đốc nhà tù phải gửi công vần để xin thêm 2 chiếc sà lan sắt.

Sở Củi và Sở Lò Vôi cũng liên tục đấu tranh đòi hạ mức khổ sai, lãn công phá hoại làm cho vôi ra lò ít, không đủ cung cấp cho việc xây dựng. Gỗ làm nhà tù phải chở từ đất liền ra, vì gỗ ở Côn Đảo không đủ quy cách. Sẵn gỗ, kíp thợ mộc cắt vụn ra đóng đồ cho xếp banh, đội, quản… theo yêu cầu của chúng. Kíp Chỉ Tồn don hàng thì làm rơi, làm vỡ, quăng cả xi măng, gạch, ngói xuống biển.

Phá hoại cơ sở vật chất, làm suy yếu bộ máy, phương tiện chiến tranh của địch bao giờ cũng là tư tưởng thường trực của những người kháng chiến. Năm 1951, kíp tù binh tu sửa Banh III đã đập vỡ ngói, cắt vụn gỗ làm tổn hao nhiều vật liệu và trì trệ việc tu sửa. Kíp làm đường ở Đầm thì để nước lũ cuốn trôi chiếc cầu trên đường ra Đầm bằng cách đổ một lớp móng cầu bằng toàn cát và sỏi.

Đầu năm 1953, trong một báo cáo gửi Thống đốc Nam Kỳ, chúa đảo đã báo động về tình trạng nhà cửa ở Côn Đảo: “Tất cả đều trong tình trạng hư hỏng (…) Nếu con số phạm nhân phải giam giữ tại Côn Đáo vượt qua 2.100 thì phải xây dựng lại Banh 111 và trừ bức tường ngoài còn dùng được, còn thì phải xây dựng mới hoàn toàn (…). Nếu như Banh III ấy được xây dựng lại thì địa điểm phải dời sang chỗ khác. Nhà banh này trước kia được xây dựng tại một nơi. không đủ điều kiện vệ sinh; trong mùa mưa, từ tháng 5 đến tháng 11, sân của nhà banh biến thành một cái ao rộng và có lẽ đây là một trong những nơi duy nhất mà nước không được trong sạch, chỉ gọi là dùng tạm được cho tắm rửa!\

Mấy chuyến tù liên tiếp ra trong sáu tháng đầu năm 1953 đã nâng sô tù Côn Đảo lên quá 2.300. Thực dân Pháp cấp tốc chở vật liệu ra và sử dụng lực lượng tù binh làm nhân công xây dựng nhà banh số 4, chuẩn bị chỗ để đưa thêm 500 tù binh ra Côn Đảo.

Đảng ủy trại tù binh thảo luận, có nhiều ý kiến chống việc xây dựng nhà banh số 4. Tù nhân không bao giờ lại xây nhà tù để giam mình. Song có ý kiến lại cho rằng nếu tù binh không xây thì địch sẽ lấy tù án, tù thường phạm, hoặc đưa thợ ở đất liền ra xây. Chi bằng ta cứ làm và chống bằng hình thức lãn công, phá hoại. Đảo ủy chấp thuận và chỉ thị cho Chi ủy Banh III và Liên khu tù binh phá hoại thật nhiều nguyên vật liệu, lãn công, làm chậm đến mức tối đa việc xây dựng Banh IV. Các sở tù khác cũng nhận được chỉ thị lãn công, phá hoại việc xây lao.

Kíp thợ hồ trộn thật nhiều xi măng vào vữa, trộn nhiều vữa vào buổi chiều để hết giờ làm là đổ bỏ. Kíp thợ mộc thì cắt vụn những thanh gỗ dài dùng làm vì kèo, xà nhà để chèn chống. Kíp vận chuyển đập phá vật liệu. Có lần anh em còn làm kênh mái tôn trước cơn mưa để nước vào làm hỏng hàng chục tấn xi măng tại kho dã chiến ở công trường xây dựng Banh IV. Các loại đinh 20cm được chuyển cho bộ phận tạo tác đế rèn dao găm, đục, choòng, búa chờ ngày phá ngục. Anh em còn xây những đoạn tường rỗng, cột rỗng ở những góc khuất trong khám để tù nhân lớp sau sử dụng làm hầm bí mật.

Có kíp tù đề ra những chỉ tiêu cụ thể, tối thiểu mỗi ngày mỗi người phải đập bể 3 viên gạch, 3 viên ngói, đổ bỏ 3 xẻng xi măng. Buổi tối về các tổ tâm giao đều kiểm điểm công tác thi đua theo chỉ tiêu phá hoại. Ai xây ít thì biểu dương, ai xây nhiều thì phê phán. Kíp tù binh làm tốt công tác Âu Phi vận nên bọn lính dễ dãi. vắng xếp banh là chúng mặc cho tù muốn nghỉ, muốn mạn đàm chính trị hay tập võ thuật cũng được.

Tên chủ thầu xây Banh IV biết tù nhân tổ chức phá hoại. Hắn thương lượng với đại diện tù nhân, nếu Liên đoàn cho anh em làm cẩn thận, đừng phá hoại thì y sẽ nói với Giám đốc cải thiện đời sống, cho ăn thêm thịt cá. Giám đốc nhà tù thì dọa dẫm anh Phan Cơ, đại diện kíp tù binh rằng: “Anh nói lại với Ban chấp hành các anh là phá ít thôi, lãn công ít thôi, cứ làm như thế này thì tôi mất đầu mà các anh cũng chẳng được yên đâu”.

Anh Độ, đại diện một kíp bị phạt xà lim 3 tháng vì phá hoại quá nhiều. Các anh Phạm Văn Dần, Đinh Đăng Đổ ở kíp Hoàng Sâm dọn tàu cũng bị đánh chết đi sống lại nhiều lần vì phá hoại. Nhưng sự đàn áp, dọa dẫm và thương lượng của chúng không kết quả. Trong 2 năm 1953-1954, có thời kỳ mỗi tuần có 2 chuyến tàu chở vật liệu ra đảo, mỗi ngày có hàng trăm lao động khổ sai mà cho đến tháng 8-1954 (khi trao trả), cả khu Banh IV chỉ được mấy bức tường xây nham nhở và những đống gạch ngói vụn.

Trong thời kỳ này, Liên khu tù binh còn nhiều hình thức đấu tranh nhằm tiêu hao cơ sở vật chất của địch. Căn cứ vào Công ước quốc tế về vấn đề tù binh, anh em đấu tranh đòi có báo đọc hằng ngày, dược phát quần áo, giày mũ nhà binh, đòi được ăn uống đối xử đúng chế độ. Địch phải nhượng bộ, đưa một số báo tiếng Pháp và những tờ báo phản động ở Sài Gòn cho đọc. Báo chí của địch chỉ có bộ phận tuyên truyền được đọc, chọn lọc tin tức rồi biên soạn bản tin nội bộ để phổ biến, còn lại giao cho Ban xã hội cắt nhỏ, chia đều cho các khám dùng vào việc vệ sinh. Quần áo chúng phát, anh em cất để dành cho những chuyến vượt ngục.

Một số kíp tù khổ sai của tù án có điều kiện vẫn tiếp tục vượt ngục. Tháng 2 năm 1953, Huỳnh Văn Sang và Trần Nhị liên kết với 3 nhân viên Rờsẹc người Miên là-Danh Căn, Danh Chăn và Trao Diên vượt ngục thành công. Giữa mùa hè 1953 gió chướng đã lặng hẳn, nhà tù đưa hơn 60 tù nhân ở Khám 4 và Khám 5 Banh I sang Bảy Cạnh kéo gỗ. Bốn anh Thanh, Hơn, Nguyễn Đức Triêm, Phan Văn Giàu được giao nhiệm vụ đóng thuyền, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của các anh Lê Thành Tích (Đảo ủy viên), Trần Văn Đĩnh, Đỗ Văn Đích (chi ủy viên), trong kíp kéo cây. Buổi tối gácdang Obênăng em 1 và lính lên ngọn đèn pha trên đỉnh núi ngủ. Chỉ có 4 nhân viên Rờsẹc người Khơme ngủ với tù nhân ở lán dưới chân núi. Khi mới đóng được một khung thuyền thì có dấu hiệu lộ. A Muội, một thiếu nữ người Hoa ở Chợ Lớn theo tốp công nhân người Hoa ra sửa chừa pha đã thông báo cho tù nhân biết rằng cô nghe được tin nhà tù cử Tư Mách cầm đầu một tốp Rờsẹc 3 tên, cùng 3 con chó săn sang Bảy Cạnh phối hợp với 4 Rờsẹc ở Bảy Cạnh truy lùng. Tư Mách là tên ác ôn rất thạo nghề truy lùng tù trốn.

Chi ủy kíp kéo gỗ quyết định vận động nhóm nhân viên Rờsẹc ở Bảy Cạnh cùng tham gia vượt ngục. Anh Hơn với sự trợ giúp của Trần Văn Đĩnh, Phan Văn Đại đã vận động được 4 nhân viên Rờsẹc người Khơme tham gia vượt ngục. Họ cùng nhau chuyển khung thuyền đến một vị trí hiếm trở và kín đáo.

Phan Văn Đại cùng một số anh em tố chức 4 đêm văn nghệ liên tục trên bãi biển để che mắt Tư Mách và tốp Rờsẹc mới qua. A Muội cũng hết lòng giúp đờ tù nhân từ trang phục cho những đêm văn nghệ đến vật liệu, thực phẩm cho cuộc vượt ngục và cả việc lôi kéo Tư Mách vào tiệc nhậu suốt ngày, đánh bạc, hút xách suốt đêm, làm tiêu tan cuộc truy lùng của hắn. Anh Trần Văn Đĩnh nguyên là chiến sĩ công an Hà Nội đã tổ chức lực lượng an ninh, không chế một số tù nhân tinh thần yếu, đề phòng nhảy ra hàng giặc. Một loạt biện pháp ráo riết được áp dụng đồng bộ đã ngăn chặn được nguy cơ bị lộ.

Một đêm cuối thu 1953, 4 nhân viên Rờsẹc cùng 40 tù nhân kíp kéo gỗ ở Bảy Cạnh đã xuông thuyền giương buồm vượt ngục. Thuyền ra khơi được 10 cây số thì nước vào nhiều, đành phải dạt vào Hòn Cau để tu sửa lại. Vừa cập bâi Hòn Cau thì sóng xô thuyền vào đá ngầm vỡ tan. Hơn bổn chục người đã sống tại Hòn Cau bằng đợt đủng đỉnh, chuối, dừa, thịt vích trong khi máy bay, tàu chiến dịch săn đuổi trên biển. Hai tuần sau họ lại tiếp tục hạ thủy một chiếc bè mới đóng. Gió chướng chưa nổi lên nên sáng ra họ vẫn lênh đênh cách Hòn Bảy Cạnh không xa. Địch phát hiện được và đưa tàu ra bắt lại.

Trên Hòn Cau còn lại Võ Nguyên, Nguyễn Đức Triêm và Phan Văn Giàu. Ba người này đề xuất phương án nên chia thành nhiều tốp nhỏ, tự tổ chức phương tiện vượt lẻ nhưng không được chấp nhận nên ba người xin phép tập thể được ở lại tìm cách đi sau. Đêm đến, 3 người ôm khúc tre khô, dìu nhau bơi trở lại hòn Bảy Cạnh đế tránh cuộc truy lùng. Họ gặp được bác Tám Già, một người tù thường phạm vừa đến làm khổ sai ở Bảy Cạnh và cùng bác Tám kết bè vượt ngục lần nữa. Vải may buồm sẽ xin A Muội. Nhưng tốp truy lùng của nhà tù đả phát hiện được dấu vết đốn cây, kết bè. Bác Tám Già chỉ lối cho 3 người tù trẻ trốn đi rồi bác ở lại nhận hết, chịu đòn và chịu phạt. Nhà tù tiếp tục truy lùng và phát loa gọi hàng.

Đêm ấy “ba con rái biển” lại kèm nhau bơi về Côn Đảo, sau khi đẩy chiếc bè trôi ra biển để đánh lừa địch. Họ trốn trong hang đá trên Núi Chúa và liên hệ được với tù nhân kíp đập đá (khu Trần Phú). Kíp đập đá đã nhường cơm, sẻ áo nuôi tốp vượt ngục 3 tháng liền để chuẩn bị cuộc vượt ngục lần thứ 3.

Hàng ngày, Nguyên và Giàu may vải bọc thuyền trong hang sâu, Triêm xuổng chân núi phụ in ấn tài liệu cho Đảo ủy và nhận đồ tiếp tế của kíp đập đá. Sơn vải một phần do kíp đập đá tích lũy được, phần do Trương Qua, Trân Bảo Trung, Hàn Giang Nguyên (Phồn) và nhóm tù người Hoa ủng hộ. Võ Bằng, Bí thư phân chi bộ khu Trần Phú trực tiếp liên hệ, tiếp tế và giao nhiệm vụ cho tốp vượt ngục. Đỗ Hoàng Trừ, phó bí thư Đảo ủy làm khổ sai ở Sở Củi cũng đã gặp gỡ, chỉ đạo và giúp đỡ vật chất, phương tiện cho tốp vượt ngục. Đảo ủy đã giới thiệu Trần Văn Tường, một người tù thường phạm thạo nghề thuyền bè, sông nước cùng đi với họ.

Tường trốn lên hang núi ở một tuần rồi cùng Nguyên – Triêm – Giàu ôm vải bọc thuyền đã may sẵn và quét sơn qua mũi Lò Vôi vào đêm Nôen 24-12-1953. Ngoài tấm vải bọc chiếc thuyền đủ 4 người đi mà họ ôm theo, tốp vượt ngục còn để lại 3 tấm lớn hơn mà họ may tặng lại anh em, một cho kíp đập đá, một cho nhóm người Hoa, một cho Đảo ủy.

Bốn người đã chặt mây, ghép khung thuyền tại mũi Lò Vôi và hạ thủy vào đêm 31-12-1953, lúc bọn Pháp đang say sưa đón giao thừa. Chiếc thuyền con lướt qua vịnh Côn Đảo, qua mũi Cá Mập rồi căng buồm nhằm thẳng hướng tây. Chuyên vượt ngục ấy lạc về tận đất Xiêm. Võ Nguyên, Nguyễn Đức Triêm, Phan Văn Giàu và Trần Văn Tường lại bị nhà cầm quyền Xiêm trả họ cho chính quyền bù nhìn Nam Kỳ. Sau đó, họ được chuyển sang trại Hanh Thông Tây rồi được trao trả vào cuối năm 1954.

Đại hội Đảng bộ Côn Đảo lần thứ IV

Sau đợt chỉnh huấn, Đảo ủy nhà tù đã xét kỷ luật một số đảng viên có nhiều sai phạm, dù là sai phạm ở ngoài đời, khi bị bắt hay sa sút ý chí khi ở tù. Một số cán bộ cấp tỉnh, cấp khu có sai phạm nghiêm trọng cũng bị kỷ luật khai trừ. Án kỷ luật được xem xét một cách dân chủ nhưng nghiêm khắc. Nhiều đồng chí từng là đảng viên, chi ủy viên, phân chi ủy trong Đảng bộ cũng tự kiểm thảo, thành khẩn với những khuyết điểm của mình và xin nhận mức kỷ luật thích đáng, từ cảnh cáo cho đến khai trừ.

Đại hội Đảng bộ nhà tù Côn Đảo tiến hành vào cuối năm 1953. Nguyễn Văn Thi và Vũ Hồng Vũ góp nhiều ý kiến và soạn thảo tài liệu giúp Đảo ủy chuẩn bị Đại hội. Phần lớn việc đánh giá tình hình, xây dựng chủ trương hoạt động, soạn thảo báo cáo, in ấn tài liệu đều thực hiện ở Banh III. Nguyễn Văn Nghĩa và Lê Đình Thụ hằng ngày qua mạng lưới thông tin mà báo cáo tình hình và trao đổi với các Đảo ủy viên ở khối tù án.

Sau khi nhận được báo cáo dự thảo, các chi bộ tổ chức thảo luận, góp ý và cử đại biểu tham dự Đại hội Đảng bộ. Các đại biểu khai bệnh để được gặp nhau tại Nhà Thương Côn Đảo vào buổi sáng một ngày cuối năm 1953. Đại biếu phải thuộc làu đề án nghị quyết và các ý kiến đóng góp của chi bộ mình. Gặp nhau chỉ trao đổi ngắn gọn điều gì nhất trí, điều gì không nhất trí, bầu người nào, không bầu người nào. Các nhóm thảo luận nhanh chóng và biểu quyết miệng ngay tại chỗ. Nhóm trưởng ráp lại với nhau một lần nữa rồi báo cáo kết quả về cho Ban chỉ đạo Đại hội.

Đại hội nhất trí với những đánh giá của Đảo ủy về tình hình địch ta ở Côn Đảo, về bước chuyển trong tư tưởng, tổ chức và hoạt động của tù kháng chiến sau đợt chỉnh huấn. Đại hội nhận định cuộc kháng chiến đang bước vào giai đoạn phản công giành thắng lợi quyết định. Để chuyến kịp với tình hình và đủ khả năng ứng phó với những tình huống phức tạp, Đảo ủy phải lãnh đạo một cách toàn diện, không chỉ trong phạm vi nhà tù mà trên toàn địa bàn Côn Đảo. Đảo ủy phải thực hiện đầy đủ sự lãnh đạo đối với cả tù nhân các dân tộc Việt – Miên – Lào – Thái – Trung Hoa, cả số làm Rờsẹc và số theo Liên xã cũng như tất cả thầy chú người Việt, lính Phi, lính Pháp, gácdang. Khi có đủ điều kiện sẽ thành lập Ủy ban kháng chiến hành chính để thay mặt Chính phủ lãnh đạo cuộc kháng chiến trên toàn địa bàn Côn Đảo.

Đại hội lần thứ 4 của Đảng bộ Côn Đảo còn xác định rõ nhà tù là một mặt trận trong cuộc kháng chiến, tù nhân là một lực lượng của kháng chiến. Trách nhiệm của cán bộ, đảng viên trong cuộc chiến tranh giải phóng này là dù bất kỳ ở đâu, trong hòan cảnh nào, đảng viên cũng phải tổ chức lại, lãnh đạo quần chúng đấu tranh với kẻ thù. Đại hội đã căn bản giải tỏa được “đám mây mù” về tư tưởng trong một số cán bộ, đảng viên lúc đó cho rằng “ở tù là có tội”, “bị Đảng bỏ rơi, không chỉ đạo mặt trận tù nhân”.

Đại hội quyết định đẩy mạnh các mặt hoạt động của tù nhân Côn Đảo, nhất là công tác thông tin liên lạc, công tác Âu – Phi vận, việc tranh đấu hàng ngày. Phải chuyển hẳn những cuộc đấu tranh theo kiểu “phản kháng thụ động” sang thế chủ động tiến công. Tích cực công kích địch, làm cho chúng đối phó không kịp, rối loạn hàng ngũ, phân tán lực lượng suy yếu dần mòn. Đại hội cũng nhận định Mỹ đã nhảy vào Đông Dương, Pháp đẩy mạnh xây dựng lực lượng ngụy quân, lực lượng cơ động chiến lược và chuyển hướng chiến lược, củng cố vùng đồng bằng Nam Bộ. Vì thế, kháng chiến có thể còn nhiều tình huống phức tạp, Đảng bộ phải chuẩn bị tích cực để đón thời cơ, tự giải phóng mình, giải phóng Côn Đảo.

Đại hội bầu Nguyễn Văn Thi làm Bí thư Đảo ủy; Đỗ hòang Trừ là Phó bí thư, kiêm Chủ tịch Liên đoàn tù nhân kháng chiến; Vũ Hồng Vũ, Thường vụ Đảo ủy, phụ trách công tác chính trị, tư tưởng và tranh đấu, dự kiến sẽ làm Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chánh Côn Đảo khi có điều kiện. Ban chấp hành Đảo ủy còn có: Nguyễn Văn Nghĩa phụ trách Đảng vụ; Lê Khắc Thành phụ trách chi bộ tù án ở Banh II; Trần Công

Hiệu, phụ trách chi bộ tù án ở Banh I; Hoàng Nam tức Phan Xuân Tiềm phụ trách chi bộ tù áo trắng và các sở ngoài; Lê Đình Thụ, đặc trách công tác liên lạc giữa Đảo ủy với Thành ủy Sài Gòn – Gia Định và Trung ương Cục.

Sau nhiều đợt đấu tranh và vận động, anh Duy tức Đoàn Duy Thành bị áp-xe phổi nặng, anh Trần Mạnh tức Vũ Quang Đạo bị thương hỏng một mắt khi lao động khổ sai được đưa về Sài Gòn chữa bệnh cùng một số người bệnh khác. Hai anh được giao nhiệm vụ tìm mọi cách báo cáo tình hình ở Côn Đảo với Đặc khu ủy Sài Gòn – Chợ Lớn – Gia Định và Trung ương cục. Bản báo cáo do Đảo ủy soạn thảo, hai anh được học thuộc, nhập tâm dưới sự hưởng dẫn trực tiếp của các anh Nguyễn Văn Thi, Bí thư Đảo ủy; Vũ Hồng Vũ; Thường vụ Đảo ủy và Lê Đình Thụ.

Tháng 10 năm 1953, Đoàn Duy Thành được trả tự do ở Sài Gòn. Trần Mạnh thì vượt ngục ở Nhà thương mắt. Cả hai đều lần lượt đến nhà bà Nguyễn Thị Năm ở Xóm Chiếu (quận 4, Sài Gòn) là cơ sở giao liên của Thành ủy theo mật hiệu mà anh Lê Đình Thụ giao cho. Từ đó, các anh gặp được Đặc khu ủy Sài Gòn – Chợ Lớn – Gia Định, Trung ương cục và Trung ương. Ngoài việc báo cáo tình hình, các anh còn có nhiệm vụ xin ý kiến và sự chi viện của Trung ương cho kế hoạch giải thoát toàn đảo lần thứ 2 và tìm mọi cách thông tin ra đảo.

Năm kiến nghị của Đảo ủy với Trung ương đều tập trung cho kế hoạch giải thoát:

– Gửi cho xin những chính sách mới để học tập và để kịp thời phối hợp với đất liền để giải thoát (sợ lỡ thời cơ địch sẽ đem đi nơi khác xa hơn).

– Xin chỉ thị về kế hoạch xây dựng cơ sở và kế hoạch giải thoát.

– Giúp đỡ kế hoạch giải thoát (…)

– Cho xin một máy vô tuyến điện nhỏ gửi ra.

– Tháng 1, 2 sẽ tổ chức một cuộc giải thoát, đề nghị với Trung ương – phân cục miền Nam đón ở khu Bạc Liêu… 1

Ban tham mưu quân sự do anh Vũ Hạnh phụ trách giúp Đảo ủy phác thảo kế hoạch giải thoát và tổ chức đạo quân ngầm làm lực lượng xung kích tác chiến. Trước mắt, Đội quân ngầm có nhiệm vụ bảo vệ lãnh đạo; không chế những tên phản động chưa cải tạo được; tự chế tạo vũ khí, luyện tập chiến thuật, võ thuật; vẽ bản đồ và xây dựng phương án tác chiến. Khi thời cơ cho phép, Đội quân ngầm sẽ là lực lượng xung kích đánh chiếm các vị trí quan trọng trên đảo, phối hợp với lực lượng tù kháng chiến ở các cơ sở giải thoát toàn bộ tù nhân. Hầu hết các cán bộ quân sự cấp trung đội, đại đội và tiểu đoàn đều được xung vào Đội quân ngầm. Tổ tham mưu trinh sát có các anh Văn Bằng (tổ trưởng), Ngô Đình Lại, Nguyễn Ngọc cầm, Trần Dược; tổ địch vậr^có các anh Độ, Nghĩa, Thành, v.v… toàn đảo thực hiện nếp sống quân sự hóa, gắn sinh hoạt, học tập, lao động khổ sai của từng toán (10 người, theo mâm ăn) với tiểu đội chiến đấu khi xung trận. Các tổ trưởng đảng đều trực tiếp làm toán trưởng trong sinh hoạt và làm tiểu đội trường khi tranh đấu. Riêng lực lượng tù án lúc đó đã tổ chức được 80 toán (tiểu đội chiến đấu). Kíp hòang Sâm đã tổ chức được một trung đội gồm 32 cán bộ, chiến sĩ phụ trách phương án đánh chiếm tàu hàng. Trại tù binh được tổ chức thành một tiểu đoàn.

Từ kinh nghiệm cuộc bạo động 12-12-1952, lần này Đảo ủy chỉ đạo phải trang bị ngay vũ khí. Lực lượng xung kích phải được huấn luyện chu đáo, đánh nhanh, chắc thắng, không để sổng địch; phải tổ chức riêng một lực lượng và phương án cướp trạm vô tuyến điện ở Cầu Tàu và đài vô tuyến điện ở Bảy Cạnh.

Những tháng cuối năm 1953, phương án võ trang cướp đảo vượt ngục được ráo riết chuẩn bị. Tổ sản xuất vũ khí rèn được hàng trăm dao găm từ đinh buloong. Tổ binh vận lấy được cả súng và lựu đạn. Tổ trinh sát lợi dụng lúc đi làm khổ sai hoặc đi lễ nhà thờ mà quan sát, vẽ bản đồ Côn Đảo, sơ đồ từng khu vực bố phòng. Lực lượng xung kích tập võ thuật, chiến thuật.

Công tác thông tin, tuyên truyền văn nghệ ở các khám tù đều hướng vào mục tiêu tự giải phóng. Mục tiêu cao nhất của đợt chỉnh huấn (cuối năm 1953 đầu 1954) cũng nhằm nâng cao giác ngộ giai cấp, giác ngộ dân tộc, đồng thời củng cố quyết tâm tự giải phóng mình và giải phóng Côn Đảo khi có thời cơ.

Trong thời kỳ này, Tổ binh vận còn mở được một lớp tập huấn luyện chiến tranh nhân dân cho binh lính người Phi. Từ môi đồng cảm giữa hai dân tộc cùng chung kế áp bức là thực dân Pháp cộng với lòng cảm phục những người tù Côn Đảo, binh lính người Phi đã thích thú tìm hiểu về cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân Việt Nam; về Chủ tịch Hồ Chí Minh, về Đại tướng Võ Nguyên Giáp; tìm hiểu về kinh nghiệm giành chính quyền, kinh nghiệm kháng chiến bảo vệ nền độc lập dân tộc.

Bài học về chiến tranh nhân dân được những người lính Phi đặc biệt quan tâm. Có tốp lính dẫn tù binh đi làm đã thay phiên nhau, người gác, người ngồi vây quanh nghe tù nhân giảng bài. Khi những “người thầy” này bị phạt trong biệt lập thì chính họ vừa canh gác tiếp tế, liên lạc, vừa nghe giảng qua khe cửa sắt. Sau này, khi thực dân Pháp thất bại ở Điện Biên Phủ, nhiều binh lính gốc Phi đã trở về tham gia cuộc đấu tranh võ trang giành độc lập của nhân dân Angiêri. Cách mạng thành công, trở thành những người lãnh đạo Nhà nước và quân đội Angiêri, họ viết thư sang Việt Nam cám ơn những người tù kháng chiến thời ấy đã truyền cho họ hiểu biết về sức mạnh đoàn kết của một dân tộc và kinh nghiệm về chiến tranh nhân dân để giải phóng dân tộc mình khỏi ách nô lệ.

Ban ngoại vận ở khối tù án trong nhiều năm đã tổ chức được những cơ sở tin cậy trong số gác ngục, công chức và gia đình họ. Vợ chồng y tá Lộc đã mua giúp rađiô và đặt tại nhà mình cho anh em tù kháng chiến nghe tin tức. Cô Kim Châu, con giám thị 14 Cư thường mở rađiô cho nhóm tù nhân ở Nhà Thương nghe. Các anh Lý, Huỳnh Phò cũng tổ chức nghe tin tức qua rađiô ở nhà ông Trần Văn Thiều ở kho bạc và ở nhà gácdang Sami gốc Ấn Độ. Anh Minh Nam (tức Lê Xuân Cương) ở Nhà Thương là một trong những đầu mối tổng hợp tin tức cho Đảo ủy. Anh Ngô Xiêm tổ chức in tin nhanh tại Khám Chỉ Tồn Banh I. Hai em Đào Ngọc Minh và Đào Quang Cường (sau này là nhà báo Mai Lê Cường), con bà Bùi Thị Quý cũng tham gia các việc liên lạc, canh gác, đưa tin cho Liên đoàn tù nhân. Minh còn là tổ trưởng, cùng với Pônlét (Paullette) con giám thị Đoàn Doãn Phê (quốc tịch Pháp) tổ phó, phụ trách gần chục em thiếu nhi để giúp đỡ các chú tù kháng chiến. Đào Ngọc Minh và Đào Quang Cường sau này được Đảo ủy bố trí cho về Sài Gòn rồi đưa ra Hà Nội đào tạo thành những cán bộ khoa học kỹ thuật về phục vụ đất nước.

Tin tức chiến sự nghe được qua rađiô, báo chí và do binh lính, gác ngục có cảm tình cung cấp vẫn được báo cáo về Đảo ủy hàng ngày. Được tin tình hình chiến sự đang chuyển biến mau lẹ trên các chiến trường, ở Đông Dương, Đảo ủy gấp rút chỉ đạo xây dựng lực lượng để đón thời cơ. Hàng loạt cuộc đấu tranh bằng hình thức yêu sách, kiến nghị, phản đối tập thể đã liên tiếp nổ ra, với nội dung cụ thể:

– Tăng số người khám bệnh trong ngày (để tích trữ thuốc men).

– Tăng khẩu phần ăn (để tích trữ lương thực).

– Đòi chở nước ở Bản Chế về để ăn uống cho đảm bảo vệ sinh (qua đó liên hệ với tổ sản xuất vũ khí).

– Tăng thêm người làm vườn, trồng rau cải thiện (Kíp làm vườn là một tổ xung kích của Đội quân ngầm).

– Đòi cấp quần ảo tốt (để dành bọc thuyền, làm buồm khi cần).

– Đòi cho tù đi đánh cá, bắt vích thay cho khô mục, cho tù cùng với lính lên rừng bắn trâu để bổ sung khẩu phần thịt.

– Đòi cho những người có đạo được đi lễ nhà thờ (những buổi sáng chủ nhật đi lễ nhà thờ là cơ hội để các chiến sĩ trong Đội quân ngầm quan sát các mục tiêu trong thị trấn để lập kế hoạch huấn luyện và tác chiến).

Đảo ủy còn chỉ đạo một đợt đấu tranh chống bắt lính, chống lấy máu của tù nhân.

Thực hiện kế hoạch xây dựng 20 vạn ngụy binh, bọn Pháp đã tính đến chuyện bắt lính trong tù. Sau khi cho cố vấn về công tác bình định đi thăm một loạt trại tù binh ở Nam Bộ, thiếu tá tình báo Phácxy (Farcy, Chánh văn phòng của thiếu tướng Tư lệnh lục quân Pháp tại miền Nam Việt Nam) đã gửi văn thư 0557/ca/Mil ngày 29-12-1953 cho thiếu tá Thômát (Thomas, đặc trách công tác bên cạnh Thủ hiến Nam Việt Nam) để lưu ý việc đánh giá tù kháng chiến như sau: “(…) Trong số họ, có rất nhiều người có tư cách; vì họ đã biết phải dấn thân cho một lý tưởng mà họ tin là cao cả; những Việt Minh này một khi đã được cải tạo theo lý tưởng quốc gia, họ rất có thể trở thành những người rất hữu ích cho dân tộc Việt Nam

Văn thư còn hướng dẫn các kiểu lung lạc, bịp bợm để người tù chịu làm tay sai, cầm súng đánh thuê cho chúng. Nhiều tên nhân viên phòng nhì Pháp đã được phái đến các trại tù, cùng với đại diện của chính quyền bù nhìn tiến hành bắt lính. Chúng chọn và gọi từng người lên văn phòng đặt vấn đề, ai đồng ý, chúng sẽ trả tự do ngay và sung vào lính. Nếu là sĩ quan, chúng hứa sẽ giữ nguyên quân hàm, chức vụ trong quân đội ngụy. Nhưng tất cả họ đều tẩy chay việc đi lính và hiến máu cho Pháp; thực hiện đúng khẩu hiệu của Đảo ủy đề ra là không một người đi lính, không một giọt máu cho giặc Pháp.

Trong lúc chiến dịch Điện Biên Phủ đang gần ngày thắng lợi, Đảo ủy chỉ đạo tổ chức kỷ niệm ngày Quốc tế Lao động 1-5-1954 trên toàn đảo. Tổng đại diện tù binh đã báo cho Giám đốc nhà tù biết để giữ thế hợp pháp.

Ở giữa Banh III, tù nhân dựng một quả cầu lớn, đường kính 3 mét, khung bằng tre, bồi giấy xi măng. Quả cầu có hình đôi chim bồ câu ngậm dải lụa đào trên nền bốn biển năm châu và khẩu hiệu “HÒA BÌNH THẾ GIỚI MUÔN NĂM” bằng tiếng Việt và tiếng Pháp. Đêm văn nghệ của tù binh Liên khu I có nhiều bài hát vừa sáng tác trong tù như Không đi lính, Không hiến máu, của nhạc sĩ Đẩu. Điệu múa Tam tam chế do Ban văn nghệ của Đội quân ngầm dàn dựng và biểu diễn rất đẹp mắt, thể hiện tình đoàn kết chiến đấu của người chiến sĩ quân đội nhân dân. Thực ra đó là những động tác cơ bản trong chiến thuật bộ binh do Ban tham mưu quân sự đã soạn cho anh em luyện tập với cây súng gồ.

Chiều 7-5-1954, qua rađiô, Đảo ủy được tin quân ta toàn thắng ở Điện Biên Phủ. Tối ấy các khám đều liên hoan mừng chiến thắng. Đảo ủy tiến hành lập danh sách toàn thế tù nhân, phân loại cán bộ, đảng viên, chuẩn bị đấu tranh đòi trao trả. Phòng tuyên huấn được Đảo ủy giao nhiệm vụ biên soạn văn bản tố cáo chê độ thực dân Pháp ở Nhà tù Côn Đảo trước dư luận trong nước và quốc tế. Hàng trăm tù nhân ở các khu đã cung cấp tội ác của thực dân Pháp trong hơn 8 năm thống trị ở Côn Đảo. Phòng tuyên huấn biên soạn lại thành 2 tập: Tám năm tội ác của thực dân Pháp ở Côn Đảo và Bản án xâm lược Pháp.

Đó là tiếng nói trực tiếp của các nhân chứng đã bị hành hạ đọa đày với những chứng tích cụ thể về tội ác của bọn Pháp xâm lược. Tài liệu được chép thành nhiều bản trên các khổ giấy nhỏ phân phát cho các đoàn tù, gửi cho các phái đoàn quốc tế và sử dụng làm văn bản đấu tranh với bọn chúa ngục Côn Đảo.

Trở về thắng lợi

Ngày 12-5-1954, ta trao trả cho Pháp 858 thương binh ngay tại Mặt trận Điện Biên Phủ. Đáp lại, phía Pháp cũng trao trả cho ta 267 thương bệnh binh tại cầu Giỏ (Bắc Giang) vào ngày 16-6-1954. Nhân cuộc trao trả ấy, đại diện 2 bên đã mở đầu cuộc tiếp xúc chuẩn bị cho hội nghị quân sự 2 bên giữa Bộ Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam và Bộ Tổng tư lệnh quân đội Pháp ở Đông Dương. Sau một số cuộc gặp gỡ, hai bên đã thỏa thuận mở hội nghị chính thức tại Trung Giã vào đầu tháng 7 năm 1954, song song với Hội nghị Giơnevơ.

Ở Côn Đảo, tất cả các lực lượng binh vận, địch vận, ngoại vận đều phát huy mọi nỗ lực giúp Đảo ủy nắm chắc diễn biến tình hình. Cuốn nhật ký nhỏ khổ 6×9, dày 50 trang của anh Trần Đông (thư ký cho Bí thư Đảo ủy từ tháng 2-1954) cho biết, tin tức đến văn phòng Đao ủy hầu như từng ngày. Tin Liên Xô, Trung Quôc, Ấn Độ cho đến tiêng súng ở các mặt trận, đặc biệt là thỏa thuận tại Hội nghị Trung Giã và Hội nghị Giơnevơ được anh em theo dõi và ghi chép tỉ mỉ, hoặc lược thuật nội dung cơ bản. Sau đây là tin về Hội nghị Trung Giã, trích trong Nhật kỷ Trần Đông (nguyên bản):

“Ngày 4-7-1954, Hội nghị Trung Giã 2 bên gặp nhau thảo luận chương trình:

– Giải quyết đề nghị do Genève đưa ra.

– Ngừng bắn.

– Hoạch định phương pháp ngừng chiến, đóng quân.

– Trao đổi tù binh.

– (thiếu 2 chữ) đưa ý kiến lên Genève.

Ngày 7-7-1954, Hội nghị Trung Giã 2 bên thỏa thuận:

– Ngừng bắn toàn ĐB (Đông Dương – BT).

– Khu vực đóng quân.

– Trao đổi tù binh trao đổi thương bệnh binh 14-7 – cải thiện chế độ tù binh.

– Ngày (mờ mấy chữ) Nhật lệnh của chính phủ tự do tín ngưỡng. Chính sách đối với đồng bào công giáo. Mệnh lệnh gửi quân đội và nhân dân Việt Nam:

Ngừng bắn toàn lãnh thổ Việt Nam. Bắc Bộ 7 giờ 27-7, Trung bộ 1-8, Nam bộ 11-8.

– 3 giờ chiều 27-7, Hội nghị Trung Giã giải tán, nhường lại cho hội đồng kiểm soát (..-)”1.

Tin tức được theo dõi từng giờ nên Đảo ủy có đầy đủ cơ sở để nhận định tình hình để có cơ sở pháp lý cho cuộc đấu tranh sắp tới. Đảo ủy nhận định rằng Hội nghị Giơnevơ có triển vọng giải quyết vấn đề Việt Nam bằng con đường hòa bình, những người bị địch bắt trong chiến tranh sẽ được trao trả cho Chính phủ kháng chiến. Điều đó là đương nhiên đối với tù binh, song lại phức tạp đối với tù án. Bọn Pháp có thể tráo trở, xem tù án là những người phạm pháp (tội hình sự) mà trao trả cho Chính phủ Bảo Đại. Mặt khác, có khả năng đế quốc Mỹ sẽ nhảy vào Việt Nam phá hoại Hiệp định, củng cố chính phủ bù nhìn, làm cho tình hình phức tạp. Vì vậy, cần phải có một cuộc đấu tranh rộng lớn để chống những âm mưu-lật lọng của thực dân Pháp và bù nhìn tay sai.

Mục tiêu chính của cuộc đấu tranh này là đòi hủy bỏ các bản án, nhìn nhận là tù chiến tranh, trao trả cho Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa. Cơ sở pháp lý là khi Pháp đã nhìn nhận chủ quyền độc lập của dán tộc ta thì việc tòa án Pháp xét xử công dân Việt Nam trớ nên bất hợp pháp, dù là án tư pháp. Trong khi chờ đợi trao trả, Pháp phải thực hiện chế độ tù chiến tranh, đối xử nhân đạo như thỏa thuận của Hội nghị Trung Giã.

Đảo ủy nhận định yêu sách này vượt qua quyền nạn của bọn cầm quyền Côn Đảo cho nên phải gạt bọn này ra khỏi mũi nhọn của cuộc đấu tranh. Nhưng mặt khác, phải làm chi chúng rối loạn hoang mang, buộc chúng phải thúc ép bọn đầu sỏ trong đất liền chóng giải quyết. Muốn vậy, phải dùng ưu thế tuyệt đối của ta là tinh thần cứng rắn, bền bỉ đế đánh vào nhược điểm của địch là vấn đề nhân công. Ta phải thống nhất lực lượng, cương quyết đình công tranh đấu. Một cuộc đấu tranh như vậy chắc chắc sẽ phải lâu dài và gay go, cần phải chuẩn bị tốt cả vật chất, tinh thần và lực lượng.

Đảo ủy huy động lực lượng tranh đấu lần này gồm toàn thế tù nhân trên Côn Đảo, không phân biệt tù binh hay tù án, trong tù án cũng không phân biệt tù kháng chiến hay tù tư pháp. Đảo ủy sắp xếp lại bộ máy ở các nơi, thực hiện nhất nguyên chế trong lãnh đạo. Tổng số tham gia là 2.252 người, trong đó có 593 tù binh và 1.659 tù án.

Toàn bộ yêu sách chủ yếu là cho tù án nên trại tù binh chỉ là lực lượng phối hợp. Điểm trung tâm của cuộc đấu tranh toàn đảo lần này thuộc khối tù án. Trong ba liên khu của tù án thì Đảo ủy chỉ đạo điểm là Liên khu II và III (tức Banh I và Banh II), vì đó là nơi tập trung tù nhân cả về số lượng và chất lượng, đã được rèn luyện, thử thách nhiều lần về trình độ tổ chức, năng lực cán bộ và tinh thần dấu tranh. Liên khu IV (các sở ngoài) là diện phối hợp. Lực lượng đấu tranh được chia làm 2 bộ phận:

– Bộ phận đình công gồm tù nhân ở tất cả các sở huyết mạch của nhà tù như Sở Củi, Sở Lưới, Bản Chế, Chỉ Tồn, Lò Vôi, Sở Rẫy…

– Bộ phận không đình công, chỉ đưa yêu sách, kiến nghị gồm các kíp tù làm ở Nhà bếp, Nhà Thương, công nhân tư gia, thư ký các văn phòng và một số ít tù nhân ở các sở. Bộ phận này đảm nhiệm các công tác hỏa thực, giao thông liên lạc, ngoại vận, địch vận.

Bố trí như vậy cũng là để tránh bớt căng thẳng với bọn cầm quyền ở Côn Đảo. Trong 5 ngày cuối tháng 7- 1954, các chi bộ thuộc khối tù án đã kết nạp thêm 9 đảng viên, tăng cường lực lượng lãnh đạo cho cuộc đấu tranh quyết liệt sắp tới.

Đảo ủy chỉ định các anh Trịnh Văn Hà, Lê Văn Thống (tổng đại diện và phó tổng đại diện tù án) làm chủ tịch và phó chủ tịch úy ban tranh đấu. Các anh Nguyễn Trí Tuệ, hòang Phúc là trưởng và phó ban an ninh. Hiệu lệnh đấu tranh, sẽ mở đầu bằng bài hát Lên Đàng. Hiệu lệnh hiệp đồng chống khủng bô là bài Chiên sĩ ca. Nếu địch khủng bố ác liệt, sẽ hiệp đồng ở mức cao hơn, khi có hiệu lệnh bằng hát bài Tiến quân ca. toàn bộ tinh thần cơ bản của cuộc đấu tranh đã được thể hiện trong bài thơ Hồ Chí Minh của Phạm Tiệp, được Nguyễn Sáng phổ nhạc ngay trong đợt tranh đấu:

ĐI THEO HỒ CHÍ MINH

Là công dân của nước Việt Nam

Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa

Nước chiến thắng đế quốc Pháp

Là công dân của nước chiến thắng

Có cha già Hồ Chí Minh

Có anh cả Trường Chinh

Có Đảng lao động Việt Nam

Tất cả một lòng – Tất cả một lòng

Dũng cảm đấu tranh – Dũng cảm đấu tranh

Quyết tử tất thắng

Đòi Pháp phải trả hết – Đòi Pháp phải trả hết

Chúng ta về với Chính phủ Hồ Chí Minh.

Đêm 20-7-1954, Hiệp định chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương đã được ký kết tại Giơnevơ. Bộ phận ngoại vận chép được nội dung Hiệp định qua bản tin đọc chậm. Thường vụ Đảo ủy họp bất thường để gấp rút chuẩn bị tiến hành tranh đấu. Đảo ủy quyết định dành hẳn 10 ngày để chuẩn bị thật chu đáo, tập trung vào các việc sau:

Tổ chức:

– Thực hiện nhất nguyên chế

– Thành lập UBKCHC 1 Côn Đảo

– Sắp xếp hộ máy các nơi.

Tinh thần:

– Vận động giải thích cho anh em hiết sự ích lợi và cần thiết của cuộc tranh đấu.

– Đả thông mọi người những tư tưởng lệch lạc để khỏi đi sai phương châm Trường kỳ đình công.

– Giáo dục cho anh em có ý thức và tinh thần chịu đựng gian khổ, khủng bố và đàn áp.

– Đào sâu căm thù địch để anh em dứt khoát lập trường, xây dựng tinh thần chiến đấu.

Vật chất:

– Dự trữ vật chất, đề phòng địch bỏ đói, bỏ khát, cho ăn ít.

– Bồi dưỡng sức khỏe để chịu đựng.

– Chuẩn bị vật dụng chống đàn áp (đánh đập, bom cay, v.v…)2.

Ngày 25-7-1954, Ủy ban kháng chiến hành chính Côn Đảo công khai danh nghĩa, ra lời hiệu triệu, niêm yết tại nhiều nơi, tuyên bố Ủy ban kháng chiến hành chánh Côn Đảo đã được thành lập, thay mặt cho Chính phủ lãnh đạo nhân dân toàn đảo tiến hành cuộc kháng chiến cho đến thắng lợi cuối cùng, đem lại độc lập, tự do hòan toàn cho dân tộc.

Bản hiệu triệu kêu gọi những công chức, giám thị người Việt lầm đường lạc lối hãy quay lại với nhân dân, kẻ nào ngoan cố chống lại sẽ bị trừng trị. Hiệu triệu kêu gọi binh lính, gác ngục người Pháp, người Phi hãy ủng hộ cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân Côn Đảo chống thực dân Pháp. Hiệu triệu cổ vũ toàn thể tù nhân sát cánh chiến đấu dưới mệnh lệnh của Ủy ban cho đến thắng lợi. Vũ Hồng Vũ, Thường vụ Đảo ủy là Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính Côn Đảo đã ký tên vào Bản hiệu triệu, với bí danh Trần Quốc Minh.

Theo chủ trương của Đảo ủy, Ủy ban kháng chiến hành chính Côn Đảo trực tiếp lãnh đạo cuộc đấu tranh với địch, đòi thực hiện Hiệp định Giơnevơ về vấn đề trao trả tù binh, tù chiến tranh cùng các điều khoản cam kết tại Trung Giã. Đồng thời, Ủy ban trực tiếp lãnh đạo cuộc đấu tranh đòi xóa bỏ chế độ tù án ở Banh I và Banh II, chuyển tất cả thành tù chiến tranh, cùng trao trả với tù binh.

Trường hợp thực dân Pháp và đế quốc Mỹ cấu kết với nhau, tráo trở không thi hành Hiệp định thì sẽ thực hiện phương án giải thoát, khi cần sẽ dùng đến bạo lực cách mạng, phối hợp với đất liền tổ chức cho anh em lần lượt trở về, trước khi Mỹ nhảy vào Việt Nam. Đảo ủy cử người trinh sát vùng cỏ Ông, lập căn cứ, đào hầm bí mật tích trữ vũ khí, lương thực và thuốc men. Các anh Vũ Hồng Vũ, Lê Đình Thụ, Nguyễn Ngọc Cầm đã chuẩn bị kế hoạch, khi có thời cơ sẽ trốn ra hẳn ngoài căn cứ đế chỉ đạo.

Đánh hơi thấy không khí chuẩn bị khác thường của tù nhân, địch sục sạo và khám xét gắt gao. Các cuộc tụ tập từ 3 người trở lên đều bị chúng giải tán, thấy dấu hiệu nghi ngờ là bắt lên Sở Cò tra tấn, khai thác. Giám đốc Côn Đảo ủy nhiệm đặc biệt cho gácdang Cácliê và thầy chú Huệ được khám xét bất thường bất cứ người tù nào đi lại trên đường.

Trong thời gian soát xét, địch phát hiện được tập thơ Lửa Sống do một nhóm Thiếu nhi cứu quốc1chuyền tay nhau xem. Đó là tập thơ chọn lọc của tù nhân, do Hội văn nghệ tù nhân Côn Đảo ấn hành. Rô lăng, con gái gácdang Đờlacóoc (Delacor), bí danh là Xuân Lan, bị bắt lên Sở Cò cùng tập thơ. Rôlăng khai Pônlét, Pônlét khai Đào Ngọc Minh, Minh khai lượm được ở giếng nước.

Hậu quả là 7 người tù làm bồi bếp quanh khu vực giếng nước bị bắt: Huỳnh Phò (C.12170), Phạm Văn Hỷ (C.12187), Hàn Giang Nguyên (C.12720), Ngô Minh Sơn, hòang Đình Hồ, Lê Văn Rô và Ré. Các anh bị tra tấn, trấn nước, quay điện nhiều lần nhưng không ai khai báo gì về việc tổ chức, tuyên truyền cho nhóm Thiếu nhi cứu quốc cũng như các chủ trương của Liên đoàn.

Địch tiếp tục lục soát bắt được chỉ thị, thông tri của Liên đoàn và của Ủy ban kháng chiến hành chánh Côn Đảo ở khu thợ hồ và một số khu khác. Chúng cũng biết được phần nào chủ trương và sự chuẩn bị của ta, nhưng không vì thế mà ta dừng cuộc đấu tranh lại.

Ngày 30-7-1954, trung tướng Gilô (Gilót), thanh tra các trại tù binh, ra nắm tình hình tại Côn Đảo. Theo sự chỉ đạo của Ủy ban kháng chiến hành chánh Côn Đảo, anh Vũ Hạnh đã đưa đơn tranh đấu, tố cáo sự hà khắc của chúa ngục ở Trại tù binh; đồng thời yêu cầu Bộ tổng tư lệnh Pháp can thiệp, trao trả toàn bộ tù nhân Côn Đảo về cho Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa; thực hiện đúng điều 21 Hiệp định Giơnevơ và những cam kết ở Hội nghị Trung Giã về việc cải thiện chế độ tù binh, tù chiến tranh. Gilô nhận đơn và khiển trách tên quan ba bác sĩ ở đảo cùng tên quan hai Gácđét, trưởng trại tù binh.

Tối 30-7-1954, toàn đảo tổ chức lễ phát động tranh đấu, đọc mệnh lệnh của Ủy ban kháng chiến hành chánh Côn Đảo. Sáng 31-7-1954, các khám tù nhất loạt đưa đơn và không ra điểm danh đi làm. Anh Trịnh Văn Hà, Tổng đại diện của tù án đã gửi hai đơn cho Bộ tư lệnh Pháp và Ủy hội quốc tế, yêu cầu xóa bỏ án tiết; nhìn nhận là tù chiến tranh; thực hiện đúng quy chế tù chiến tranh. Kèm theo đó là bức thư gửi Giám đốc Côn Đảo trình bày rõ nội dung và hình thức tranh đấu của tù nhân.

Giám đốc Côn Đảo nhận đơn. Y rất ngạc nhiên vì cho đến lúc ấy, y chưa được thông báo gì về nội dung Hội nghị Trung Giã và Hiệp định Giơnevơ. Tuy vậy, Blăng cũng trả lời tù nhân ngày trong buổi sáng ấy:

– Vấn đề chính trị phạm còn chờ cấp trên nghiên cứu giải quyết.

– Thường phạm thì không có gì thay đổi.

– Tù nhân phải tiếp tục làm việc bình thường. Hôm nay (thứ 7, ngày 31-7-1954) đã lỡ, thứ hai phải đi làm.

Ngày 2-8-1954, không một ai đi làm. Giám đốc nhà tù ra lệnh phạt tất cả theo chế độ xà lim, nghĩa là chỉ cấp 500gr gạo mỗi người, mỗi ngày, ăn cơm nhạt, uống nước lã và cấm cố, không được ra chơi tắm rửa.

Ở Sở Rẫy Chuồng Bò, chúng nhốt tới 118 người trong một khám. Tuyên bố của Blăng về số phận tù tư pháp (thường phạm) không có gì thay đổi làm cho tù tư pháp hoang mang. Trước sự dọa dẫm, cưỡng phạt của Blăng, 46 tù tư pháp ở các Sở Lò Vôi, Sở Rẫy An Hải đã nhảy ra đi làm. Địch bóp nghẹt đời sống, kiểm soát gắt gao để chặn đứng mọi thông tin. Ngày 4-8-1954, Giám đốc Côn Đảo chỉ thị cho Sở Kho Bạc lập danh sách tù nhân, phân loại tù chính trị và tù tư pháp.

Giữa lúc tù tư pháp hoang mang cao độ thì Thường vụ Đảo ủy ra chỉ thị khẳng định quyết tâm đến cùng đế hủy bỏ hết án tiết, buộc địch công nhận tất cả là tù chiến tranh, nêu thêm khẩu hiệu trao trả toàn bộ tù nhân Côn Đảo về cho Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.

Để biểu lộ thái độ chiến thắng, hiên ngang, Tổng đại diện tù binh và Tông đại diện tù án đã gửi nhiều thư cảnh cáo Giám đốc về những hình phạt vô lý đối với tù nhân. Đồng thời gửi đơn, thư cho Ủy ban quân sự hỗn hợp, Ủy hội quốc tế và Bộ Tổng tư lệnh Pháp tố cáo những hành vi dã man của bọn cầm quyền Côn Đảo, đòi thực hiện đúng quy chế tù binh, tù chiến tranh và đòi trao trả hết cho Chính phủ Hồ Chí Minh.

Ngày 14-8-1954, tại Ủy ban liên hợp 2 bên, đại diện Bộ Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam và đại diện Bộ Tổng tư lệnh quân đội Liên hiệp Pháp ở Đông Dương đã ký kết quy ước phóng thích và trao trả tù binh, tù chiến tranh, nội dung chính gồm các điểm:

– Hai bên thông bảo cho nhau ngay số lượng tổng quát tù binh và thường dân mà mình giam giữ.

– Người bị bắt ở chiến trường nào thì trao trả ở chiến trường đó.

– Cam kết trao cho nhau danh sách toàn bộ tù binh và thường dân mỗi bên giam giữ, chậm nhất là vào ngày 20-8-1954.

– Sau khi trao đổi danh sách, sẽ bắt đầu tiến hành trao trả.

Ngay hóm đó, Pháp thông báo cho ta biết, họ giam giữ 7.350 tù binh; 18.350 tù chính trị và tình nghi, 37.900 dân thường1. Con số này còn quá ít so với thực tế, trong đó lại chưa nói tới số tù chính trị mà chúng giam ở Côn Đảo và Chí Hòa.

Cũng trong ngày 14-8-1954, Pháp cho máy bay thả dù xuống Côn Đảo 12 hòm lương thực, thực phẩm và một hòm văn kiện liên quan đến việc lập danh sách trao trả. Cho đến lúc ấy, Giám đốc Côn Đảo mới được biết nội dung của danh từ “câu lưu dân sự” ghi trong mục b điều 21 của Hiệp định là “tất cả những người đã tham gia bất cứ dưới hình thức nào vào cuộc đấu tranh võ trang và chính trị giữa đôi bên, và vì thế mà đã bị bên này hay bên kia bắt và giam giữ trong khi chiến tranh”. Giám đốc Côn Đảo phàn nàn rằng văn bản Hội nghị không bàn gì đến tù tư pháp mà đại diện tù nhân lại căn cứ vào Hội nghị đề đòi trao trả toàn bộ tù nhân (kể cả tù tư pháp).

Ngày 16-8-1954, Giám đốc trả lại sinh hoạt bình thường cho tù nhân sau 2 tuần phạt vô lý. Giám đốc cũng cho Sở Kho Bạc lập danh sách những người từng bị câu lưu tại các trại P.G và PIM; những người bị xử tại các tòa án Pháp, những người mà án tiết có dính dáng ít nhiều đến hoạt động của kháng chiến. Trong khi lập danh sách, Giám đốc Côn Đảo vẫn không hiểu ra thế nào là “câu lưu chính trị” (Internés politiques). Theo hắn, chỉ có phạm nhân, tội phạm chính trị (Condamnés politiques). Sau nhiều lần điện về Sài Gòn hỏi, danh sách mới được hòan thành.

Thời ăn cướp và kết án bậy của thực dân Pháp ở Việt Nam đã vĩnh viễn qua đi. Nhân dân Việt Nam đã nói lời cuối cùng với chủ nghĩa thực dân Pháp bằng chiến thắng Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu bốn biến, bằng Hiệp định Giơnevơ chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam. Giờ đây, những người tù Côn Đảo cũng nói lời cuối cùng với chúng bằng cuộc đấu tranh quy mô nhất trên toàn đảo để hủy bỏ những bản án phi pháp của chúng.

Ngày 20-8-1954, thực dân Pháp đưa 512 tù binh quê ở Bắc Bộ và Trung Bộ xuống tàu về trao trả tại đất liền. Đảo ủy và Ủy ban kháng chiến hành chánh Côn Đảo đã giao cho đoàn tù binh 3 nhiệm vụ:

1. Trình bày về cuộc tranh đấu của tù nhân Côn Đảo với chính phủ, với Ủy hội trung lập quốc tế để yêu cầu Bộ Tổng tư lệnh Pháp gấp rút giải quyết.

2. Tố cáo những hành vi dã man của thống trị Côn Đảo để chặn đứng sự tàn bạo của chúng.

3. Vận động ủng hộ cuộc đấu tranh tại Côn Đảo.

Trước khi rời đảo, đại diện đoàn tù đã đến viếng mộ Lê Hồng Phong, Võ Thị Sáu, Nguyễn An Ninh và các liệt sĩ ở Nghĩa trang Hàng Dương. Đoàn tù binh mang theo toàn bộ danh sách của tù án và những người còn ở lại, chép thành nhiều bản làm cơ sở đòi chúng phải trao trả hết. Hai tài liệu Bản án xâm lược Pháp và Tám năm tội ác của Pháp tại Côn Đảo cũng được in bột thành nhiều bản đem về tố cáo2. Bí thư Đảo ủy Nguyễn Văn Thi về chuyến ấy đã đem theo khóa mật mã để thông tin ra đảo qua buổi phát thanh đọc chậm của Đài tiếng nói Việt Nam và Đài phát thanh Nam Bộ.

512 tù binh trên đường về được phiên chế thành một tiểu đoàn chiến đấu. Tổ tham mưu quân sự vạch ngay một phương án cướp tàu bằng chiến thuật tay không bắt địch của đội quân ngầm, trong trường hợp địch có âm mưu thủ tiêu tù nhân. Tàu đến địa phận miền Trung vào ngày 22-8-1954. Một tù nhân cao hứng treo ngay là cờ đỏ sao vàng phía lái tàu. Tàu tuần viễn Vulcain số 656 của Pháp phát hiện ra cờ Việt Minh treo trên tầu Taurus nên chúng đã dọa bắn đại bác nếu không dừng lại. Tên thuyền trưởng tàu Taurus đã dừng tàu, hạ cờ, giam tất cả tù nhân xuống hầm tàu rồi mới tiếp tục hải trình.

Ngay dưới hầm tàu, theo sự chỉ đạo của anh Hồng Vũ, Thường vụ Đảo ủy, anh Vũ Hạnh đã thảo ngay một lá đơn gửi Ủy ban quốc tế và Ủy ban liên hợp Pháp – Việt tố cáo sự đày ải đoàn tù trên đường về; yêu cầu Ủy ban can thiệp thả ngay 81 tù binh còn bị giam ở Banh III và 1.659 tù án ở Banh II. Đơn viết bằng tiếng Việt, kèm một bản sao bằng tiếng Pháp và một bản sao tiếng Anh. Lá đơn cùng với nhiều tài liệu tố cáo khác đã được trao cho đại diện Ủy ban liên hợp quân sự 2 bên và Ủy ban quốc tế ngay khu làm thủ tục trao trả tại Sầm Sơn (Thanh Hóa). Đoàn tù đã cởi hết quần áo nhà tù Pháp, ném trả cho chúng rồi giương cao biểu ngữ, ảnh Bác, cờ đỏ sao vàng bước lên đất liền trong sự chào đón của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân tỉnh Thanh Hóa.

Ở Côn Đảo, sau khi tù binh xuống tàu, trong sở tù án có người lo ngại, cho rằng lực lượng đấu tranh yếu đi, nhà tù dễ dàng đàn áp. Tù tư pháp thì tuyệt vọng vì không có khả năng được giải quyết. Ngày 21-8-1954, tàu Edinond Papin chở hàng tiếp tế đến Côn Đảo. Giám đốc đưa 70 lính và gần hai chục gácdang vào Banh II bắt tù nhân đi dọn tàu. Tù nhân Sở Lưới kiên quyết không đi. Địch bắn 18 quả lựu đạn cay, phun nước rồi xông vào đánh đập dã man. Đánh nát hết roi mây, chúng khiêng cả thùng rượu chát (đựng nước uống) quật lên đầu khối tù đang câu tay chịu đòn. Tất cả 68 tù nhân Sở Lưới đều bị thương tích, 30 người bị thương nặng, 3 người bị nguy kịch đến tính mạng.

Cũng trong cuộc đàn áp ấy, Khám 4 cũng bị bắn 4 trái lựu đạn cay. Khu biệt lập bị đàn áp nặng vì có Tổng đại diện tù án ở đó, địch xem là Khu đầu não chỉ đạo đấu tranh. Các khu ở Chỉ Tồn như hòang Sâm, Bắc Sơn, Lê Duẩn cũng bị đàn áp nặng để cưỡng bức nhân công. Anh Trịnh Văn Hà đã thảo 2 văn bản số 08-NC gửi ủy hội quốc tế và số 09-NC gửi Ủy ban liên hợp Pháp – Việt tố cáo cuộc đàn áp dã man trên 7. Viên quan ba bác sĩ ở đảo cũng xác nhận là có 40 người bị thương nặng phải đưa ra nhà thương sau trận đàn áp.

Ngay trong đợt đấu tranh, Ủy ban kháng chiến hành chánh Côn Đảo đã cấp giấy khen cho hàng chục người có thành tích xuất sắc. Giấy khen cấp cho ông Đặng Văn Chuyết, khu Bắc Sơn, do Chủ tịch UBKCHC Côn Đảo Trần Quôc Minh ký ngày 10-8-1954 đã xác nhận thành tích “tận tụy công tác, xung phong gương mẫu, tinh thần vững vàng trong suốt cuộc đấu tranh”. Nhiều anh em làm công tác liên lạc văn thư, trật tự, xã hội và Ban chấp hành tù nhân ở các khu cũng được khen thưởng. Anh Trần Đình Việt tự Cao Văn Tám, toán trưởng liên lạc được Đảo ủy chuẩn y kết nạp Đảng ngày 19-8-1954 và tuyên bố chính thức ngay hôm đó.

Ngày 23-8-1954, lấy cớ hết củi, bọn chúa ngục không cho ăn cơm mà phát cho mỗi tù nhân 50gr gạo sông. Tình hình rất căng, tù nhân kiên quyết đình công đến cùng để đòi giải quyết yêu sách. Riêng việc làm củi và dọn tàu, Đảo ủy đồng ý là nếu nhà tù muốn làm thì phải điều đình với Tổng đại diện của tù nhân. Blăng không thừa nhận và không điều đình với tổng đại diện. Tình hình này kéo dài sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của toàn bộ Côn Đảo, kể cả gác ngục, binh lính, công chức và tù nhân. Từ ngày 28-8-1954 chúng bỏ đói toàn đảo.

Tình hình khá căng thẳng cho cả hai phía, sau cùng, hai bên đều đi đến nhượng bộ, thỏa thuận chỉ định 5 tù nhân làm thư ký ở Văn phòng Giám thị trương và kho Bạc làm trung gian cho cuộc thương lượng giữa Giám đốc và tù nhân. Kết quả là phía tù nhân đồng ý cho Sở Củi đi làm củi. Người khỏe đi làm, người yếu nghỉ, làm tùy sức. Khu hoàng Sâm (dọn tàu) cũng được phép đi làm tàu khi có tàu ra, dọn hết hàng lại tiếp tục đình công. Phía nhà tù cam kết cho ăn uống và ra sân chơi trở lại; cho người ra ngoài trại lấy rau cải thiện, cho mua hàng, trả lại thư từ, bưu kiện mà chúng còn giữ.

Ngày 30-8-1954, thực dân Pháp đưa 81 tù binh quê ở Nam Bộ về Sài Gòn trao trả. Còn tù án thì chúng chưa công nhận là tù chiến tranh, chưa nói đến việc trao trả. Đảo ủy đã quyết định đưa cuộc đấu tranh đến mức cao hơn là tuyệt thực. Trong một cuộc đấu tranh dài ngày, sức khỏe và tinh thần anh em đã mệt mỏi nên Đảo ủy chỉ đạo các khám thay phiên nhau, lần lượt tuyệt thực để đủ sức kéo dài thời gian tranh đấu.

Ngày 4-9-1954, ta đã hòan tất việc trao trả tù binh cho Pháp ở Việt Trì và Nam Bộ, rút ngắn thời gian trao trả ở Nam Bộ trước hạn định 7 ngày. Ta đã trao cho Pháp tổng số hơn 12.000 tù binh và tù chiến tranh, trong đó có 9.247 lính Âu Phi, một tướng, 55 tá, 530 cấp úy. Trong khi đó, Pháp chưa trả hết tù chính trị của ta ở Chí Hòa, chưa trả người tù chính trị nào ở Côn Đảo.

Cuộc đấu tranh tổng đình công kết hợp với tuyệt thực ở Côn Đảo kéo dài cho đến chiều ngày 9-9-1954. Khi ấy chúa Đảo Blăng mới tuyên bố là quan thầy hắn đã chấp nhận yêu sách của tù nhân, công nhận là tù chiến tranh và trao trả cho Chính phủ Hồ Chí Minh.

Đại diện Bộ Tổng tư lệnh các lực lượng Liên hiệp Pháp đã trao cho đại diện Bộ Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam bản danh sách 1.092 tù chính trị ở Côn Đảo sắp trao trả. Cuộc tống đình công kết hợp với bãi thực ở Côn Đảo đã kết thúc thắng lợi, sau 40 ngày tranh đấu.

Đây là cuộc đấu tranh dài ngày nhất, quy mô nhất và tổ chức chặt chẽ nhất của toàn thể tù nhân Côn Đảo. Để có được phút giây thắng lợi này, những người tù kháng chiến phải trải qua 9 năm trường kỳ tranh đấu, bất chấp các hình phạt tàn khốc, kể cả cái chết. Trong không khí thắng lợi, tù kháng chiến đã trồng cột cờ trong sân Banh II, buổi sáng ra tập hợp, chào cờ và mở phòng thông tin triển lãm của tù nhân Côn Đảo. Lá cờ đỏ sao vàng của Tổ quốc ngạo nghễ tung bay trên hòn đảo chưa hết ngục tù và chưa hết quân xâm lược.

Quan tư Blăng lại cho lính đến áp đảo, bắt hạ cờ và bắt anh Trịnh Văn Hà, Tổng đại diện. Tù nhân Banh II kiên quyết không hạ cờ và đấu tranh bằng hình thức ngồi ngoài sân, không chịu vào khám cho đến khi chúng trả Tổng đại diện mới kết thúc.

Tổng kết cuộc tranh đấu, từ ngày 12 đến 25-9- 1954, Đảo ủy đã chuẩn y đơn xin vào Đảng của 16 người có thành tích xuất sắc trong cuộc đấu tranh 40 ngày.

Những người tù chính trị có tên trong danh sách trao trả được tập trung về Banh I. Trước đó, họ được phát quần áo nhà binh, được cử đại biểu đi viếng mộ liệt sĩ tại Hàng Dương. Chiều 26-9-1954, hơn 1.000 tù chính trị đã xuống tàu về đất liền, 11 tù nhân người Khơme và 4 tù chính trị người Lào được đưa về Sài Gòn, còn lại tất cả được đưa về Sầm Sơn, Thanh Hóa. Ban lãnh đạo đoàn tù án trên đường về trao trả có các anh Đỗ hòang Trừ (quyền Bí thư Đảo ủy), Trần Công Hiệu, Lê Khắc Thành, Trần Khắc Du (Nguyễn Ngọc Cảnh). Anh Trịnh Văn Hà – Tổng đại diện, Lê Văn Thống – Phó tổng đại diện, Nguyễn Trí Tuệ – Trưởng ban an ninh trật tự, hòang Phúc – Phó ban.

Biết tin tàu Sơn Tây chở tù nhân về Sầm Sơn trao trả, sau đó sẽ ra Hải Phòng chở dân di cư vào Nam, Ban chấp hành Liên đoàn tù nhân đã tổ chức viết hàng trăm truyền đơn tố cáo chế độ thực dân Pháp, kêu gọi đồng bào đừng để chúng lừa bịp, hãy tin tưởng ở Chính phủ Hồ Chí Minh, tích cực đấu tranh cho thống nhất nước nhà. Truyền đơn được để vào chỗ dễ thấy ở ghế và sàn tàu. Một số thủy thủ tàu Sơn Tây cũng nhận giữ và chuyển giao cho đồng bào di cư.

Sáng ngày 1-10-1954, tàu vào cửa sông Chu (Thanh Hóa), Ban chỉ huy của tù nhân đã chuẩn bị sẵn cờ, ảnh Bác Hồ, khẩu hiệu cách mạng. Theo kế hoạch, khi sà lan cặp bờ, hạ bửng thì đoàn tù sẽ lột hết quần áo tù, trương cờ, khẩu hiệu và ảnh Bác Hồ đi lên.

Tàu vào gần bờ thì đã thấy hai bên bờ sông, từng đoàn thuyền, rừng người, rừng cờ và biểu ngữ của nhân dân Thanh Hóa đón chờ những người con ưu tú của Tổ quốc. Trong phút xúc động bột phát, một số tù nhân đã tung cờ, khẩu hiệu và ảnh Bác Hồ ngay trên sà lan khi chưa cập bến. Như một phản ứng dây chuyền, chỉ vài phút sau trên boong tàu cũng rợp cờ, khẩu hiệu và ảnh Bác Hồ.

Tên trung úy thuyền trưởng yêu cầu Tổng đại diện tù nhân phải cho hạ tất cả cờ đỏ sao vàng xuống, nếu không hắn sẽ cho tàu quay ra biển, không trao trả nữa. Tình thế rất căng thẳng. Anh em đã trót trương cờ lên sớm, bây giờ hạ xuống sẽ mất uy thế. Nhiều người đề nghị, đây là đất của ta, có đồng bào của ta, phải đấu tranh, buộc chúng phải quay tàu vào trao trả. Thấy tù nhân không hạ cờ, tên tuyền trưởng cho tàu dừng lại và từ từ lùi ra. Các anh Đỗ hòang Trừ, Trần Công Hiệu, Trần Khắc Du hội ý chớp nhoáng rồi ra lệnh cho anh em, ai biết bơi thì nhảy xuống biển, bơi vào bờ. Thế là nhiều tù nhân đã nhảy ào ào xuống biển, tiếng hò la phản đối náo động cả boong tàu. Thuyền trưởng phải cho tàu dừng lại và quay mũi vào bờ. Trong khi đó, thuyền của nhân dân Thanh Hóa đã lao ra vớt những người dưới biển. Có người đã ngất ngay trên thuyền. Các anh Tính, Phụng, Cá đã chìm hẳn trên dòng sông Chu.

Tàu vừa cặp bờ, đoàn tù chính trị cởi bỏ tất cả quần áo mà chúng mới phát, quăng xuống biển trước khi bước chân lên đất mẹ. Mỗi người chỉ còn chiếc quần cộc, ở trần, hô vang các khẩu hiệu:

– Đả đảo thực dân Pháp!

– Đả đảo Nhà tù Côn Đảo dã man!

Các anh trong Đảo ủy đem theo cả con dấu và danh sách các đảng viên, có nhận xét chi tiết trong thời kỳ sinh hoạt tại đảo và giấy giới thiệu để giới thiệu từng người về giao cho Trung ương và các Đảng bộ địa phương. Song những cuộc chỉnh đốn tổ chức và cải cách ruộng đất sau đó đã làm gián đoạn ý đồ của Đảo ủy. Một số đánh giá sai lầm của Trung ương đối với những người tù kháng chiến đã làm cho Đảo ủy Côn Đảo không thực hiện được đầy đủ trách nhiệm đối với cán bộ, đảng viên của mình.

Theo Báo cáo của Ban lãnh đạo đoàn tù trao trả đợt tháng 10-1954, ở Côn Đảo, bọn Pháp còn giữ lại 639 tù nhân, trong đó có 169 là tù chính trị. Các anh Vũ Ngọc toàn, Nguyễn Văn Mẹo, Lưu Hùng, Nguyễn Khang, Trương Qua, Trần Bảo Trung… được chỉ định vào cấp ủy mới để lãnh đạo số tù nhân còn lại. Đảo ủy đã nộp cho Trung ương danh sách 169 tù chính trị còn bị giam giữ tại Côn Đảo.

Trên cơ sở đó, phái đoàn ta đã đưa vấn đề tù chính trị ra Ủy ban quốc tế để đấu tranh. Ta yêu cầu úy ban quốc tế cử một tổ ra điều tra tại Côn Đảo với sự có mặt của sĩ quan liên lạc hai bên. Anh Đỗ hòang Trừ, nguyên là quyền Bí thư Đảo ủy, được trao trả chuyến 1- 10-1954, được cử làm sĩ quan liên lạc với quân hàm đại úy ra điều tra tại Côn Đảo.

Từ ngày 8 đến ngày 10-11-1954, Tổ điều tra quốc tế đã làm việc tại Côn Đảo, trực tiếp gặp gỡ điều tra hơn 600 tù nhân còn lại và tìm được 130 tù chính trị đang bị giam giữ trái phép.

Sau đợt đấu tranh ấy, thực dân Pháp đã phải trao trả cho ta hai chuyến nữa tại sân bay Gia Lâm vào tháng 12-1954 (75 người); và tháng 3-1955 là (55 người). Ở Côn Đảo vẫn còn lại vài chục tù kháng chiến, do Nguyễn Văn Mẹo là Bí thư chi ủy kiêm Chủ tịch Liên đoàn tù nhân kháng chiến. Các anh đã củng cố tổ chức và tích cực giúp đỡ anh chị em tù chính trị thời Mỹ – ngụy, trong buổi đầu chống tố cộng, chống ly khai. Nhiều năm sau các anh mới mãn hạn, dược trả tự do về vùng tạm chiếm ở Sài Gòn, dưới chế độ Mỹ – Diệm.

 

Côn Đảo trong bước chuyển mình của cuộc kháng chiến (1947 – 1949)

Thời kỳ từ đầu năm 1947 đến năm 1949 là giai đoạn cách mạng Việt Nam trải qua nhiều thử thách cam go khốc liệt nhất tại Nhà tù Côn Đảo.

Những thủ đoạn mới của thực dân Pháp

Tháng giêng 1947, Chính phủ Ramađiê (Ramadier) lên cầm quyền ở Pháp. Ramađiê dựa vào viện trợ Mỹ, củng cố thế lực của giai cấp tư sản phản động, gạt tất cả các bộ trường cộng sản ra khỏi chính phủ và tiếp tục cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. chính phủ Pháp cử Bôlae làm Cao ủy Đông Dương với sứ mệnh nhanh chóng kết thúc cuộc chiến tranh bằng cách dùng lực lượng quân sự đè bẹp lực lượng võ trang và Chính phủ kháng chiến, dọn đường đưa Bảo Đại về nước, lập chính phủ bù nhìn.

Tháng 5-1947, Cao ủy Bôlae cử đại úy lê dương Bruylê (Jacques Brulé) làm Giám đốc Côn Đảo. Bruylê có bằng cử nhân Văn chương, có tham vọng để lại dấu ấn của một thời làm quan cai trị ở Côn Đảo. Hắn tỏ ra quan tâm đến đời sống tù nhân, hạn chế đánh đập, tăng cường bóc lột khổ sai bằng các biện pháp vật chất và tinh thần tinh vi và xảo quyệt.

Nhân dịp Bộ trưởng Bộ hành động xã hội và bình dân của Chính phủ bù nhìn Nam Kỳ công cán tại Côn Đảo Bruylê đã đề nghị tăng tiền công lao động khổ sai cho tù nhân. Theo Nghị định ngày 16-11-1916 của Thống đốc Nam Kỳ thì mỗi ngày công lao động của tù nhân được trả 3 xu, trong đó một xu nộp lại cho ngân sách Nam Kỳ, một xu vào quỹ lưu ký. Người tù chỉ được lãnh một xu dưới dạng tích kê mua hàng ở hợp tác xã tiêu thụ của nhà tù. Người tù khỏe mạnh, đi làm suốt tháng lãnh được 26 xu.

Thời giá lúc ấy, theo lời Bruylê thú nhận trong báo cáo thì tù nhân có lao động cả năm cũng chỉ đủ tiền mua 2 bao thuốc lá. Trước đó, Giám đốc Oóchếchcơ đã đề nghị trả từ 9 đến 12 xu cho một ngày công. Nay Bruylê đề nghị tăng lên ít nhất là 10 lần (tức 30 xu cho một ngày công). Ngày 8-11-1947, Thủ tướng bù nhìn Nguyễn Văn Xuân đã ký quyết định tăng đồng loạt tiền công của tù nhân lên 40 xu một ngày, không kể tính chất nặng nhẹ của công việc.

Bruylê cho phép các tù nhân có tiền ký gửi ở phòng lục sự kế toán được rút dần dể mua hàng, mỗi tháng không quá 30 đồng. Đối với kíp tù sản xuất đồ mỹ nghệ bằng đồi mồi, sò ốc, sừng và gỗ quý, y cho phép chủ sở trích lại một phần sản phẩm làm phần thưởng để kích thích lao động. Y cho mở cửa thơ viện và phòng đọc báo, cử 2 tù nhân là Lương Văn Thắng và họa sĩ Nam Hải trông coi. Thư viện và phòng đọc dành cho viên chức nhà tù nhưng cho phép tù nhân đến đọc trong ngày nghỉ. Bruylê còn tổ chức chiếu phim, cho phép một số tù nhân “có hạnh kiểm tốt” được đi xem và sửa sang lại sân khấu, cho phép tù nhân diễn kịch; xin thêm dụng cụ thể thao để giải trí, sứ dụng nhiều tù nhân có văn hoá làm thơ ký, bồi bếp và làm việc ở các sở ngoài. Một số tù nhân được giao nhiệm vụ tập hợp tư liệu ở thư viện và lưu trữ của nhà tù để giúp Bruylê viết một cuốn sách về Côn Đảo. Chỉ trong vòng mấy tháng, cuốn Poul Condore (Côn Đảo) đã hoàn thành và đưa in tại nhà in T.F.E.O ở Sài Gòn (12-1947).

Vừa sử dụng các biện pháp mị dân để bóc lột khổ sai, Bruylê đồng thời siết lại kỷ luật của nhà tù. Ngay trong tháng đầu nhận chức, y đã phạt xiềng và xà lim 30 tù nhân. Xiềng và xà lim là 2 hình phạt phổ biến trong hơn 2 năm đương nhiệm của y. Giờ đi làm khổ sai, hàng chục tù nhân bị phạt kéo lê xiềng trên những con đường đá lổm nhổm. Tiếng kim khí va vào đá nghe đến rợn người. Bụi cuốn lên từng đám.

Được tận mắt nhìn cảnh tượng rùng rợn ấy trong chuyến đi công cán tại Côn Đảo, Bộ trưởng Bộ hành động xã hội và bình dân đã đề nghị bãi bỏ hình phạt xiềng tay chân, “bởi vì nó là một hình phạt chà đạp lên nhân phẩm và vô hiệu”.

Bruylê còn có ý đồ khôi phục lại Hầm xay lúa, một nhục hình khổ sai đày ải tù nhân tàn bạo như thời trung cổ. Y giao cho chủ sở Bản Chế thiết kế và tìm thợ đóng cối. Kíp thợ mộc đã từ chối, viện cớ là không biết đóng. Họ chẳng dại gì tiếp tay để bọn chúa ngục lập lại hình phạt rùng rợn có một không hai ở nhà tù này.

Nhà tù Côn Đảo lúc ấy đang khủng hoảng trầm trọng về nhân lực. Tính đến ngày 31-5-1947, nhà tù chỉ còn 606 tù nhân (phúc trình tháng 5-1947 số 1033-P). 44 tù nhân thuộc đối tượng nguy hiểm không được ra khỏi trại; 26 tù nhân được chọn vào Sở Rờsẹc (truy tìm ít trốn); 29 tù nhân làm thư ký các loại; 95 người làm bồi bếp và lao động khổ sai. Mỗi sở tù khổ sai trước năm 1945 có hằng trăm lao động, nay chỉ còn đủ nhân lực tập trung vào một vài sở thiết yếu, mỗi sở vài chục người.

Theo phúc trình tháng 5-1947:

– Sở rẫy An Hải: 71 tù nhân

– Sở Bản Chế: 51 tù nhân Sở Củi: 47 tù nhân Sở Vệ Sinh: 27 tù nhân ‘

– Sở Chăn Nuôi: 25 tù nhân

– Sở Lưới: 21 tù nhân

Các sở khác chỉ có dăm ba người tù. Tình trạng thiếu nhân lực đã ảnh hưởng đến mọi hoạt động cửa nhà tù. 44 tù nhân mãn án được đưa về Sài Gòn ngày 10 5-1947 và tiếp theo một danh sách gần 50 tù nhân chuẩn bị rời đảo đã được Bruylê coi là “khủng hoảng trầm trọng”, “ảnh hưởng xấu đến tình trạng nhà tù”.. Y khẩn khoản yêu cầu: “Phải tăng con số phạm nhân lên rất nhiều… Khẩn thiết gửi ngay cho chúng tôi một đợt phạm nhân khá đông, như vậy vừa có thể giảm bớt được kinh phí chung, vừa nâng cao được năng suất lao động”.

Bọn thực dân đầu sỏ không để Bruylê phải nhắc nhiều. Côn Đảo là một nhà tù lý tưởng ở xứ Đông Dương, dành riêng cho những người tù nguy hiểm. ở đó, người tù hoàn toàn bị cô lập khỏi xã hội và phong trào cách mạng. Lao động khổ sai và kỷ luật của nhà tù sẽ đày ải họ chết dần chết mòn về thể xác và tinh thần. Chuyến tù thứ 3 đày ải gần 400 tù nhân từ Khám Lớn Sài Gòn ra Côn Đảo ngày 6-8-1947 đã nâng số tù Côn Đảo lên 960 người.

Bruylê cho sửa sang lại nhà giam Sở Muối để thay thế cho nhà giam Sở rẫy An Hải sắp sụp đổ; tăng thêm nhân công cho sở Bản Chế để đóng một chiếc xà lan gỗ trọng tải 40 tấn phục vụ việc chuyển hàng từ tàu lớn vào bờ. Một kíp tù nhân khác được huy động khai thác các loại ốc xà cừ để thu lợi theo hợp đồng bán 5.000 kg sản phẩm cho chi nhánh xuất nhập khẩu Sài Gòn.

Cuối năm 1947, tù nhân ở Khám Lớn Sài Gòn liên tục đấu tranh đòi xoá án tử hình, đòi cải thiện đời sống vật chất, tinh thần cho tù nhân và tổ chức 2 cuộc vượt ngục bằng cách dỡ mái ngói và chui qua đường cống ngầm.

Ngày 2-12-1947, Cao ủy Pháp đã quyết định chuyển đến Côn Đảo một số lượng lớn tù nhân để giảm bớt mật độ và tình trạng căng thẳng ở Khám Lớn. Cuối tháng 12-1947, Ba tê (Battet) Tư lệnh hải quân Pháp ở Viễn Đông đã ra lệnh cho tất cả các tàu chiến hoạt động trên vùng biển tham gia vận chuyển, tiếp tế theo yêu cầu của Côn Đảo.

Những ngày đầu năm 1948, mấy chuyến tàu kế tiếp nhau chở hằng trăm tù nhân từ Khám Lớn ra Côn Đảo, trong đó có 63 tù nhân án tử hình và 69 tội phạm Nhật Bản. Tù binh Nhật bị giam riêng ở khu vực Banh III, có lúc lên tới 89 tên (31-8-1948). Họ cũng phải làm khổ sai và được đối xử đỡ khắc nghiệt hơn tù án. Viên bác sĩ quân y Nhật Sa tô được điều ra phục vụ tại Nhà Thương. Có tên được về Nhà Đèn trông coi máy móc để hạn chế sự phá hoại của tù kháng chiến.

Một sĩ quan Nhật được tin cậy giao cho trông coi chiếc canô của nhà tù. Chúa đảo Bruylê trong các báo cáo gửi Thống đốc Nam kỳ đã khen ngợi tù binh Nhật về tinh thần tuân thủ kỷ luật và chịu khó nhọc trong lao động khổ sai. Vài tù binh Nhật đã bị tai nạn chết thê thảm. Trại Nhật lặng lẽ cắt cử người đi chôn. Họ âm thầm chịu đựng và nén chặt nỗi đau trong lòng. Họ yên phận và dễ bảo dưới sự sai khiến của gacdang Pháp mà mới 2 năm trước đó, còn xun xoe với lính Nhật trên hòn đảo này.

Có thêm lao động khổ sai, nhà tù lại gặp thêm nhiều khó khăn mới. Bộ máy cai trị còn quá yếu. Theo báo cáo của nhà tù, tháng 3 năm 1948 để cai quản hơn 1.000 tù nhân, chỉ có 34 giám thị Pháp, 22 gác ngục người Việt và một phân đội lính thuộc địa 18 tên (cả sĩ quan). Ngoài ra còn có một trạm liên lạc của Hạm đội Viễn Đông do tên quan tư hải quân Mêniê (Meynier) trực tiếp chỉ huy. Theo báo cáo của Giám đốc thì cần phải có thêm ít nhất là 7 giám thị Việt Nam và 19 giám thị Pháp “có kiến thức nghiệp vụ và ý thức trách nhiệm cao” mới khắc phục được tình trạng thiếu nhân viên quản tù một cách trầm trọng như hiện tại.

Tỷ lệ tù chính trị tăng lên là một nỗi lo ngại lớn cho bọn chúa đảo. Báo cáo tháng 3 cho biết tỷ lệ tù chính trị đã tăng từ 30% (5-1947) lên 62% (3-1948). Bruylê đã nhận xét tương đối chính xác rằng, “tù chính trị” khó cai quản gấp mấy lần tù thường phạm về mọi phương diện” (Công văn 93-C ngày 20-3-1948).

Tổ chức và hoạt động của tù nhân kháng chiến.

Bước vào năm 1947, tế chức và hoạt động của tù nhân Côn Đảo chưa có sự lãnh đạo tập trung và thống nhất. Tù nhân ở các sở tự tập hợp nhau lại theo nhu cầu bảo vệ quyền sống và nhân phẩm con người. Mỗi sở tù có những cách tổ chức và hoạt động khác nhau. Xây dựng tổ chức, chống sự ngược đãi của nhà tù; cải thiện đời sống, đẩy mạnh các phong trào bình dân học vụ, văn nghệ và vượt ngục về kháng chiến là những đặc trưng cơ bản của thời kỳ này.

Nhà Thương là sở tù sớm có tổ chức. Ngoài số tù nhân nằm điều trị, chủ sở Pêtrônali (Pétronah) còn quản lý kíp tù nhân phục vụ tại Nhà Thương (y tá, hộ lý bồi bếp tại sở); kíp vệ sinh quét đường và kíp đổ thùng cầu (tinette). Nhiều chiến sĩ Cô Tô sau khi giải toả vụ Côngplô được điều về Nhà Thương, trong đó có cả 2 cán bộ cán bộ của đại đội Ký Con là Lê Phú (Đại đội trưởng) và Nhâm Ngọc Bình (Trung đội trưởng) vừa được giảm án tử hình. Anh Phạm Giang Doanh được cử làm đại diện. Anh Trần Nhật Quang phụ trách phong trào bình dân học vụ. Anh Lê Phú chỉ đạo bếp ăn, nuôi dưỡng những người tù bệnh. Anh Nguyễn Văn Khang (Khang Đen) làm y tá, lo tìm kiếm thuốc men, trị bệnh. Anh Nguyễn Kim Diễn, y tá phiên dịch ngoại trú làm nhiệm vụ tranh thủ viên bác sĩ người Pháp.

Cuối năm 1947, anh Nguyễn Kim Diễn với vai trò thư ký đã soạn thào điều lệ của tồ chức tù nhân khu (dưỡng đường (Nhà Thương), phỏng theo những nguyên tắc của Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hoà và thừa kế mô hình tổ chức của tù nhân Khám Lớn. Ban chấp hành tù nhân khu đường đường gồm 5 người đã được bầu ra theo điều lệ. Anh Nguyễn Văn Hiền (Hiền già người Bình Định) là chủ tịch.

Bản Chế là một sở quan trọng của nhà tù có nhiệm vụ quản lý các phương tiện giao thông, cung cấp nước ngọt, chế tạo công cụ lao động, sửa chữa máy móc các loại sản xuất đồ dùng mỹ nghệ. Tù nhân Bản Chế phần lớn xuất thân là những người thợ tham gia cách mạng. Anh Nguyễn Văn Năm (Năm Mến) và anh Hai Nhị vốn là những người tù chính trị trước 1945, từng trải và thận trọng, biết cách đoàn kết, tập hợp anh em đã cùng với Nguyễn Văn Giỏi, Trần Văn Minh tổ chức nhóm nghiên cứu Mácxít ở Bản Chế.

Ban chấp hành tù nhân khu Bản Chế gồm 5 người, được hình thành từ giữa năm 1947, đã tổ chức việc tăng gia cải thiện đời sống và xoá nạn mù chữ cho anh em. Các anh Nguyễn Hoà Nhã, Vũ Đắc Bằng, Nguyễn Văn Huệ, Triệu Lý, Lý Tiến Vinh… đã góp phần tích cực vào các hoạt động văn nghệ, báo chí và bình dân học vụ trong thời gian sau đó. Tù nhân kháng chiến ở các Sở Tồn, Sở Củi – chuồng bò, Sở rẫy An Hải, các kíp cắt cỏ, thợ hồ, Nhà bếp, sở tẩy, lò vôi cũng cử ra đại diện trật tự rồi lần lượt bầu ra Ban chấp hành để bảo vệ quyền lợi của tù nhân.

Chuyến lưu đày thứ 3 và các chuyến tiếp theo trong năm 1948, đã tăng cường cả số lượng và chất lượng của tù nhân kháng chiến. Đây là lớp tù nhân đã trưởng thành trong thời kỳ hoạt động và đấu tranh hết sức sôi nổi ở Khám Lớn – Sài Gòn sau “cách mạng khám đường”. Nhiều người đã tham gia Ban chấp hành tù nhân ở các khám, hoặc một số cương vị của Liên đoàn tù nhân Khám Lớn, từng dự các lớp huấn luyện chính trị, quân sự ngắn hạn do các anh Tưởng Dân Bảo, Phan Trọng Bình, Vũ Huy Xứng và Huỳnh Tấn Phát tổ chức. Họ còn được bồi dưỡng những kinh nghiệm hoạt động bình dân học vụ, làm báo, văn nghệ từ thực tiễn trong tù.

Phong trào bình dân học vụ phát triển sôi nổi ở Côn Đảo trong những năm 1947-1948. Người học phần nhiều là tù thường phạm hoặc những người xuất thân là nông dân, dân nghèo thành thị, phu phen thất học mới tham gia kháng chiến. Người dạy có một số đã tham gia phong trào truyền bá quốc ngữ ở Khám Lớn. Các anh Trần Nhật Quang ở Nhà Thương, Phạm Gia, Nguyễn Ngọc Lân, Trần Đống ở Khám 1, anh Nguyễn Văn Mẹo ở Khám 3, Trần Văn Sứ, Nguyễn Văn Giỏi ở An Hải, Nguyễn Sáng, Lưu Văn Lê, Võ Văn Nguy ở Chỉ Tồn… đã có nhiều đóng góp cho phong trào xoá nạn mù chữ của tù nhân Côn Đảo. Anh Trần Nhật Quang từng bị tra tấn đến mù một con mắt vẫn cặm cụi thức khuya dưới ngọn đèn tù mù chép những bài tập đọc, chính tả cho anh em.

Ban chấp hành tù nhân ở mỗi khám đều có một ủy viên phụ trách bình dân học vụ để tổ chức và chỉ đạo phong trào. Các hoạt động văn nghệ, báo chí cũng góp phần tích cực cổ động tù nhân học tập. Tù nhân Sở Củi đã tổ chức đêm văn nghệ với ca cảnh Xoá nạn mù chữ, cổ động cho phong trào bằng những lời ca sinh động. Đêm văn nghệ còn có màn đồng ca Đời sống mới và nhạc cảnh Bảo vệ thóc vàng, phản ánh sinh động của tù nhân hướng về các cuộc vận động lớn ở trong nước lúc đó.

Sau đêm diễn, Giám đốc Bruylê đã ra lệnh bắt anh Phan Văn Đại cùng tốp diễn viên tra tấn 2 ngày ròng rã về tội “gây mất trật tự”. Toàn thể tù nhân khu Sở Củi đã phản đối hành động khủng bố đó. Theo phương pháp i-tờ do hội truyền bá quốc ngữ đề xướng, công tác xoá nạn mù chữ ở Côn Đảo đã đem lại kết quả rất khả quan. Trong khoảng thời gian 3 tháng, người chưa biết chữ đã có thể đọc được, viết được.

Tùy điều kiện khổ sai ở mỗi sở mà anh em bố trí thời gian học cho thích hợp. An Hải, Sở Củi, Lò Vôi thường học buổi trưa. Nhà bếp, Chỉ Tồn, Bản Chế học buổi tối. Tù tử hình phải còng chân thì bố trí thầy ngồi giữa, trò ngồi 2 bên. Khi muốn đổi thầy hay đổi trò thì phải chờ đến phiên đổi còng. Anh Gác, công nhân cao su ở miền Đông Nam Bộ nhờ được anh Lê Phú hướng dẫn tận tình trong mấy tháng ở Khám tử hình đã đọc thông, viết thạo và làm được cả 4 phép tính thông thường nữa.

Tên gác ngục Sa den có lần thấy tù nhân khám tử hình học văn hóa, y đã giễu cợt:

– Các anh sắp chết rồi còn học làm gì?

(Người tử tù) Nguyễn Đình Chính đã trả lời:

– Nếu không chết thì sẽ thành người có ích. Còn nếu chết thì chúng tôi cũng phải chết một cách có văn hoá.

Khám tử hình được thiết lập ngay từ cuối tháng 5-1946, lúc đầu ở Khám 3 Banh I, sau dời về Hầm xay lúa. Trước sự đấu tranh của dư luận tiến bộ ở Đông Dương cũng như ở Pháp, bọn thực dân không dám bắn tất cả những tử tù mà chúng đã xử. Sau một thời gian nhất định, chúng giảm án một số người và y án một số khác. 56 tử tù ra chuyến đầu tiên ngày 27-5-1946 bị xử bắn tại Côn Đảo 10 người, trong đó có anh Bùi Hữu Khiêm, một người chỉ huy ở mặt trận Phú Nhuận. 3 tử tù đã chết vì bệnh tật, vài người bị đưa về hành quyết tại Sài Gòn, số còn lại được giảm án nhiều đợt, đến đầu năm 1947 thì hết. Hầm xay lúa lại “dành chỗ đón” những tử tù ra chuyến tiếp theo từ giữa năm 1947.

Tháng 1947, khám tử hình có 17 tử tù. Hai anh Nguyễn Ngọc Sớm và Nguyễn Đình Thâu đã tổ chức cho anh em kỷ niệm sinh nhật Bác. Những tử tù bị còng chân, có độc bộ quần áo cộc trên người đã bàn đi tính lại với nhau, làm sao lập được bàn thờ Tổ quốc, có cờ, có ảnh Bác và có khẩu hiệu trang nghiêm. Hoàn cảnh bị giam giữ nghiêm ngặt chính là nơi thử thách tình cảm, nghị lực và trí sáng tạo của con người. Cờ được làm bằng giấy, từ hàng trăm mảnh giấy quấn thuốc lá nhỏ xíu dán lại. Nền cờ được quét bằng thuốc đỏ rồi kẻ ngôi sao 5 cánh bằng thuốc ký ninh vàng.

Để có được lá cờ họ phải nhịn hút thuốc từ nhiều ngày để dành giấy, phải có người khai bệnh xin thuốc và nhịn suất cháo loãng để làm hồ dán. Họ đã dùng móng tay bấm lá bàng thành chữ, dùng gân lá ghép thành khẩu hiệu “Chủ tịch Hồ Chí Minh muôn năm” treo lên tường. Khó nhất là việc vẽ hình Bác Hồ. Anh Nguyễn Văn Bẩy, một thanh niên khéo tay đã phác họa chân dung Bác theo trí tưởng tượng của 17 tử tù. Đó là hình một ông cụ dáng cao gầy, chòm râu dài, tóc bạc, trán cao, tai to, mắt sáng, gương mặt toát lên vẻ thông minh và nhân hậu. Bức họa không thật giống, nhưng lại thật đúng là hình ảnh Bác trong tim, trong óc những người tù thời ấy.

Rạng sáng 19-5-1947, 17 tù tử hình đứng dậy làm lễ kỷ niệm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Anh Nguyễn Đình Thâu, nguyên là chi đội trưởng chi đội 13, Tư lệnh mật trận tiền tuyến Gò Vấp – Gia Định (miền Đông Nam Bộ) đã nói về tiểu sử sự nghiệp của Bác, sau đó mọi người quây quần kể góp những mẩu chuyện mà họ biết về đời hoạt động và đạo đức tác phong của Người. Mỗi đợt sinh hoạt chính trị như vậy, những người tử tù động viên nhau giữ vừng khí tiết cách mạng, xứng đáng là người lính Cụ Hồ, ngay cả khi đối diện trước cái chết.

Anh Nguyễn Hoài Cơ, đội viên Ban công tác I, người tử tù số G – 130 đã nêu tấm gương đầy dũng khí. Lần ấy đổi còng, biết mình sẽ ra đi, anh đã thức suốt đêm cùng bạn tử tù hát vang những bài ca cách mạng: Lên Đàng, Cùng nhau đi hùng binh, Tiến quân ca, Chiến sĩ Việt Nam… Mờ sáng hôm sau, khi gác ngục mở cứa, bọn lính Lê dương ập vào, anh siết chặt tay bạn tù, chào vĩnh biệt và ung dung ra trường bắn.

Linh mục Nguyễn Văn Mầu kể lại, anh Cơ đã từ chối rửa tội. Anh chỉ vào tốp lính Lê dương và tên chánh án có mặt tại trường bắn mà nói với linh mục: Ông phải rửa tội cho những người này, chính họ mới có tội. Anh từ chối bịt mắt, nhìn thẳng vào họng súng kẻ thù và dõng dạc hô:

– Hồ Chủ tịch muôn năm!

– Việt Nam độc lập muôn năm!

Giọng anh lúc ấy vẫn điềm đạm như ngày thường. Linh mục Nguyễn Văn Mầu thường trầm trồ nói với tù nhân: “Người như ông Cơ anh hùng lắm”.

Noi gương Nguyễn Hoài Cơ, những người tử tù đã biến cuộc hành hình của địch thành một cuộc biểu dương khí phách của người cách mạng. Anh Nguyễn Đình Chính, nguyên Trưởng ban Công tác I Sài Gòn – Gia Định bị địch gọi về xứ bắn tại Sài Gòn. Trước khi về anh còn gửi lại bài thơ tràn đầy lạc quan tặng các bạn tù:

“Độc lập đến rồi các bạn ơi.

Chung thân Xử tử chỉ trò chơi.

Giặc Tây sắp đến giờ tận số.

Ta hát quân ca trở lại đời”.

Khí phách anh hùng trước cái chết như Nguyễn Đình Chính, Nguyễn Hoài Cơ đã trở thành bất tử. Tù nhân kháng chiến Côn Đảo noi gương các anh về lòng tin tất thắng vào cách mạng và dũng khí trước kẻ thù, như lời tuyên bố đanh thép của Nguyễn Đình Chính trước toà án thực dân: “Tôi tin đến lúc chết, nước Việt Nam sẽ độc lập”. Tù Côn Đảo gọi Khám tử hình là Khám bất tử, gọi người tử tù là tù bất tử.

Cuối năm 1947, tù nhân các khám đều chuẩn bị chương trình văn nghệ đón xuân Mậu Tý (1948). Ban kịch Sở rẫy An Hải dựng một vở kịch thơ của Phan Văn Đã; Ban kịch Nhà bếp trình diễn vở Công chúa ngủ trong rừng và kịch Hội sợ vợ do anh Lương Văn Thắng biên soạn và dàn dựng. Kỹ sư Lưu Văn Lê đạo diễn dựng vở Thầy thuốc bất đắc dĩ cho Ban kịch tù áo trắng. Anh Hoàng Hữu Kình làm ở Văn phòng Giám thị trướng đã khôn khéo đề nghị với Giám đốc tổ chức một “đêm kịch mừng xuân mới”. Bruylê đồng ý với điều kiện là chính y duyệt nội dung các vở diễn.

Giáp Tết âm lịch, một phái đoàn của chính phủ bù nhìn Nam Kỳ do Trần Văn Ân, Bộ trưởng Thông tin cầm đầu ra thăm Côn Đảo. Cùng đi có Bộ trưởng Tư pháp Nguyễn Khắc Vệ và thứ trưởng nội vụ Lê Tấn Nầm. Ân đến thăm Bản Chế, Sở Củi, Trại tù binh Nhật, và các khám tù, gặp gỡ một số tù nhân thuộc các đảng phái quốc gia, sau đó đề nghị ân xá cho vài người (trong đó có cụ Võ Oanh). Nhân dịp ấy, Giám đốc Bruylê đã mời Ân xem đêm kịch tù nhân, mưu toan leo cao trong nấc thang danh vọng.

Đêm diễn có vở kịch Trương giả học làm sang của Môlie, nhạc cảnh Công chúa ngú trong rừng, kịch vui Hội sợ vợ do Lương Văn Thắng biên soạn và song ca Tết độc lập do Nguyễn Sáng và anh Quang trình bày. Nhạc cảnh Công chúa ngủ trong rừng dựa theo truyện cổ dân gian Pháp biểu diễn thành công nhất, được khán giả trầm trồ khen ngợi.

Anh Quang trong vai công chúa đã trình diễn điệu valse đẹp mắt theo nền nhạc bài Tiếng rừng do Nguyễn Ngọc Lân, Nguyễn Sáng và Lưu Phê đồng ca. Trang phục diễn viên lộng lẫy, ánh sáng hài hoà làm cho bọn Pháp hết sức thán phục. Vợ quan tư hải quân Mêniê nói rằng bà ta có cảm giác như đang ngồi trong một rạp hát của thành phố Paris bên Pháp. Tên gác dang Loadô tò mô đòi xem bằng được bộ y phục đúng mốt và đắt tiền của diễn viên. Hắn hết sức ngạc nhiên khi tận mắt thấy váy áo lộng lẫy bằng bao tải nhuộm, râu tóc bằng tơ gai tước ra, phấn son là thuốc đỏ, thuốc tím và ký anh vàng.

Những tù nhân từng quằn quại dưới ngọn roi của hắn lại có vốn tri thức văn hoá và thẩm mỹ nghệ thuật không ngờ. Những tù nhân làm văn nghệ không phải để mua vui cho chúng. Họ biết lợi dụng máu hám danh của Bruylê để giảm bớt phần nào sự đày ải của nhà tù, người tù kháng chiến thông qua hình thức nghệ thuật để cảm hoá kẻ thù và lúc cần thì trực diện tố cáo chúng.

Khi Trần Văn Ân lên giọng ca ngợi thành công cải thiện chế độ lao tù của Giám đốc đương nhiệm và ve vuốt tù nhân rằng: “Ở tù như thế này chẳng khác nào đi nghỉ mát”, thì một tù nhân đã bảo hắn: “Vậy thì xin mời Ông ra đấy mà nghỉ mát. Chúng tôi không ưa kiểu nghỉ mát này”.

Mùa xuân năm ấy không chỉ đánh dấu bằng những thành công trong các hoạt động văn nghệ mà tù nhân Côn Đảo còn “được mùa” vượt ngục. Hàng chục cuộc vượt ngục đã liên tiếp nổ ra từ đầu mùa gió chướng năm ấy.

Vượt ngục về kháng chiến

Tháng 10-1946, ba tù nhân vượt ngục trên một.chiến thuyền nhỏ. Hai lính Pháp dùng chiếc thuyền 6 tay chèo đuổi theo. Lúc ấy nhà tù chưa có xuồng máy. Sau vài giờ chúng đuổi kịp tốp vượt ngục, nhưng rồi tất cả không trở về. Một con sóng lớn đã nhận chìm hai chiếc thuyền vào dòng xoáy của hải lưu. Tình cờ, một chiếc tàu chở dầu của Hoa Kỳ đã vớt được mấy người lính và tù nhân đang hấp hối. Họ được đưa cả về Thái Lan.

Cũng trong mùa gió chướng năm ấy, ông già Huệ, người tù án lưu quê ở miền Tây Nam Bộ đã trốn lên núi đóng bè thân cây chuối rừng, một mình vượt biển, lênh đênh trên biển 16 ngày liền, nắng thiêu cháy da. Hết lương thực, cạn nước ngọt, ông phải rình bắt những con cá vô tình nhảy lên bè mà ăn sống cầm hơi. Khi sức tàn, lực kiệt thì sóng đẩy dạt vào bán đảo Mã Lai. Những người du kích Mailaixia đã cứu ông. Ông ở lại chiến đấu trong đội quân du kích chống thực dân Anh và bị bắt trong một trận càn. Thực dân Anh trao trả ông cho chính quyền Pháp và ông bị đày trở lại Côn Đảo ít lâu sau ông lại vượt ngục rồi mất tích.

Anh Mười Bù cùng một tốp thường phạm cũng đã thả bè vượt ngục vào cuối mùa gió chướng. Năm ấy gió chướng hết sớm, bè các anh bị trôi ra phía biển Đông. Hết nước ngọt và lương thực, cùng đường, người hấp hối sắp chết phải trở thành nguồn sống cho những người còn lại. Một chiếc tàu tuần dương hạm của nước Anh trên đường tới Xanhgapo đã vớt được những người sống sót và trao trả cho Pháp. Bị đày trở lại Côn Đảo, Mười Bù lại tiếp tục chuẩn bị vượt ngục.

Ngày 31-1-1947, tàu chở hàng Goeland của Pháp đã vớt được 2 tù nhân vượt ngục trên một chiếc bè. Báo cáo số 774/P ngày 7-2-1948 của Giám đốc nhà tù cho biết, hai tù nhân này trên một hòn đảo nhỏ, ngắt lá rừng và bắt cá biển để ăn, chờ đến khi gió chướng thổi mạnh mới thả bè về đất.

Mỗi mùa gió chướng, bọn gác ngục lại tăng cường các biện pháp chống vượt ngục. Ngoài bộ máy gác ngục Pháp, Việt giám sát chặt chẽ hàng ngày, nhà tù còn tổ chức một mạng lưới tù gian làm tay sai, ở lẫn lộn trong từng kíp tù để rình mò, phát hiện. ở mỗi bãi biển, Sở Rờsẹc bố trí hai nhân viên truy tầm tù trốn. Bọn này đã thông thạo từng loại gỗ nổi có thể đóng bè, từng vạt mây có thể làm thuyền, những địa điểm mà tù nhân trường kết bè, hạ thủy, phát hiện các âm mưu vượt ngục của tù nhân. Nhiều tù nhân bị phạt xiềng, phạt xà lim và đưa về những sở khổ sai nặng nhọc.

Vượt ngục là cuộc chạy đua giữa tính mạng với tử thần. Nhưng không có hiểm nguy nào ngăn được ý chí vượt ngục của người tù, cho dù chết chìm dưới biển khơi hay vỡ thuyền, bị bắt lại. Xà lim, xiềng xích, kỷ luật của nhà tù chỉ nung nấu thêm khát vọng vượt ngục của họ mà thôi.

Chuyến vượt ngục thành công sớm nhất của tù chính trị thời kỳ này là chuyến của hai anh Diễn và Phong. Hai anh đã cập bến an toàn vào vùng biển Bạc Liêu và ở lại công tác ngay tại Tỉnh đội Bạc Liêu. Chuyến thứ hai do anh Nguyễn Ngọc Luật tổ chức vượt biển bằng thuyền ván. Nguyễn Ngọc Luật bị đày ra Côn Đảo ngày 5-8-1947, lọt được vào Sở Rờsẹc, canh bãi ông Đụng. Anh đã liên hệ với Tuấn, Dưỡng ở Sở Củi, móc nối được Khánh và Thương là dân đánh cá vùng Gò Quào (Rạch Giá). Các anh đã tháo được mấy tấm cánh cửa gỗ ở một căn nhà bỏ không phía Sở Tiêu và đóng thuyền ở bãi ông Đụng, ngay tại khu vực Nguyễn Ngọc Luật kiểm soát. Chập tối 15-11-1947 thuyền hạ thủy. Chiếc thuyền gỗ nhỏ đưa 5 chiến sĩ cách mạng về vùng biển Rạch Giá sau 3 ngày đêm vượt biển.

Chỉ ít ngày sau, Ba Rùm đã cùng 4 tù nhân sở Bản Chế cướp ghe vượt ngục ngay tại Cầu Tàu. Ba Rùm là cựu tù thường phạm ở đảo. Tháng 8-1945, anh được tù chính trì giải phóng đưa về đất liền rồi tham gia kháng chiến, bị bắt lại đầu năm 1946. Ra Côn Đảo lần thứ 2, anh đã tìm cách xin về Bản Chế và nuôi chí vượt đảo. Mùa gió chướng năm ấy, một chiếc ghe câu ở Cấp (Vũng Tàu) trôi dạt vào Côn Đảo. Ba ngơ dân được gửi theo tàu của hải quân Pháp về trả cho chính quyền dịa phương, còn chiếc ghe tam bản chúng giao cho Sở Lưới. Rạng sáng một ngày cuối tháng 11-1947, Ba Rùm cùng Bảy Vượng, Tư Sỏi, Năm Bé và Võ Văn Xê đã cướp ghe về Cà Mau. Ba Rùm được phân công trở lại lực lượng võ trang Bình Xuyên, tham gia nhiều trận đánh trên sông Lòng Tàu.

Nhóm tù nhân ở Sở rẫy An Hải và Sở Củi rủ nhau lên núi kết bè vượt đảo vào chiều 11-1-1948. Do tổ chức lộ liễu nên bị phát hiện ngay từ khi vừa trốn trại. Nguyễn Sáng kịp lẻn về trước giờ điểm danh, còn mười mấy người đã trốn lên núi bị truy lùng gắt gao. Ông già Trị chém trọng thương một tên Rờsẹc truy đuổi. Bọn lính bủa vây, súng trường, tiểu liên nổ ra khắp rừng An Hải suốt đêm ấy. Chúng vây ráp cả tuần lễ, bắt lại từng người. Có người đói khát đã chết khô trong hang Núi Chúa, hàng tháng sau mới tìm thấy xác.

Ngay trong đợt vây ráp và truy lùng ráo riết ấy, một chuyến vượt ngục duy nhất của tù áo trắng đã thành công vào ngày 14-1-1948. Trong lúc nhà tù tập trung lực lượng truy lùng trên núi và canh gác chặt chẽ bãi biển phía tây thì tốp tù áo trắng táo bạo xuống thuyền ở phía đông, ngay tại bãi Nhà Thờ, trước mũi dinh chúa đảo và nhân viên nhà tù. Nhờ sự chuẩn bị nỗ lực của anh em áo trắng, còn phải kể đến tài nghệ của “vua vượt ngục” Mười Bù cùng sự tham mưu và chỉ đạo của anh Năm Nghĩa ở Sở Củi nên chuyến vượt ngục này đã thành công.

Năm Nghĩa (còn gọi Nghĩa Sứt, Nghĩa Cơm Cháy) là một chiến sĩ tham gia từ Nam Kỳ khởi nghĩa (1940). Anh ủng hộ và giúp đỡ chí tình cho nhiều cuộc vượt ngục của tù nhân. Chính Năm Nghĩa đã giới thiệu Mười Bù cùng 2 tù thường phạm có sức khỏe và kinh nghiệm vượt ngục cho nhóm tù áo trắng. Năm Nghĩa là người giữ mối liên hệ thường xuyên giữa Mười Bù và Phạm Gia, thơ ký kho bạc trong suốt quá trình chuẩn bị làm thuyền và góp nhiều ý kiến chỉ đạo.

Chuyến ấy đi bằng thuyền khung mây bọc vải. Trúc Quỳnh (bồi bếp) và Võ Xuân Phong (hợp tác xã tiêu thụ) lo mua sơn, vải. Hoàng Hữu Kình, Lê Huy Báu (Văn phòng Giám thị trưởng) thì nghiên cứu con nước thủy triều và quy luật bố phòng của địch. Phạm Gia (kho bạc) làm nhiệm vụ tiếp tế và liên hệ giữa các nhóm.

Toàn bộ công việc làm thuyền do Mười Bù và 2 thường phạm đảm nhiệm. Tay lái thiện nghệ của “vua vượt ngục” Mười Bù đã đưa thuyền cập đúng mũi Cà Mau sau 2 ngày, 3 đêm trên biển. Mười Bù giác ngộ, trở thành một chiến sĩ can đảm trong lực lượng võ trang và hy sinh anh dũng trong cuộc kháng chiến ở miền Tây Nam Bộ.

Chưa đầy một tháng sau, nhóm kéo cây do Lê Quỳnh Vân, Nguyễn Năng Tảo và Lâm Quang Xuân lại tổ chức vượt đảo bằng thuyền khung mây bọc vải. Chuyến này có 4 tù thường phạm làm Rờsẹc cạnh bãi Cỏ Ống và 12 tù chính trị ở Sở kéo cây. Ngày 2-2-1948, các anh xuống thuyền ở bãi Cỏ Ống và cặp vào vùng biển thuộc huyện Giá Rai (Bạc Liêu) an toàn.

Ngày 2 tết Mậu Tý (11-2-1948), 7 tù chính trị ở Sở Bản Chế do Nguyễn Việt Hùng tổ chức đã cướp chiếc canô duy nhất ở Côn Đảo vượt ngục về Cà Mau. Nguyễn Việt Hùng còn có bí danh là Hùng Vịt tức Nguyễn Văn Thịnh, tức Mười Thái, nguyên là cán bộ công vận hoạt động ở Sài Gòn từ 1944. Bị đày ra Côn Đảo từ ngày 5-8-1947, Việt Hùng cùng một số tù trẻ có chí hướng vượt ngục tìm đến Năm Nghĩa ở Sở Củi học hỏi kinh nghiệm. Khi được làm thợ máy trên chiếc canh Poulo – Condore, anh đã chuẩn bị một kế hoạch cướp canô vượt đảo.

Mồng 2 tết năm ấy, có 2 tàu tuần tiễu của Pháp ghé Côn Đảo. Sau khi chở đám sĩ quan, thủy thủ Pháp lên bờ xem kịch và dự tiệc, Nguyễn Việt Hùng được lệnh chuẩn bị xăng nhớt và trực đêm để đón chúng về tàu. Thừa dịp ấy anh đã đưa cả nhóm là Nguyễn Công Lý, Cù Trung Sơn, Nguyễn Văn Thước, cùng các anh Đệ, Miên, Niên xuống canô về đất liền. Chiều 4 tết, các anh cặp vào đúng mũi Cà Mau.

Noi gương tù vượt ngục ở Sở Bản Chế, tù nhân Sở Lưới trên đường sang Hòn Tài bắt vích đã bắt trói chủ sở Machiơ (Mathieu) cùng một lính Pháp và một tù binh Nhật Bản (lái canh) vứt lên bãi cát rồi trở về đất liền. Chuyến ấy do các anh Chánh, An, Đạt và một tù nhân nữa thực hiện.

Giám đốc Brơylê tỏ ra hoang mang trước các cuộc vượt ngục liên tiếp xảy ra. Trong phúc trình số 93-C ngày 20-3-1948, y đã viện dẫn nhiều lý do khiến cho nhà tù bất lực trước các cuộc vượt ngục. Đó là tỷ lệ tù chính trị tăng lên một cách đáng kể, sự thiếu nhân viên quản tù, sự khủng hoảng tinh thần của những gác ngục Pháp, Việt và sự phá sản của Sở Truy tìm tù trốn.

Bruylê cũng không giấu giếm rằng chính tình hình chính trị và quân sự (ở Đông Dương) đã ảnh hưởng sâu sắc đến nhà tù khiến cho các nhân viên coi ngục người Việt Nam hoài nghi, co mình lại, những giám thị Pháp chán nản và kém hiệu lực. Đáng ngại hơn cả là chính những nhân viên truy tìm tù trơn lại đồng lõa với tù vượt ngục. Y đã đề nghị thay thế Sở truy tầm bằng những trạm kiểm soát của lính Partisans người Lào hoặc Miên.

Bruylê chưa kịp thay đổi gì thì cuộc vượt đảo thứ 2 của tù nhân Sở Lưới lại bồi tiếp cho hắn một đòn choáng váng. Cuộc vượt đảo này được tổ chức chặt chẽ, do anh Nguyễn Văn Chì, đội viên Ban công tác 4 thành phố Sài Gòn – Gia Định chỉ huy, có sự nội ứng của 2 giám thị Việt Nam là Nguyễn Văn Đang và Nguyễn Văn Ngọc.

Tối 7-5-1948, 25 tù nhân Sở Lưới ra khơi đánh cá. Hai gác dang Bare (Barère) và Nuộc (Muogues) cùng thầy chú Nguyễn Văn Đang với 3 tù nhân ngồi trên chiếc ghe máy mượn của Sở Hải Đăng và Hoa Tiêu, kéo theo một chiếc ghe chèo chở 27 tù nhân và thầy chú Nguyễn Văn Ngọc.

Khoảng 21 giờ đêm, ghe ra đến gần Hòn Tre, giảm tốc độ chuẩn bị bủa lưới thì trên chiếc ghe đầu, giám thị Nguyễn Văn Đang một tù nhân kháng chiến đoạt cây tiểu liên của Nuộc. Nuộc chống cự và nhảy xuống biển hòng thoát thân nhưng hắn bị bắn chết. Trên ghe thứ 2, tù nhân cũng nhanh chóng làm chủ tình thế rồi chuyển qua ghe máy, mở hết tốc lực, nhằm hướng đất liền.

Ngày hôm sau (8-5-1948), không thấy thuyền Sở Lưới về, Bruylê mới vội vã tổ chức truy tìm, nhưng vô vọng. Tàu tuần tiễu và thủy phi cơ của hải quân Pháp được huy động vào cuộc truy tìm trên biển. Bọn Rờsẹc cùng binh lính, giám thị sục sạo khắp các bến bãi cũng không tìm được dấu vết gì. Giám đốc Côn Đảo điện báo cho Sở cảnh sát cộng hòa và Bộ nội vụ ngụy quyền, Công điện số 30/ATS ghi: “Trân trọng báo cáo, 25 phạm nhân vượt ngục nhân buổi đánh cá đêm 7 rạng 8-5-1948 trên một thuyền gắn máy. Hai giám thị người Âu và một người gác ngục Việt mất tích cùng với vũ khí. Dự đoán họ bị bắt làm con tin – stop. Đã truy tìm lập tức bằng thủy phi cơ, tàu tuần tiễu, ở biển và trên bộ, không có kết quả – stop. Ký tên: Bruylê.

Công điện gửi đi vào lúc đoàn tù vượt ngục đã ung dung trên đất liến. Xuồng của họ cặp vào cửa biển Mỹ Thanh (nay thuộc tỉnh Hậu Giang). Họ bàn giao vũ khí, chiến lợi phẩm và tù binh cho chính quyền cách mạng. Hai thầy chú Nguyễn Văn Đang và Nguyễn Văn Ngọc đã được tù nhân giác ngộ, tích cực nội ứng cho cuộc vượt ngục tình nguyện tham gia vào đội ngũ kháng chiến. Ngọc sau hy sinh ở chiến trường miền Đông Nam Bộ.

Gác dang Bare bị chính quyền cách mạng kết án tử hình vì có dự phần vào những tội ác đối với tù nhân trong cuộc đại khủng bố 1940-1945, thảm sát trên 3.000 người ở Côn Đảo; song những người tù vượt ngục đã xin tha chết cho y. Bare thật sự cảm động nói với vị đại diện của chính quyền kháng chiến: “Lẽ ra các ông ấy phải vứt tôi xuống biển mới xứng với tội lỗi của tôi. Tôi rất biết ơn Cụ Hồ đã giáo dục các chiến sĩ Việt Nam dũng cảm và nhân đạo”.

Cuộc vượt ngục của tù nhân Sở Lưới lần này gây một tổn thất nặng nề cho nhà tù: Bruylê đã phải gọi là “tấn bi kịch thảm khốc”. Chiếc canô được bổ sung giao cho Sở Lưới đã bị một nhóm tù chính trị vượt ngục đoạt mất cách đó không lâu. Lần này, chiếc xuồng máy vừa mượn của Sở Hải Đăng và Hoa Tiêu để áp tải ghe đánh cá lại mất trắng. Hàng loạt cuộc vượt ngục nối. tiếp nhau trong mùa gió chướng này đã sớm kết thúc sự nghiệp coi tù của Bruylê.

Đêm kịch Bôlae

Bruylê đang chờ đợi cơ hội để gỡ gạc lại uy tín sau một thời cai trị đày ắp các phúc trình về tù nhân vượt ngục. Giữa lúc ấy, Cao ủy Bôlae (Emile Bolaert) ghé Côn Đảo trước khi mãn nhiệm ở Đông Dương, trở về Pháp giữa mùa thu 1948. Bruylê quyết định ra mắt quan thày bằng vở kịch Thầy thuốc bất đắc dĩ (Le Médecin malgrélui) của Môlie mà y đã có dịp thưởng thức tài nghệ của các diễn viên tù. Bruylê vừa vuốt ve, vừa răn đe ban kịch: “Tôi biết các anh diễn kịch hay lắm. Phải diễn cho tốt và nghiêm chỉnh. Cuộc sống của các anh sau này tốt hay xấu đều phụ thuộc vào đêm diễn ấy”.

Ban kịch đã thảo luận khá gay gắt về việc diễn hay không diễn. Có người không muốn diễn vì sợ để lại tiếng xấu là tù kháng chiến diễn kịch mua vui cho Cao úy Pháp, làm nổi danh cho Giám đốc Bruylê, để cho hắn điều khiển theo ý muốn… Có người lại đề nghị là cứ nhận lời, nhưng không diễn mà nhân dịp giáp mặt Bôlae sẽ lên án chế độ thực dân xâm lược và chế độ nhà tù man rợ ở Côn Đảo. Sau cùng, họ thỏa thuận với nhau: diễn kịch và tố cáo.

Biết đêm kịch này lành ít dữ nhiều, họ đã rút vở kịch lại còn một màn, chọn ít diễn viên để bớt phần tổn thất. Chỉ có 5 người, thuộc Ban kịch tù áo trắng: Lương Văn Thắng, Nguyễn Ngọc Lân (thư ký kho bạc), Trần Duy Giang (Văn phòng Giám đốc), Lưu Phè (Sở rẫy Giám đốc), Quang (hợp tác xã tiêu thụ).

Bôlae không đặt chân lên Côn Đảo. Đoàn diễn viên tự hoá trang sau bữa cơm chiều rồi theo tốp lính áp tải xuống canh, ra chiếc tuần dương hạm đậu ngoài vịnh Côn Lôn. Dự “Đêm kịch Bôlae” có cả Đô đốc Tư lệnh Hải quân Pháp ở Viễn Đông Ba tê (Battet) theo tàu hộ tống và phóng viên hãng thông tấn A.F.P, phóng viên các tờ Sài Gòn Nhật Báo, Viễn Đông Nhật Báo cùng hàng trăm sĩ quan, thủy thủ vây quanh boong tàu. Vợ chồng Bruylê cùng vợ chồng quan tư hải quân Mêniê tại Côn Đảo cũng có mặt.

Mở đầu đêm kịch, thay cho lời chào mừng, anh Lương Văn Thắng, một nạn nhân trong vụ Côngplô đã đọc bài diễn văn tố cáo chế độ nhà tù tàn bạo và nghiệt ngã. Anh khẳng định rằng tù kháng chiến là những người yêu nước, cầm súng bảo vệ nền độc lập của dân tộc mình, giống như những người Pháp Đờ Gôn chống phát xít Đức, không bao giờ là quân phiến loạn như bản án mà thực dân Pháp đã gán cho họ. Vậy mà bọn chúa ngục Côn Đảo đã đối xử với họ dã man hơn cả phát xít Đức đối với tù binh Pháp.

Bôlae không chịu nổi, đứng dậy cắt ngang lời Lương Văn Thắng:

– Các ông là những kẻ phiến loạn, đốt nhà, cướp của, giết người. Các ông không có quyền so sánh với những người Pháp yêu nước.

Tình thế mở ra một cuộc đối thoại lý thú giữa người tù kháng chiến và Cao ủy Pháp. Lương Văn Thắng hỏi Bôlae:

– Vậy xin hỏi ngài, hành động của một thiếu niên yêu nước Việt Nam ném lựu đạn vào quân Pháp có khác gì hành động tương tự của một thiếu niên Pháp đối với bọn phát xít Đức?

Bôlae trơ trẽn trả lời:

– Khác chứ. Bọn phát xít Đức xâm lược nước Pháp, còn nước Pháp có trách nhiệm bảo hộ và khai hoá cho đất nước này!

Lương Văn Thắng bồi tiếp:

– Báo chí Đức dưới thời Pêtanh cũng nói với nhân dân Pháp như thế!

Bôlae cứng lưỡi, đỏ mặt tía tai, đập bàn đứng dậy. Giám đốc Bruylê hầm hầm ra lệnh cho bọn lính áp tải còng tay đoàn diễn viên đưa vào cấm cố ngay đêm diễn khi họ còn nguyên cả y phục, phấn son. Hôm sau, hắn tuyên bố phạt mỗi người một tháng xà lim, còng chân, ăn cơm nhạt, uống nước lã.

“Đêm kịch Bôlae” nổi tiếng không phải ở thành công của sân khấu nghệ thuật mà là dũng khí của người chiến sĩ, người nghệ sĩ trước kẻ thù. Bằng lòng can trường và lý lẽ đanh thép, người tù kháng chiến đã lột trần bộ mặt xâm lược và tàn bạo của thực dân Pháp. Họ đã buộc tên đầu sỏ thực dân ở Đông Dương phải đối thoại và đến khi đuối lý, hắn đã lộ rõ nhân cách thấp hèn vốn có của bọn thực dân xâm lược.

Tốp diễn viên kịch tù, trừ Lương Văn Thắng đã đứng tuổi, còn lại đều rất trẻ. Họ mới giác ngộ từ những ngày đầu kháng chiến. Cách mạng tháng Tám 1945 đã nâng họ từ người nô lệ thành công dân một nước độc lập và chính họ đã đề cao chính nghĩa cho dân tộc Việt Nam. Họ đã biến sân khấu nhà tù thành diễn đàn đanh thép tố cáo cuộn chiến tranh xâm lược và tàn bạo của thực dân Pháp ở Việt Nam trước mặt tên đầu sỏ thực dân cùng hàng trăm sĩ quan, thủy binh, nhà báo, bất chấp mọi hình phạt.

“Đêm kịch Bolae” đã đặt dấu chấm hết cho đoạn đời cai trị đầy tham vọng và thủ đoạn của Bruylê. Cay đắng trước thất bại, Bruylê cấm tù nhân diễn kịch và hát ca, đóng cửa thư viện, bỏ chiếu phim. Y cấm tất cả tù áo xanh không được ra khỏi trại trong ngày nghỉ, ngày lễ. Y bắt tù áo trắng buổi tối phải vào ngủ trong Banh I, không còn bộ phận nào được ngủ ngoài banh như trước nữa. Y thiết lập chế độ cấm cố tại Khám 6, Banh I để giam riêng những người tù cứng đầu, bất trị.

Ông già Trị vừa mãn hạn xà lim sau cuộc vượt ngục thất bại là một trong những người đầu tiên vào cấm cố. Đoàn kịch sau một tháng bị phạt xà lim cũng về Khám 6. Sự có mặt của những người tù vượt ngục và tốp “diễn viên kịch” đầu tiên trong Khám 6 cấm cố chính là bằng chứng thất bại thảm hại trong thời cai trị của Bruylê. Đó cũng là hình ảnh của sự bất lực và trả thù; là bộ mặt thật của chính sách biến nhà tù thành “Trung tâm giáo dục lại nhân phẩm” như trong phúc trình buổi đầu nhận chức của Bruylê..

Thống nhất lực lượng, tiến tới cao trào

Từ giữa năm 1948 tù nhân Côn Đảo đã hình thành tổ chức ở hầu hết các khám tù, sở tù. Trong dịp kỷ niệm Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh (2-9) năm ấy, các anh Nguyễn Đình Thâu (Khám tử hình), Trịnh Xuân Hà (Sở rẫy Giám đốc), Lương Văn Thắng (thư ký kho bạc), Tư Ba Đào (Khám 3), Trương Anh Tuấn (Chỉ Tồn), Lê Ngọc Hương (Nhà bếp), Phan Văn Đại, Nguyễn Văn Mẹo (Khám 2), Lê Trung Khá (Khám 6), Nguyễn Văn Năm (Bản Chế)… đã liên hệ với nhau bàn việc bầu ra bàn lãnh đạo thống nhất của tù nhân Côn Đảo.

Anh Nguyễn Đình Thâu được giao nhiệm vụ dự thảo Điều lệ của Liên đoàn tù nhân để trình Hội nghị lâm thời của đại biểu tù nhân Côn Đảo. Trên cơ sở đó, tiến hành bầu Ban chấp hành liên đoàn tù nhân, cơ quan lãnh đạo cao nhất của tù nhân Côn Đảo. Vài tháng sau, bản Điều lệ dự thảo được các anh Trịnh Xuân Hà, Lê Ngọc Hương, Trương Anh Tuấn thảo luận cùng một vài tù nhân kháng chiến gần gũi.

Hoàn cảnh nhà tù khi ấy không còn cho phép triệu tập Hội nghị lâm thời. Các anh Nguyễn Đình Thâu, Trịnh Xuân Hà, Lê Trung Khá, Tư Ba Đào, Phan Văn Đại đã nhân danh Hội nghị lâm thời tù nhân Côn Đảo để chỉ đạo việc bầu Ban chấp hành tù nhân ở các khu.

Ở Khám 5 (Chỉ Tồn) Ban chấp hành tù nhân đã tự quản được trong công việc khổ sai. Anh em tù thuyết phục được Tám Nhỏ, người cầm đầu nhóm tù án tư pháp ở đây bỏ lệ nấu nướng, uống trà buổi tối để tham gia sinh hoạt, học tập với tù kháng chiến. Khám 5 có 3 tù nhân kháng chiến người Lào. Ban chấp hành đã bố trí cho họ chỗ nằm tốt, hướng dẫn việc trật tự vệ sinh và sinh hoạt, học tập theo quy định.

Khám còn hình thành nhóm nghi lễ do các anh Lê Tam, Đỗ Văn Đích, Nguyễn Sáng và Hoàng Phúc làm nòng cốt, tổ chức chào cờ các buổi sáng, có hát Quốc ca, Lãnh tụ ca, Hồn tử sĩ. Được nhạc sĩ Lưu Hữu Phước hướng dẫn từ ngày đầu Cách mạng tháng Tám (1945), Nguyễn Sáng trở thành hạt nhân nòng cốt trong hoạt động âm nhạc của tù nhân Côn Đảo. Ca khúc Ngày giải phóng được anh sáng tác tại Khám 5 Banh I trong những ngày vận động thành lập Liên Đoàn đã củng cố niềm lạc quan cách mạng cho tù nhân Côn Đảo. .

Ở hầu hết các khám, tù kháng chiến đã đoàn kết được với tù tư pháp (thường phạm). Một số tư pháp giác ngộ lợi ích chung của tù nhân và phục tùng sự lãnh đạo của tập thể đã được cử vào Ban chấp hành, được bầu làm chủ tịch hoặc đại diện. Riêng Sở Lưới, nhóm tù tư pháp do Tô Minh Nhật tức Mười Võ Sĩ cầm đầu vẫn gây khó khăn cho việc bầu ban chấp hành. Nhật ấm ức vì bị tù kháng chiến đánh đổ khi làm cặp rằng ở Khám Lớn Sài Gòn. Trước tình hình đó, Ban lãnh đạo Hội nghị lâm thời đã bố trí anh Phạm Trọng Hồng mãn hạn điều trị ở nhà thương được về làm ở kíp xe chỉ – vá lưới, góp phần xây dựng tổ chức tù nhân ở Sở Lưới.

Phạm Trọng Hồng có biệt hiệu là Hồng Năm Căn, Hồng Võ Sĩ, nổi tiếng trong những trận đụng độ với tù tư pháp ở Khám Lớn Sài Gòn. Khi ở Sở rẫy An Hải (đầu 1948), anh đã có kinh nghiệm hoà giải với tù tư pháp, liên kết được với Bảy Lửa để xây dựng Ban chấp hành tù nhân ở đó. Về Sở Lưới, anh cùng Hà Triệu Quý xây dựng khối đoàn kết tù nhân, đồng thời tranh thủ được Tám Gáo là cặp rằng phó, Ba Đạt (dân anh chị, ở Tân Định), Ba Hạnh (dân anh chị ở Cầu Muối) và tổ chức hoà giải với Tô Minh Nhật. Ban chấp hành tù nhân Sở Lưới đã được bầu: Tô Minh Nhật là chủ tịch kiêm đại diện; Phạm Trọng Hồng là phó, phụ trách tổ chức nội bộ; Hà Triệu Quý là thư ký.

Đoàn kết giữa tù kháng chiến và tù tư pháp là nhân tố quyết định thành công trong việc bầu ra Liên Đoàn tù nhân Côn Đảo. Tù kháng chiến đã cảm hoá tù tư pháp bằng nhiều cách. Nhưng quan trọng hơn cả là cảm hoá bằng chính đạo đức, nhân cách của người tù kháng chiến; cảm hoá bằng sức mạnh độc lập tự do của một dân tộc đang gan góc chống ngoại xâm.

Tư Ba Đào khi làm cặp rằng Khám 3 – Khám Lớn Sài Gòn đã được các đồng chí Vũ Huy Xứng và Phan Trọng Bình giác ngộ. Tư Ba Đào thường xuyên khuyên anh em tù tư pháp nên đoạn tuyệt với quá khứ của mình mà đoàn kết với tù kháng chiến để sau này ra tù, khỏi hổ thẹn với các bậc “Anh Lớn”.

Trong những ngày vận động thành lập Liên Đoàn tù nhân, Tư Ba Đào ra lời kêu gọi các bạn tù tư pháp: “Các bạn hãy quên đi quá khứ giang hồ mã thượng của chúng ta, tích cực ủng hộ Liên đoàn, tiến tới Đại hội bầu ra một cơ quan lãnh đạo thống nhất trên toàn đảo”.

Đấu tranh chống khổ sai hà khắc

Trong những ngày sôi nổi vận động thành lập Liên đoàn tù nhân Côn Đảo, Sở Củi đi đầu trong phong trào đấu tranh đòi hạ mức khổ sai. Sở Củi là nơi khai thác các loại củi để cung cấp cho nhu cầu toàn đảo: Củi cành cho bếp tù; củi chẻ nhỏ gia đình gác dang, thầy chú, binh lính; củi gộc để nung vôi, đốt gạch và củi gỗ lớn chạy máy phát điện, máy hơi nước, máy lu, xe lửa, đốt lò than. Banh Sở Củi nằm trên một ngọn đồi thấp dưới chân Núi Chúa. Cạnh đó là Sở rẫy – Chuồng Bò, nơi trồng rau, nuôi trâu bò, lợn, chim bồ câu. Có lúc Sở Củi và chuồng bò tháng một chủ sở.

Đốn củi là một loại công việc khổ sai nặng nhọc và nguy hiểm. Tù nhân Sở Củi phải thức dậy từ mờ sáng, lót dạ một dùa1 cháo loãng rối trần trụi leo núi, luồn rừng kiếm củi. Nhiều người bị cây đè, rắn cắn, ngã xuống vực hoặc sốt rét, khổ sai đến kiệt sức. Tù nhân Sở Củi bị đòn như cơm bừa vì thiếu củi, vì xuống núi trễ giờ hay vì củi không đủ quy cách; nhưng họ được tương đối tự do trong giờ kiếm củi. Đó là cơ hội hiếm có để hội họp, thảo luận hoặc chuẩn bị vượt ngục. Khi tù nhân được tự do trong rừng, có sẵn dao, búa trong tay, ít khi bọn gác dang dám động tới. Chúng chỉ gây sự với họ tại cân nộp củi hoặc khi về banh.

Tù Sở Củi vượt ngục nhiều, mà số “bất trị” cũng không ít nên bọn chúa ngục bố trí những tên gác ngục hung bạo trông coi sở này. Khi ấy, Bênarét (Bénarès) một gác dang khét tiếng hung ác làm chủ sở. Tên này hành củi về củi gỗ, leo núi thuộc từng lối mòn, hang ngách. Hắn thường sục sạo suốt ngày trên núi xem tù nhân làm cho đến chiều tà mới xuống bãi. Tay vung vẩy một khúc mây, hắn sẵn sàng vụt xuống bất cứ người nào thiếu củi hay củi xấu, chửi rủa tù nhân những câu tục tĩu bằng cả tiếng Pháp và tiếng Việt.

Tháng 7-1948, Bênarét đã đánh đập tơi tả cả kíp tù từ sân củi về đến banh. Nhiều tù nhân uất ức định dùng búa đập vỡ đầu hắn trên núi rồi ném xác xuống vực nhưng Ban chấp hành tù nhân đã ngăn kịp thời tư tưởng manh động ấy.

Đầu tháng 11-1948, Ban chấp hành tù nhân khu Sở Củi phát động một đợt đấu tranh đòi hạ mức củi. Đại diện tù nhân đưa yêu sách cho chủ sở, trong lúc đó anh em tự động lãn công bằng cách làm ít củi, lấy củi không đủ quy cách, xuống núi trễ giờ với lý do là mức củi cao, đường xa, củi tốt ngày càng hiếm. Ban chấp hành phát động tinh thần xung phong, khuyến khích cá nhân dám chịu phạt, chịu đòn mà chưa bãi công đồng loạt để tránh địch khủng bố truy tìm tổ chức trong buổi đầu mới thành lập.

Trần Văn Tôn, một người tù tư pháp án 8 năm khổ sai (số tù C.11631) đã đi đầu trong cuộc lãn công đòi hạ mức củi. Không ngày nào anh chịu nộp đủ và cùng chịu đòn với anh em mỗi chiều trên sân củi. Ngày 7-11-1948, Mười Tôn lên núi từ sáng đến sẩm tối mới xuống, trên vai chỉ có một bó củi nhỏ. Bênarét đánh anh chết ngay tại sân củi. Cái chết đau thương của Mười Tôn đã châm ngòi, làm bùng lên lửa căm thù nung nấu trong lòng tù nhân bấy lâu nay.

Ngay tối ấy, Sở Củi báo tin cho toàn thể tù nhân Côn Đảo biết. Ban chấp hành lâm thời Liên đoàn tù nhân Côn Đảo quyết định phát động một cuộc đấu tranh bằng hình thức đình công, tuyệt thực toàn đảo, để tang Mười Tôn, phản đối hành động giết người của bọn gác ngục Pháp. Hai ngày sau, các sở tù khổ sai đồng loạt đình công, không đi làm và bỏ ăn một ngày. Tù áo trắng cũng vào khám. Chiều hôm trước, anh em đã dán nhiều truyền đơn vào gốc cây trên các con đường quanh công sở để phản đối vụ giết Mười Tôn và tố cáo những tội ác của bọn giám thị nhà tù.

Lần đầu tiên toàn thể tù nhân Côn Đảo đã đồng tâm nhất trí đấu tranh, không phân biệt là tù kháng chiến hay tư pháp, là tù áo xanh (khổ sai) hay áo trắng (thư ký, bồi bếp). Họ biểu thị nỗi đau thương và lòng căm thù bằng một sự im lặng sắt đá.

Ngày hôm ấy toàn bộ các sinh hoạt trên đảo đều ngừng trệ. Lá bàng rụng đầy đường, nhà cầu của giám thị, công chức ngập phân không người quét dọn. Giám thị, binh lính, công chức, sĩ quan Pháp đều phải ăn đồ hộp hoặc chui vào bếp tự nấu. Mọi cơ chế sinh hoạt trên đảo đều dựa vào sức lao động khổ sai của tù nhân, đến lúc này trở nên bế tắc.

Giám đốc La phốt (Henri Lafosse) mới tới nhận chức còn lo sợ hơn. Y ra lệnh báo động toàn đảo, đặt trung đội lính Pháp trong tình trạng chiến đấu, Tất cả gác ngục Pháp, Việt đều phải thường trực và được võ trang với cơ số đạn tối đa. Số tù nhân ở các cơ sở ngoài cũng bị dồn cả vào trong Banh I. Cửa khám luôn luôn khoá chặt.

Mặc dù tù nhân chỉ tuyên bố đình công, tuyệt thực một ngày, La phốt vẫn thận trọng cho cấm cố và bỏ đói họ thêm 2 ngày nữa. Khi đã yên tâm vì không có dấu hiệu bạo động, ngày 14-11-1948, y mới ra lệnh mở cửa cho tù nhân đi làm và phạt giam xà lim 7 tù nhân: Trịnh Xuân Hà, Vũ Ngọc Toàn, Hoàng Phúc, Trần Nhật Quang, Lê Tam, Đỗ Văn Đích và anh Bát.

7 anh hội ý với nhau và quyết định tuyệt thực ngay tại xà lim Banh I. Các anh tuyệt thực đến ngày thứ 7 thì Giám đốc xuống giải quyết. Hắn thanh minh chuyện phạt là vì tình nghi các anh cầm đầu tổ chức, xúi giục tù nhân đấu tranh. Nay thấy không có chứng cứ nên hủy bỏ lệnh phạt.

Cuộc tuyệt thực đình công toàn đảo lấn đầu tiên này đã chứng tỏ sức mạnh đoàn kết của tù nhân Côn Đảo; đánh dấu bước phát triển về ý thức chính trị, ý thức tổ chức và ý chí đấu tranh của họ. Đó là dấu hiệu cho thấy điều kiện chín muồi để ra đời một tổ chức thống nhất của tù nhân Côn Đảo.

Sau vụ Mười Tôn, tên Giuyếcvave (Jurvaver) gác dang Banh I lại bắn chết anh Ba Minh tức Đồng Văn Huy (số tù B.2335) chỉ vì anh phản đối chế độ cấm cố, đòi bỏ còng. Anh đã bị cấm cố và 2 chân ròng rã 3 năm trời, đến mức gần như phát điên. Khi anh đã trúng đạn gục ngã, tên sát nhân còn ngồi lên ngực, nã cả băng đạn còn lại vào đầu anh.

Tiếp đó, chủ Rờsẹc Nhắc lại tra tấn đến chết anh Nguyễn Văn Điều (số tù C.l1802) vì bọn tay chân vu cho anh tội âm mưu vượt ngục. Mỗi lần như vậy, tù nhân đều tuyệt thực một bữa để phản đối. Dù chưa chặn được bàn tay bọn giết người nhưng họ đã tỏ ý thức chính trì và tình đoàn kết tranh đấu chống lại sự bạo ngược của bọn thống trị.

Đầu tháng 12 năm 1948, La phốt được đám tù gian cho biết, một tù nhân đã nhận được bức thư qua tàu pigeneau de Béhaine. Bức thư ấy ra lệnh thành lập những ủy ban nhằm chuẩn bị cho một cuộc tổng nổi loạn với mục tiêu phá hủy đài vô tuyến điện Hải quân, tiêu diệt hết viên chức nhà tù cùng gia đình họ và giải thoát tù nhân bằng một chiếc tàu hàng. Thời điểm hành động có thể vào dịp lễ Nôen hoặc Tết. Ngày 13-12-1948, La phốt gửi bức thư phúc trình số 154-C cho Thủ tướng chính phủ bù nhìn.

Sau khi thông báo nguồn tin trên, y đã trình bày các biện pháp đối phó trước mắt: “Nếu như kế hoạch đó vượt quá khả năng của tù nhân, nhất là việc vượt ngục với một tàu to, thì ít ra, nó cũng phát hiện một tổ chức vững chắc từ đất liền, đó là một nguy cơ không được xem thường.

… Hiện nay, tên cầm đầu tổ chức và khoảng 50 tù nhân đã bị nhốt xà lim vì biện pháp an ninh… Đội quân đồn trú và gác dang được đặt trong tình trạng báo động.

Một phạm nhân có cảm tình với chúng tôi (tức là mật báo của nhà tù) bị 5 tên ở gần hành hung (…) Anh ta bị thương bằng 10 nhát dùi đục, có một nhát gây thương tích khá nặng.

Một giám thị trong khi thỉ hành công vụ bị tấn công và bị thương ở đầu (…)

Thủ phạm các cuộc mưu hại đều bị nhốt xà lim”.

La phốt đánh giá tình hình chính trị ở Côn Lôn là “rất nghiêm trọng”, an ninh bị uy hiếp. Nếu cuộc tổng nổi loạn xảy ra thì 80 gác dang và thầy chú cùng 26 lính Sênêgan phải trực tiếp đối đầu với 1.400 tù nhân. Hắn khẩn cấp yêu cầu tăng cường ngay 5 gác dang chính thức, một trung đội lính tăng viện và 10 khẩu tiểu liên.

Hắn cho giam trên 50 tù nhân trong vụ “âm mưu đảo chính mới” này vào khám 7 theo chế độ cấm cố, hầu hết họ là tù nhân ở Sở Lưới, Chỉ Tồn và một số tình nghi ở các sở. Đồng thời hắn cho tăng cường các biện pháp an ninh theo phương án chống bạo động và vượt ngục. Một số người bị giam ở xà lim Banh II.

La phốt buộc tất cả binh lính và viên chức nhà tù chịu đựng tình trạng căng thẳng ấy cho đến tết âm lịch 1949. Nhưng, không có cuộc tổng bạo loạn nào cả. Bọn tù gian đã phóng đại rất nhiều lần những tin tức mà chúng thu lượm được. Việc liên hệ giữa tù chính trị Côn Đảo với đất liền qua các tàu hàng vẫn được duy trì bí mật, song không có một bức thư nào từ đất liền chỉ thị việc tổng nổi loạn ở Côn Đảo cả.

Tuy nhiên, có nhiều cuộc giải thoát đang được những nhóm tù nhân kháng chiến chuẩn bị thì hắn lại hoàn toàn không biết.

Chiếm đèn pha Bảy Cạnh, vượt ngục

Vào lúc La phốt không ngờ nhất thì kíp tù nhân làm khổ sai ở Bảy Cạnh đã bạo động chiếm pha, vượt ngục. Khi ấy đã cuối mùa gió chướng.

Từ giữa năm 1948, công việc sửa pha (Hải Đăng) đã được tiến hành. Nhân lực ấy trong tù nhân ở Sở Lưới và Chỉ Tồn. Buổi sáng sớm kíp khổ sai phải theo sà lan chở vật liệu sang Bảy Cạnh. Sau 2 giờ đồng hồ bị sóng gió nhồi lắc, họ lại phải lội xuống nước, chuyển vật liệu vào bờ rồi chia nhau gùi lên đỉnh pha cao 200m. Sóng gió, nắng hè, dốc núi, đòn roi làm cho họ kiệt sức. Chiều tối họ lại theo sà lan về banh. Kíp tù làm khổ sai Bảy Cạnh chỉ được vài ngày là ốm hết nên chúng lại phải đổi nhân lực cho các kíp khác.

Bảy Cạnh trong những ngày ấy trở thành sở khổ sai khủng khiếp và cũng là nơi thôi thúc chí vượt ngục của tù nhân. Kíp Chỉ Tồn và Sở Lưới do Thái Mập và Hồng Võ Sĩ chỉ huy chuyển vật liệu từ tàu Nicôlô sang Bảy Cạnh đã tính cướp tàu vượt đảo. Do bọn gác ngục rất cảnh giác và thiếu sự nhất trí của nhóm tù tư pháp (Tô Minh Nhật, Tư Phát) nên việc ấy không thành.

Lần khác, ba tù nhân làm khổ sai ở Bảy Cạnh là nguyên Văn Tuy, Lục, Ngàn đã trốn lên rừng tre phía tây đảo này để đóng bè vượt ngục. Nhà tù phải đưa một tiểu đội lính, một tốp gác dang và một đội Rờsẹc truy lừng cả tuần. Cả ba người tù vượt ngục đều bị bắt về sở Rờsẹc, bị tra tấn đến mức không ai còn nhận ra hình hài, mặt mũi nữa.

Đầu tháng 5 năm 1949, Giám đốc nhà tù quyết định đưa một kíp tù sang ở hẳn hòn Bảy Cạnh để giảm bớt thời gian đi và về, tăng hiệu quả công việc. Kíp gồm 4 tù nhân, chọn trong số tù vừa ở Khám Lớn ra được 2 ngày. Anh Đặng Xuân Hà được chỉ định làm đại diện kíp, sau đó đã được anh em bầu làm Chủ tịch Ban chấp hành tù nhân khu Bảy Cạnh. Đặng Xuân Hà tức Hà Lèo quê ở Huế, là cán bộ tình báo Khu 6 bị bắt tại Nha Trang, đưa về Sài Gòn (3-1948). Tại Khám Lớn, Hà Lèo đã được nghe về hàng chục cuộc vượt ngục của tù côn Đảo, đã nuôi chí đi đảo để vượt biển. Trên đường sang Bảy Cạnh, Hà Lèo đã bàn với những người cùng chí hướng như Vĩnh Yên, Giỏi, Vôn, Nhiều về khả năng cướp pha vượt ngục. Cuộc bạo động nổ ra vào tuần thứ 2 kể từ khi họ đặt chân lên Bảy Cạnh.

Một buổi sáng chủ nhật giữa tháng 5-1949, nhóm hành động đã khởi sự, bắt gọn gác dang Sác tông (Charton) và một thày chú tại bãi đổ vật liệu dưới chân núi. Sau đó, Hà Lèo cử một tốp lên pha bắt gác dang Brátxiê (Brasiner) và vợ chồng gác pha Đuypay (Dupay), đoạt một tiểu liên, một súng trường và một số lựu đạn; chủ pha Sơvaliê (Chevalier) thoát nạn vì hắn đã đem máy vô tuyến điện theo tàu về Côn Đảo sửa từ chiều hôm trước.

Ban lãnh đạo cuộc bạo động đã giải thích cho gác ngục và vợ con họ hiểu mục đích cuộc bạo động là để vượt ngục về tham gia kháng chiến. Những người tù chính trị sẽ thực hiện đúng chính sách tù hàng binh, bảo đảm cho họ tính mạng và tư trang, không bị đánh đập ngược đãi. Ban lãnh đạo còn cắt cử những người tin cậy canh gác cẩn thận, đề phòng một số tù tư pháp lưu manh phá ngọn đèn pha hoặc có hành động xấu với vợ con thủ pha, gác ngục.

Tù nhân được chia làm nhiều tốp chuyển vật liệu, đóng thuyền và chặn đánh địch nếu chúng phản kích. Ngay chiều đó, họ đã xong một chiếc thuyền gỗ hình chữ nhật, dài 6 mét, rộng 2,5 mét, cao 1,5 mét. Thuyền được bọc thiếc bên ngoài và ép vải, quét sơn bên trong cẩn thận. Chập tối hôm đó thuyền được hạ thủy, nhưng do làm vội nên nước rò vào nhiều, không đi nổi. Sóng lớn Xô thuyền vào bờ đá vỡ tan. Kíp tù vượt ngục mệt mỏi gom lại từng mảnh ván đóng lại thuyền, dự định hạ thủy vào chiều hôm sau.

Mặc dù được đóng lại cẩn thận hơn, song chiếc thuyền vẫn trở nên mong manh vì quá nhỏ bé so với gần 50 người vượt ngục. Ban lãnh đạo cuộc vượt ngục quyết định không đưa gác dang và vợ con họ đi theo như dự kiến. Do bất đồng ý kiến, tốp đóng thuyền (trong đó có một số tù thường phạm) cho hạ thủy trước giờ hẹn, bỏ lại Ban lãnh đạo cuộc vượt ngục và một số tù chính trị phải làm nhiệm vụ trên pha. Hơn 20 người xuống thuyền đã trở về đất liền sau 4 ngày đêm vượt biển, còn 19 người thuộc phái chủ trương không phá hải đăng, không cướp bóc tư trang, đối xử nhân đạo và không bắt gác dang đi theo đã bị bỏ lại.

Cảm phục nhân cách cao thượng và lòng nhân đạo của tù chính trị, vợ chồng gác pha Đuypay, cùng vợ chồng gác dang Brátxiê đã đồng tình kiến nghị với Giám đốc nhà tù trả lại tự do cho 19 người tù còn lại. Gác pha Đuypay, nhân chứng tích cực bảo vệ cho 19 tù kháng chiến đã khẳng định trước Giám đốc nhà tù: “Các anh ấy đã không động đến lông chân chúng tôi, không đụng đến thân thể vợ con tôi. Các anh ấy đã bảo đảm tính mạng cho chúng tôi và ngọn đèn pha”.

Anh Đặng Xuân Hà đã phổ biến cho anh em cách khai cung thống nhất: “Chúng tôi muốn về với gia đình. Chúng tôi chỉ phản đối việc phá phách ở pha và ngược đãi những người Pháp đang bị giam giữ cho nên bị bỏ rơi”.

Vợ Đuypay đã từng được Giám đốc La phốt đặc biệt ưu ái nay cũng cố gắng bảo vệ những người tù vượt ngục bị bỏ rơi. Bà ta nói với Giám đốc rằng, nếu không có những người tù chính trị này thì cánh tù thường phạm đã làm tan nát đời bà rồi. Nhờ vậy những tù nhân này được điều dưỡng một thời gian ở Nhà Thương. Một năm sau, họ được trả tự do.

Thắng lợi của cuộc bạo động pha Bảy Cạnh không chỉ dừng lại ở việc giải thoát một số đông tù nhân mà còn có ý nghĩa trên lĩnh vực binh địch vận. Thái độ nhân đạo và đúng đắn của những người tù chính trị trong cuộc vượt ngục đã nâng cao uy tín của tù chính trị trong binh linh và gác ngục Pháp. Đuypay và Brátxiê đều chân thành tâm sự với tù nhân rằng: khi về Pháp, họ sẽ kể chuyện về nhân cách cao thượng của tù chính trị để nhân dân Pháp hiểu rõ cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam.

Việc sửa chữa pha Bảy Cạnh bị đình trệ. Trong một thời gian dài, pha được giữ nguyên hiện trạng, 4 người tù đưa sang làm bồi phục dịch ở pha bị kiểm soát nghiêm ngặt. Cuộc bạo động pha Bảy Cạnh nổ ra bất ngờ, dường như lại xác nhận cho bản báo cáo ngày 13-12-1948 của Giám đốc nhà tù về một âm mưu tổng nổi loạn là có cơ sở. Mặc dù không đàn áp tù nhân, không nghiệt ngã với những người bị bắt lại, Giám đốc La phốt vẫn tiến hành những biện pháp an ninh. Nhiều tù nhân tiếp tục bị bắt vào cấm cố.

Sau sự kiện Bảy Cạnh, La phốt tăng cường bố phòng trên toàn đảo, khuyến khích hoạt động của đám tù gian, mở nhiều cuộc khám xét nhằm phát hiện các âm mưu bạo động, vượt ngục. Bọn tù gian đã chỉ điểm cho nhà tù bắt được nhiều tài liệu và cơ sở in ấn tại Khám Chỉ Tồn, Banh I.

Sở Tiêu là một trong những cơ sở đóng ghe vượt ngục cũng bị bố ráp. Chúng bắt Tú Tường tại Sở Tiêu cùng với bản Điều lệ và danh sách ban chấp hành Liên đoàn tù nhân Côn Đảo vừa được bầu cử. Anh Duy, thơ ký lực sự bị chủ sở Rờsẹc Nôvắc chặn lại khám xét khi anh mang giấy in, mực in vào khám. Nguyễn Quốc,hình lái xe lửa ở Bản Chế bị tên Tốt chỉ điểm, bị chủ sở bắt với nhiều tập san, báo chí, bản nhạc, lịch và danh sách bầu cử Ban chấp hành Liên đoàn. Cơ sở in ấn ở Khám 2 bị lộ. Nhiều tù nhân ở kíp thợ mộc (bản chế) bị tra khảo để tìm người làm khung in bột.

Bố phòng nghiêm ngặt, khám xét, bắt bớ, tra khảo, cấm cố, còng xiềng là những biện pháp cấp bách của La phốt. Tù nhân bị phạt xà lim, cấm cố nhiều nên thiếu nhân lực, La phốt áp dụng kiểu phạt xiềng vẫn bắt đi làm khổ sai để vừa hành hạ vừa bóc lột họ. Phạt xiềng cũng có nhiều kiểu:

– Xiềng đôi là hai chân khóa chung một sợi xiềng đóng ngang mắt cá cổ chân; sợi xích dài khoảng 40 cm, buộc người bị phạt muốn đi lại phải nhích từng chân một, nếu chạy là ngã ngay.

– Xiềng tạ là hình phạt nặng hơn. Một đầu xiềng cặp vào cổ chân, còn đầu kia là một quả tạ nặng khoảng 5kg. Muốn đi lại, người tù phải kiếm thêm một sợi dây vắt qua vai để nâng quả tạ lên ngang lưng, tay nắm lấy đầu dây kéo ghì xuống. Người bị phạt cũng có thể cầm quả tạ vào tay khi đi lại. Lúc mỏi tay, phải để quả tạ lê trên đường, mỗi bước đi quả tạ lăn qua lăn lại, giật sợi xiềng siết vào cổ chân đau nhói như thức tỉnh người tù thận trọng hơn nữa trong kế hoạch vượt ngục.

La phốt còn cho áp dụng một hình phạt nữa đối với anh em đã trốn không thoát, bằng cách cạo trọc đầu. Những người đã từng có án trốn thì chỉ cạo nửa đầu để làm dấu cho gác ngục đặc biệt cảnh giác. Tất cả những người bị bắt, sau thời hạn phạt xà lim đều bị đưa về cấm cố tại Khám 6 Banh I. Khám 6 trở thành nơi tập trung những người lãnh đạo ở tất cả các khu, trở thành trung tâm lãnh đạo của tù nhân Côn Đảo lúc đó.

Trừ gian

Để bảo vệ tổ chức và hoạt động của mình, tù nhân kháng chiến ở một số khu đã tìm cách trừ khử những tên tù gian làm tay sai, chỉ điểm cho bọn gác ngục. Lực lượng xung kích trừ gian là những chiến sĩ trong các Ban công tác nội thành Sài Gòn – Gia Định và Chợ Lớn. Nguyễn Đình Chính, nguyên Trưởng ban công tác I khi bị giam ở Khám tử hình Côn Đảo đã khích lệ đồng đội của mình: “Nhiệm vụ của Ban công tác thành là giết giặc trừ gian thì ở ngoài đời hay vào tù đều phải giết giặc trừ gian”.

Anh Nguyễn Văn Hai bị bắt lúc đang sơn vải làm thuyền, bị phạt hai xiềng tạ ở hai chân. Anh cầm quả tạ vào hai tay mỗi lần di chuyển, dáng như người chiến sĩ cầm hai quả lựu đạn xông ra mặt trận nên có biệt danh là “Hai lựu đạn”.

Mở đấu phong trào trừ gian, các anh Xây, Thể, Tâm Con và Năm Mến đã diệt tên Nguyễn Văn Tốt (số tù C.10980), tay sai đắc lực của chủ sở Bản Chế Noócmăng. Bị đưa về Sài Gòn để xử chồng thêm án, các anh lại tổ chức diệt luôn tên Võ Phương Ninh, một tên chỉ điểm rất nguy hiểm ở Sở Lưới. Chính hắn đã phát giác âm mưu cướp tàu Nicôlô và vu cáo âm mưu bạo loạn của tù nhân để bọn chúa đảo đàn áp, bắt hàng chục tù nhân vào xà lim cấm cố. Tên Ninh đã bị các anh Trần Văn Thành (chiến sĩ Cô Tô), Nguyễn Quốc Hương (ban công tác thành) và Linh Còm đâm tại Côn Đảo nhưng không chết, được đưa về Sài Gòn chữa trị.

Nhóm trừ gian ở Bản Chế gặp lại Võ Phương Ninh ở Khám Lớn. Các anh Ngọt, Xây, Tâm Con và Năm Mến quyết tâm khứ hắn. Xây rủ Võ Phương Ninh đánh cờ, Năm Mến bất ngờ đè hắn xuống, Ngọt dùng dao nhọn đâm. Tâm Con đứng ra nhận chỉ một mình anh giết Ninh và chịu lãnh thêm một án 5 năm tù nữa.

Mất tên tay sai đắc lực Nguyễn Văn Tốt, Noócmăng lại tìm cách mua chuộc y tá Trương Hải. Nhận thấy Hải thường lấy thuốc trong tủ thuốc của tù nhân cho chủ sở và được Noócmăng ưu đãi, Hải không tham gia tổ chức và sinh hoạt theo chỉ đạo của Ban chấp hành tù nhân nên nhóm trừ gian thứ 2 ở Bản Chế quyết định giết Hải. Các anh Trần Ngọc Phả, Nguyễn Duy Tiêu, Nguyễn Văn Lúc và Ngô Viết Hoàn đã phân công nhau, ai gặp điều kiện thuận lợi là giết. Anh Phả xung phong đứng ra nhận hết, dù là ai giết. Gặp dịp, Ngô Viết Hoàn đã hạ Trương Hải bằng 2 nhát đục thợ mộc. Noócmăng tập hợp tất cả kíp tù nhân lại, mặt xám ngắt, tay lăm lăm khẩu súng lục và tuyên bố:

– Đứa nào giết y tá Hai thì bước ra, nếu không tao bắn hết?

Anh Trần Ngọc Phả bước ra khỏi hàng, vừa kịp nói: “Tôi” thì Noócmăng nhằm ngực anh nã luôn ba viên đạn. Anh em ở Nhà Thương đã cấp cứu cho anh Phả, còn tên Hải bị bỏ mặc cho chết.

Noócmăng là gác dang lâu đời ở Bản Chế, tàn bạo và hiểm độc. Hắn thường đánh tù bằng bất cứ thứ gì vớ được trong xưởng như dùi đục, kìm sắt, thanh gỗ, hòn đá. Đối đầu với một tên chủ sở vào loại hung ác nhất, tù nhân ở Bản Chế đã nung nấu căm thù, chỉ chờ dịp đấu tranh. Hôm ấy, Ban chấp hành tù nhân khu Bản Chế đã nhắc nhở anh em kìm nén, không để bột phát nổ ra trong tình thế bất lợi.

Chỉ ít hôm sau, nỗi uất ức của tù nhân đã có dịp bùng lên. Hôm ấy, bác Tư chở nước ngọt đến nhà Noócmăng thì bỗng nhiên con bò trở chứng bất kham làm xe nước đổ lênh láng. Noócmăng không nói không rằng, rút cọc xe phang luôn vào đầu bác. Hắn còn nhặt đá ném theo khi bác chạy về phía anh em đang làm. Anh Huệ và anh Thăng là ủy viên trong ủy ban tranh đấu có mặt ở đó đã phát lệnh cho anh em tắt máy ngừng làm việc. Dự đoán địch sẽ đưa quân xuống khủng bố, anh Huệ đã rạch thêm vài nhát dao lam dưới chân tóc bác để máu chảy nhiều, tạo ra tình thế nghiêm trọng.

Khi Noócmăng đuổi theo tới xưởng thì anh em đã ngồi yên lặng vây quanh bác Tư. Bác nằm thiêm thiếp, máu từ đầu chảy loang trên mặt, thấm đỏ áo. Noócmăng báo cáo Giám đốc là tù nhân Bản Chế nổi loạn, yêu cầu tiếp viện. Hai mươi phút sau, bọn lính da đen đã vây kín và chĩa những họng súng đen ngòm vào mấy chục người tù. La phốt bước vào, theo sau là Giám thị trưởng cùng tên trung úy chỉ huy đội lính và hơn chục gác ngục Pháp. La phốt hỏi:

– Ai là chỉ huy ở đây

Anh Huệ và anh Thắng bước ra điềm tĩnh trả lời:

– Thưa thiếu tá, ở đây không có ai chỉ huy ngoài ông Noócmăng. Còn đại diện cho anh em tù là hai chúng tôi.

Không khí căng thẳng đã dịu bớt. La phốt bắt đầu cuộc đối thoại và lắng nghe tù nhân trình bày. Anh Huệ và Lương Văn Thắng đã thay mặt tù chính trì tố cáo hành động đánh đập dã man, xứ phạt vô cớ của chủ sở và tuyên bố:

– Trước hành động dã man của chủ sở Noócmăng đã bắn anh Phả hai hôm trước, nay lại đánh vỡ đầu bác Tư, chúng tôi tuyên bố sẽ không đi làm nữa, nếu ông Noócmăng còn ở sở Bản Chế này.

Giám đốc nhượng bộ, đưa Đôminíchcơ Mai, một gác ngục lai, quốc tịch Pháp về thay Noócmăng.

Nhà tù đang cần phải hoàn thành gấp chiếc sà lan gỗ đang đóng dở ở Bản Chế để phục vụ việc bốc dỡ, vận chuyển hàng. Noócmăng bị hất khỏi một sở có nhiều bổng lộc nhất thì rất ấm ức. Hắn cho già Keo, một tay sai trung thành uống rượu say rồi đốt kho Bản Chế để hại giám thị Mai và kiếm cớ khủng bố tù nhân, âm mưu bị phát hiện, đám cháy được dập tắt. Giám thị Mai trực tiếp lấy cung già Keo. Biết toàn bộ âm mưu bị bại lộ, Noócmăng tìm mọi cách chạy chọt, hiến cả vợ và con gái Hêlen (Hêlène) mới 17 tuổi cho Giám đốc nhà tù. Kết quả là già Keo được tha. Noócmăng về làm xếp Banh I. Một thời gian sau hắn đổi về Sài Gòn rồi chết vì bệnh lao.

Tháng 6 năm 1949, tên mật thám Trần Dư đã bị đền tội tại Sở Ruộng. Dư làm mật thám cho Pháp khảo cung tù nhân ở bót Catina (Sài Gòn) dưới quyền của hai tên ác ôn Mai Hữu Xuân và Trần Bá Thành. Không có người tù nào qua bót Catina lại không đổ máu vì chúng. Nhiều đội viên Ban công tác I đã tính giết hắn từ Sài Gòn mà chưa có dịp. Nay do mâu thuẫn nội bộ mà hắn bị phạt tù, đày ra đảo. Bọn giám thị nhà tù cho hắn nuôi vịt ở Sở Ruộng, cách ly hắn với tù kháng chiến, nhưng không thoát.

Hôm ấy, tù ở Khám 6 đập đá ở ngoài bãi gần Chuồng Bò, Nguyễn Quốc Hương và Nguyễn Trí Tuệ được cắt phiên đi lấy rau về cải thiện. Hương qua Sở rẫy Chuồng Bò mượn một lưỡi mác giắt sau lưng. Đến Sở Ruộng, không thấy Dư, Hương và Tuệ lội xuống ruộng hái rau muống. Đúng lúc ấy, Dư về cũng lội xuống hái rau. Tuệ ôm Dư, Hương đâm chết Dư ngay tại ruộng. Sau đó Quốc Hương đến thẳng Sở Cò tự nhận mình đã giết Trần Dư (số tù A.2392).

Sau những trận đòn trả thù ở Sở Cò, Hương bị đưa về Sài Gòn nhận thêm bản án mới. Bọn tù gian chỉ điểm ở các sở khác cũng bị tù nhân trừng trị. Tên Sổ ở Sở Củi đã bị Hoàng Kiếm Thanh trừ khử với sự hỗ trợ của Vũ Văn Thùy tức An. Hoàng Kiếm Thanh là một người tù tư pháp loại anh chị, được giác ngộ từ Khám Lớn. Hoàng Kiếm Thanh đi tham gia tổ chức của tù nhân kháng chiến, thực hiện xuất sắc nhiều nhiệm vụ của Liên đoàn tù nhân. Trong vụ diệt tên Sổ, anh Vũ Văn Thùy nhận hết để Hoàng Kiếm Thanh khỏi bị truy tố, ở lại đảm nhiệm những nhiệm vụ của Liên đoàn tù nhân. Vũ Văn Thùy sau khi lãnh thêm án, trở ra đảo là một chiến sĩ giao liên xuất sắc, có lúc được bầu làm Chủ tịch Ban chấp hành tù nhân liên khu II với bí danh Ngô Tùng.

Ngày 5-12-1950, anh Giáp và anh Sáu Cầy tức đoàn Minh Đình đã diệt tên Vàng (số tù A.2293) chỉ điểm tại Nhà Thương. Anh Giáp nhận, nhưng Sáu Cấy cũng bị truy tố ra tòa.

Công tác trừ gian đã chặn đứng hoạt động phá hoại, chỉ điểm của bọn tù gian, bảo vệ được tổ chức và lực lượng của tù nhân.

Liên đoàn tù nhân Côn Đảo

Tháng 7-1949, anh Nguyễn Đình Thâu được giảm án tử hình về Khám 6 Banh I. Anh đã góp sức cùng anh em đẩy mạnh việc xây dựng Liên đoàn tù nhân Côn Đảo Anh Phan Văn Đại sau một thời gian làm thư ký thường trực Hội nghị lâm thời chỉ đạo việc bầu Ban chấp hành ở các khu cũng bị phạt xà lim rồi về Khám 6. Hai anh Lê Ngân và Trần Quốc Phiên mới ra sở Chỉ Tồn được cử làm thư ký thường trực để chỉ đạo các khu hoàn thành việc bầu cử.

Mùa gió chướng thứ hai của thời chúa đảo La phốt, những cuộc vượt ngục thưa hẳn đi. Hàng loạt các biện pháp an ninh và kỷ luật của La phốt tỏ ra có hiệu lực trong một chừng mực. Mặt khác, khối tù nhân lại đang tập trung tất cả hoạt động vào việc bầu ra cơ quan lãnh đạo cao nhất của tù nhân trên toàn đảo.

Tháng 11-1949 các khám đã hoàn thành việc bầu cử, Tạp chí Côn Đảo Mới, tiếng nói của Liên đoàn tù nhân đã công bố danh sách ban chấp hành gồm: Chủ tịch Tư Ba Đào, Phó chủ tịch kiêm tổng đại diện Trịnh Xuân Hà, Trưởng ban tuyên truyền Trương Anh Tuấn, Trưởng ban huấn học Lê Ngọc Hương, Trưởng ban xã hội Nguyễn Tiếp, và Nguyễn Ngọc Sớm, ủy viên phụ trách giao thông liên lạc…

Bản điều lệ của Liên đoàn tù nhân quy định rõ nhiệm vụ và chức năng của các thành viên Ban chấp hành Côn Đảo. Điều lệ qui định liên đoàn được tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Tù nhân các khu trực tiếp bầu ra Ban chấp hành khu và bầu đại biểu vào Hội đồng tù nhân Côn Đảo. Hội đồng sẽ cử ra Ban chấp hành Liên đoàn tù nhân.

Nhưng hoàn cảnh trong tù không cho phép hội họp tự do dân chủ như vậy. Trên thực tế là tù nhân các khu đã bầu thẳng các thành viên của Ban chấp hành Côn Đảo, phần nhiều là chấp nhận bản danh sách đề cử mà thư ký thường trực lâm thời gửi đến.

Khi chuẩn bị tranh đấu, thì ở mỗi cấp bầu ra ủy ban tranh đấu để chỉ đạo cuộc đấu tranh theo yêu cầu mà Ban chấp hành Liên đoàn đề ra. ủy ban tranh đấu là cơ quan lãnh đạo cao nhất trong đợt đấu tranh. Sau khi kết thúc đấu tranh, ủy ban tranh đấu mới giao quyền lãnh đạo lại cho Ban chấp hành Liên đoàn tù nhân các cấp.

Điều lệ cũng quy định mỗi tổ chức cơ sở của Liên đoàn (khám tù, sở tù) là một khu; mỗi trại giam (banh), gọi là một liên khu, và cấp cao nhất là Ban chấp hành liên đoàn. Buổi đầu, do số lượng tù nhân ít nên hệ thống tổ chức của Liên đoàn chỉ có 2 cấp: Cấp cơ sở (khu) và cấp Liên đoàn (toàn đảo); cấp liên khu có tên mà chưa có Ban chấp hành.

Ban chấp hành tù nhân ở các khu cũng có cơ cấu tương tự như cấp Liên đoàn nhưng có thêm Ban trật tự. Công tác trật tự rất quan trọng. Kể từ lúc anh em thức dậy cho đến khi đi làm, ăn uống, nghỉ ngơi, đều cần có sự điều khiển của Ban trật tự. Khi cuộc tranh đấu nổ ra, nhiệm vụ của Ban trật tự rất quan trọng cả về phương diện tổ chức, an ninh nội bộ cũng như đối phó với giám thị. Khi địch đàn áp, Ban trật tự sẽ câu tay nhau chịu đòn ở vòng ngoài, bảo vệ lãnh đạo và những người ốm yếu. Đối với nội bộ, Ban trật tự theo dõi những người sa sút tinh thần và ngăn cản có hiệu lực những trường hợp bỏ cuộc, nhảy ra đầu hàng địch.

Các khu tự chọn phiên hiệu cho đơn vị mình để dùng trong Văn bản giao dịch nội bộ, không dùng tên gọi của nhà tù. Banh I mang tên Liên khu Võ Nguyên Giáp, vị Tổng tư lệnh các lực lượng võ trang kháng chiến. Banh II mang tên Liên khu Nguyễn Bình, vị Tư lệnh các lực lượng võ trang ở Nam bộ. Sau những cuộc thảo luận dân chủ, tù nhân các khu đều chọn tên cho đơn vị mình. Có khám mang tên một vị anh hùng dân tộc hoặc mang tên những đồng chí lãnh đạo Đảng, Chính phủ, Quân đội… Có khám mang tên một chiến sĩ ưu tú đã hy sinh anh dũng.

Nhân dịp Liên đoàn tù nhân Côn Đảo ra đời, Chủ tịch Tư Ba Đào ra lời hiệu triệu, in trên tạp chí Côn Đảo Mới, kêu gọi toàn thể tù nhân:

“Đoàn kết nhất trí xung quanh Ban chấp hành, tạo thành một lực lượng vững chắc đối phó với mọi âm lưu đen tối của nhà tù.

Mọi hành động cử chỉ của tù nhân đều tuân thủ theo sự chỉ đạo của các Ban chấp hành khu, Ban chấp hành khu thực hiện đúng các chủ trương đường lối của Ban chấp hành Côn Đảo.

Đẩy mạnh các hoạt động không ngừng nâng cao ý chí chiến đấu, cải thiện sinh hoạt vật chất và tinh thần”1.

Liên đoàn tù nhân Côn Đảo ra đời đã tạo nên một bước chuyển biến lớn lao trong đời sống chính trị của lớp tù nhân kháng chiến. Liên đoàn vừa là hình ảnh của khối đoàn kết dân tộc trong tù, vừa giống như một chính quyền của tù nhân, trên thực tế có đầy đủ hiệu lực với khối tù trong hoạt động bí mật cũng như khi tranh đấu công khai. Ngay cả kẻ thù, dù không thừa nhận nhưng trong nhiều trường hợp đã không thể bác bỏ được vai trò của Liên đoàn tù nhân Côn Đảo.

Nếu như phong trào vượt ngục trong mùa gió chướng 1947-1948 như một cơn lốc cuốn, làm sụp toàn bộ tham vọng trị tù bằng thủ đoạn lừa mị của Bruylê thì phong trào đấu tranh quyết liệt của khối tù nhân, sau kh Liên đoàn ra đời, đã làm cho những biện pháp “cứng rắn” nhất của La phốt cũng trở nên vô hiệu. Đổi lại, trong cuộc đối đầu với La phốt, tù nhân cũng phải đổ khá nhiều xương máu.

Đẩy mạnh phong trào văn hóa, văn nghệ, báo chí trong tù

Từ khi có Liên đoàn, phong trào Bình dân học vụ phát triển mạnh theo khẩu hiệu: “Biến khám đường thành học đường”. Ban huấn học tích cực vận động mọi người học tập theo phương châm “Không để một ai ngồi không mà không học, không đọc “.

Khám 6 có ông già Trị (thường phạm) mù chữ. Khi còn làm khổ sai ở các sở ngoài, ông chú tâm vượt ngục nên chẳng học được chữ nào. Vào cấm cố thấy mọi người say mê học, ông mới thèm khát được biết đọc, biết viết và đọc được thư của con cháu như mọi người. Ông cặm cụi mài từng mẩu san hô thành viên phấn nhỏ, nắn nót viết từng nét chữ theo sự hướng dẫn của những người tù trẻ. Ba tháng sau, ông viết được thư về nhà. Khi nhận được thư hồi âm, ông rưng rưng đọc nhẩm từng chữ, xúc động như cảm nhận một điều kỳ diệu. ông cười mà nước mắt giàn giụa. Ông nói với anh em tù chính trị chỉ trạc tuổi con ông: “Tụi bây khá quá. Tao không ngờ ở với tụi bây lại sáng mắt ra”.

Khám 6 còn có ông già Kim mù chữ, vốn là một người nghèo khổ, bị xã hội thực dân ngược đãi đến bần cùng, rồi trở thành tướng cướp. Ông lầm lì ít khi nói chuyện, chỉ nằm hút thuốc một mình, rất thờ ơ khi anh em vận động học chữ. Lý lẽ của ông là mấy chục năm nay không biết chữ mà vẫn sống được thôi. Cánh tù trẻ cứ theo ông thuyết phục hàng ngày. Cuối cùng, nằm mãi một mình cũng chán, ông nhận lời học nhưng thiếu kiên trì, thích thì học, chán thì bỏ, học trước quên sau. Thầy nào gặp ông cũng chán, không ai dạy được ông quá một tuần. Ban huấn học phải nhiều lần động viên khuyến khích cả thầy lẫn trò. Đến lượt Vương Tự Kiên nhận dạy ông theo phương pháp mới. Khi nào ông thích thì anh dạy, lúc ông chán thì thôi ngay. Hằng ngày anh gần gũi ông, vừa năn nỉ vừa khích lệ. Thấy ông thèm thuốc, bần thần là anh đến Ban xã hội xin thuốc cho ông hút. Nhờ vậy, ông theo học được một thời gian dài, biết đọc, biết viết, mặc dù chữ rất xấu.

Phong trào học văn hóa lôi cuốn nhiều người tham gia. Người nào biết chữ rồi thì học chương trình phổ cập cấp I Trật tự viên chia cho mỗi người một ô nhỏ trên sàn khám. Họ giấu sẵn những mẩu san hô non, mẩu gạch mài đi làm phấn để viết chính tả, giải toán, làm văn. Sôi nổi nhất là những kỳ sát hạch, thi lên lớp hoặc chuyển cấp. Học viên làm bài thi ngay trên Ô bảng của mình. Lưng trần bóng nhẫy mồ hôi, cặm cụi cho đến hết giờ khi trật tự viên ra hiệu lệnh hết giờ bằng chuông miệng “boong… boong!” thì tất cả ngưng làm bài. Họ hồi hộp chờ thầy đến chấm, cũng “ghen tuông” tự ái hoặc nằn nì xin thêm điểm như trẻ nhỏ. Người đạt điểm cao trong mỗi kỳ thi được nhận phần thưởng là bằng khen miệng của Ban huấn học trong buổi phát thanh tối ấy.

Sinh hoạt buổi tối của tù nhân ở các khu rất sôi nổi: mở đầu bằng buổi phát thanh ở từng khu. Khi tiếng chuông miệng “boong!… boong!” của trật tự viên vang lên, mọi người đều ngồi ngay ngắn và yên lặng. Từ góc khám vang lên tiếng nói: “Đây là đài phát thanh khu… Tiếng nói của tù nhân khu…”. Chương trình phát thanh thường ngắn gọn, nhằm phổ biến chủ trương, chỉ thị của Liên đoàn. Kế đó là phát thanh viên đọc tin, điểm báo. Thứ bảy hoặc ngày lễ có chương trình văn nghệ truyền thanh.

Buổi phát thanh ở khu thường diễn ra trong khoảng 30 đến 60 phút. Đó là một hình thức sình hoạt tập thể có tính giáo dục cao của Liên đoàn tù nhân. Nó không chỉ bó hẹp ý nghĩa trong việc thông tin, giải trí, phát thanh mà còn biểu hiện sự trương thành của ý thức tập thể, của sự thống nhất lực lượng và hiệu quả của sự giáo dục, rèn luyện hằng ngày.

Sau buổi phát thanh, tù nhân mới tản ra theo các nhóm học tập và viết thông báo, chỉ thị, tổng hợp tin tức tình hình, in ấn tài liệu Ban trật tự cử người canh gác đề phòng bọn gác dang tuần tra, rình mò để kịp thời báo động cho anh em trong khám và các khám bên cạnh.

Các hoạt động báo chí văn nghệ đã có tác động tích cực đối với hoạt động của tù nhân, Ngoài tờ Côn Đảo Mới, tiếng nói của Liên đoàn, Ban tuyên huấn còn phụ trách tờ Dời Sống Mới nhằm phục vụ công tác tuyên truyền và cổ động phong trào “đời sống mới” trên Côn Đảo. Các anh Trương Anh Tuấn, Trịnh Xuân Hà vừa là người lãnh đạo vừa là chủ bút và là người viết bài chính; họa sĩ Nam Hải trình bày; Trần Quốc Phiên thư ký tòa soạn; Lê Tam, Hoàng Phúc, Đỗ Văn Đích, Vũ Ngọc Toàn là những cộng sự đắc lực trong việc biên tập, chế bản, in ấn phát hành.

Hội văn nghệ tập hợp hợp những anh em văn nghệ sĩ trong tù, động viên hướng dẫn phong trào sáng tác. Công tác báo chí, văn hóa, văn nghệ tập trung vào nhiệm vụ xây dựng khối đoàn kết tù nhân. Báo tường và kịch ngắn là loại hình chủ yếu mà phổ biến là kịch “cương”. Kịch “cương” đáp ứng được hoàn cảnh trong tù, sáng tác nhanh, biểu diễn nhanh, phản ánh một cách trực tiếp sinh hoạt tù nhân, cổ vũ tình đoàn kết chiến đấu đả kích bọn thống trị.

Ngoài kịch cương còn có kịch thơ và thơ là những món ăn tinh thần được anh em say sưa sáng tác và thưởng thức. Anh Lý Tiến Vinh là một diễn viên hài kịch nổi tiếng ở sân khấu Bản Chế với câu xưng danh muôn thuở: “Tôi sinh ra vào năm cáttó, (quattorze)…. Mỗi lần anh xuất hiện là anh em được những trận cười thoải mái, xua tan không khí ảm đạm, đen tối của nhà tù. Anh đã từng bị chủ sở đánh bể đầu vì diễn kịch châm biếm chúng.

Tờ báo Văn Nghệ là tiếng nói của Hội Văn nghệ tù nhân. Các anh Phan Văn Đại, Nguyễn Kim Diễn, Nguyễn Văn Nhã, Nguyễn Thanh Nhơn, Lê Đăng Tam, Đỗ Văn Đích, Phướn Đồng Mạ, Lý Tiến Vinh, Nguyễn Sáng, Vũ Đắc Bằng, Nguyễn Văn Mẹo, Hoàng Phúc… vừa là các chiến sĩ đi đầu trên mặt trận văn hóa, văn nghệ báo chí trong tù, vừa là những người lãnh đạo của Ban chấp hành tù nhân các khu, phụ trách các tờ báo ở các khu. Báo chí là công cụ cổ vũ tích cực cho sáng tác. Hàng trăm bài thơ đã được đăng rải rác trên các báo, với những cây bút thân thuộc của tù nhân Côn Đảo như Song Việt, Văn Quý, Tô Lịch, Đồng Mạ, Lê Đình, Sóng đồng, Văn Lân, Kim Diệu Lý…

Báo tường các khu có từ tờ: Cởi áo Giang Hồ của tù thường phạm; Bạn Tù của Khám tử hình; Đoàn Kết của Sở rẫy An Hải; Tiến Lên của kíp Lò Vôi; Xây Dựng của kíp Thợ Hồ; Thắng Lợi của Sở Củi; Tiền Phong của Sở Chỉ Tồn… Riêng khu Bản Chế, ngoài tờ báo Lao Động, còn có tập san Công Nhân ra hàng tháng. Báo thường được chép tay trên 2 trang giấy học trò. Tập san (tạp chí) từ 4 đến 8 trang được in bột thành nhiều bản. Báo được chuyền tay nhau xem, được đọc trên đài phát thanh của các khu trong buổi tối.

Tờ Bạn Tù của Khám tử hình có nhiều bài viết sắc sảo và cảm đóng, được tù nhân trân trọng. Tờ Cởi áo Giang Hồ trước đây xuất bản ở Khám Lớn (Sài Gòn) là tiếng nói của tù tư pháp, nay tái xuất bản ở Côn Đảo do Tư Ba Đào chủ trì, với sự cộng tác đắc lực của các anh Phan Văn Đại, Nguyễn Văn Mẹo.

Tờ báo có xu hướng giải thích quá khứ giang hồ bắt nguồn từ sự nghèo đói, bất công, bế tắc của con người trong xã hội thực dân, phong kiến? đồng thời khơi lên những đức tính đáng quý của một số người trong giới giang hồ là trọng nhân nghĩa thủy chung, có khát vọng được sống trong một xã hội công bằng, bác ái, từ dó cắt nghĩa việc thức tỉnh ý thức dân tộc của những người tù tư pháp, theo gương các “Anh Lớn” Ba Dương, Tám Mạnh đi kháng chiến… kêu gọi các bạn tù tư pháp biểu quyết cởi bỏ tấm áo giang hồ để đi theo kháng chiến, ủng hộ Liên đoàn.

Âm nhạc cũng nở rộ và được “mùa”. Nguyễn Sáng có nhiều thành công trong sáng tác và đóng góp tích cực cho phong trào. Các ca khúc Ngày giải phóng, Mộng thoát ly, Học nhạc, Tình không biên giới, Mùa gió chướng, Ma Thiên Lãnh… của anh và đồng nghiệp đã đi vào tâm hồn của người tù, trở thành máu thịt của họ, gây niềm lạc quan thôi thúc họ tranh đấu với kẻ thù.

Với lòng say mê âm nhạc, tù nhân nhiều khu còn chế tạo ra đàn, nhị trang bị cho các ban nhạc. Các anh Châu Nháy (tức Trần Minh Thân) ở Nhà bếp, anh Bình ở Nhà Đèn đã làm ra những cây đàn đầu tiên, mở ra một thời kỳ biểu diễn ca khúc có nhạc đệm. Hộp đàn được cuốn từ tôn thùng cầu, cần đàn cũng là gỗ thùng cầu dây đàn, phím đàn đều từ những mảnh dây điện các loại mặt đàn là những mảnh da kiếm được. Tiếng đàn đầu tiên cất lên trong đêm làm xao xuyến bao tâm hồn bị đày đọa nơi ngục tối. Cây đàn của các anh được chuyền tay qua nhiều khám, bị bọn gác dang tức tối đập nát, nhưng nhiều cây đàn khác lại ra đời.

Tiếp sau Nhà bếp, Nhà Đèn, nhiều cây đàn đã xuất hiện ở Bản Chế, Nhà Thương, Sở rẫy An Hải, Chuồng Bò. Nhà Thương có cả ghita và măngđôlin. Nhạc sĩ Nguyễn Sáng đã tham gia tổ chức một dàn nhạc phối âm phối khí để hòa tấu một vài bản nhạc. Nhiều nhạc cụ làm giả, nhạc công phối âm bằng miệng.

Chủ sở Nhà Thương Pêtrônali và bác sĩ Giăng Sác (Jean Charles) rất thích thú khi được xem dàn nhạc biểu diễn. Nhạc sĩ Nguyễn Sáng mở lớp ký âm, bồi dưỡng cho những người có năng khiếu âm nhạc ở các khám. Một số con em các giám thị có cảm tình cũng được anh dạy nhạc. Hoạt động âm nhạc, văn nghệ trong thời kỳ này không chỉ dừng lại trong phạm vi giải trì hoặc tập hợp lực lượng và tranh thủ gác ngục mà đã phát triển tới một bước cao hơn.

Như một nhu cầu không thể thiếu được của đời sống tinh thần, văn nghệ, âm nhạc đã đi vào sinh hoạt của tù nhân từ lĩnh vực thưởng thức nghệ thuật đến sáng tác, biểu diễn. Tình yêu quê hương đất nước, tình đồng chí, tình nhân loại, tình bạn tù cùng với lòng căm thù thực dân, đế quốc đã qua những bài thơ, bản nhạc mà đi vào tâm hồn người tù, biến thành niềm tin vào thắng lợi, thành ý chí đấu tranh với kẻ thù. Văn nghệ, âm nhạc còn tiếp tục gắn bó với mỗi bước đấu tranh và trưởng thành của tù nhân.

Phong trào “Đời sống mới” và công tác địch vận, giao liên phong trào “Đời sống mới” với nội dung thực hiện nếp sống văn minh, vệ sinh, ngăn nắp, giờ nào việc ấy, bỏ nói tục, chửi thề do Liên đoàn tù nhân phát động được toàn thể tù nhân hưởng ứng sôi nổi.

Song song với công tác giáo dục nếp sống văn minh, tư cách của người kháng chiến, Ban đời sống mới còn có quy định nghiêm khắc đối với những người hay nói tục, chửi thề. Người nào nói tục phải đeo vào cổ một thẻ “đời sống mới”, phải đứng nghiêm cho người phát hiện được tát một cái vào má, sau đó phải đứng nghiêm nhắc lại một câu qui định: “Nếp sống văn minh không cho phép nói tục hoặc chửi thề. Tôi xin hứa sẽ không vi phạm nữa”.

Cái tát không đến nỗi như đòn thù, nhưng cũng phải đủ đau để cho người vi phạm nhớ lâu. Nếu thương hại bạn, nương nhẹ tay mà người khác phát hiện được thì phải chịu “phạt đền” cho chính mình bằng một cái tát trở lại của bạn, dưới sự chứng kiến của người thứ ba.

Người vi phạm tuy bị tát đau, song không hề bực dọc hay xấu hổ và nhờ thế mà nhớ lâu, mà đi vào nếp sống có văn hóa. Những khi làm khổ sai cực nhọc, tù nhân thường hay buột miệng chửi thề. Ngay lúc ấy, người làm bên cạnh bắt đứng nghiêm, tát vào má, bắt đeo thẻ “đời sống mới” và bắt nhắc lại câu quy định về nếp sống văn minh. Bọn giám thị Pháp rất ngạc nhiên. Đại diện tù nhân phải giải thích về quy định của Ban đời sống mới và kỷ luật của Liên đoàn. Khi hiểu ra, họ rất phục tù chính trị.

Giám thị Đôminíchcơ Mai mở miệng là nói tục, chửi thề lại rất thích thú phong trào đời sống mới. Hắn tuyên bố với tù nhân: “Đ.m. Tôi cũng hay nói tục, chửi thề, thiếu lịch sự, nhưng từ nay tôi quyết tâm sửa cho mà coi”. Nhưng chỉ một lát sau hắn đã lỡ miệng chửi thề làm cả kíp khổ sai cười ồ lên. Mai xấu hổ, đứng nghiêm, tự vả vào miệng và lặp lại câu quy định về nếp sống văn minh mà hắn đã nghe. Nhiều lần như vậy, Mai bớt chửi thề và ngày càng tôn trọng tù nhân.

Giám thị Pêtrônali, chủ sở Nhà Thương cũng nói: “Tôi coi tù từ khi còn trẻ, nay đã sắp tuổi nghỉ hưu. Tôi chưa bao giờ thôn tập thể tù nào sống có văn hóa như các anh”. Pêtrônali trước đây hay say rượu, hay đánh tù. Được vợ y một người Việt có lương tâm khuyên ngăn và sau đó được nhiều tù nhân ở Nhà Thương cảm hóa, y bớt hẳn tính hung hãn, bớt say rượu, ít đánh tù.

Các chủ trương của Liên đoàn đề ra đều được tù nhân hưởng ứng và tự giác thi hành. Đối với các trường hợp vi phạm, Liên đoàn có thể thi hành kỷ luật nội bộ khi cần thiết. Có nhiều mức kỷ luật, từ khiển trách, phê bình, cảnh cáo cho đến khai trừ ra khỏi Liên đoàn. Thời hạn khai trừ có thể dài, ngắn tùy theo mức độ khuyết điểm. Cá biệt, có thể khai trừ vĩnh viễn.

Án kỷ luật khai trừ do Hội đồng kỷ luật Liên đoàn quyết định, sau đó giao cho Ban trật tự từng khu thi hành án. Người thụ án khai trừ phải nằm riêng một chỗ (thường là góc khám gần cầu tiêu), ăn riêng một mẻ dùa, không được quan hệ, giao dịch với ai, chỉ còn quyền làm việc, chữa bệnh và tự học. Trong thời gian thụ án, nếu có nhu cầu gì chỉ được báo cáo với Ban trát tự để xem xét, giải quyết.

Kỷ luật của Liên đoàn vừa dân chủ, vừa nghiêm minh. Xét xử các vụ kỷ luật bao giờ cũng công khai trong tập thể tù nhân, không bao che, ô dù hoặc nương nhẹ kỷ luật đối với những người có thành tích hay có chức vụ. Có ủy viên Ban chấp hành cấp Liên đoàn cũng bị kỷ luật khai trừ khi vi phạm. Nhiều người coi thường đòn roi, xiềng xích, xà lim, hình phạt của nhà tù lại rất sợ kỷ luật của Liên đoàn. Ở tù mà còn bị tách rời tập thể, ăn một mình, nằm một chỗ, lủi thủi câm lặng suốt ngày, không được thân thiện, trò chuyện với ai thì khổ tâm chẳng khác nào như bị tù thêm một lần nữa.

Có lần, một người tù tư pháp có hành động xấu với gia đình công chức mà anh ta làm bồi bếp. Vốn có quan hệ tốt với tù kháng chiến, vị công chức này phản ánh với Liên đoàn tù nhân, có ý để cho tập thể giáo dục mà không báo cho Giám đốc xử phạt. Không ngờ, kỷ luật của Liên đoàn lại rất nghiêm. Hội đồng kỷ luật cứ người thẩm tra rồi xét xử công khai, thi hành mức kỷ luật khai trừ khỏi Liên đoàn.

Vụ này làm Xôn xao dư luận trong công chức, gác ngục Việt Nam. Từ đó, thấy tù nhân nào có thái độ xấu với vợ con gác ngục, họ thường dọa “kiện tới Liên đoàn”, thay vì trước đây hù dọa bằng chủ sở Rờsẹc Nôvắc hoặc báo Giám đốc xử phạt. Chuyện đến tai chúa đảo, La phốt quở trách và răn đe: “ở đây tao làm Giám đốc chứ không phải Liên đoàn tù nhân làm Giám đốc”.

Hắn ra lệnh cho tất cả công chức, giám thị Việt Nam là bất cứ chuyện gì cũng phải báo cáo lên Giám đốc chứ không được báo với Liên đoàn. Nhưng, sự đe dọa của chúa ngục không còn đủ hiệu lực.

Cách mạng tháng Tám 1945 và sự ra đời của Chính phủ Hồ Chí Minh đã làm sụp đổ thân tượng “Nước mẹ Đại Pháp” và thức tỉnh tinh thần dân tộc của những công chức Việt Nam lâu nay làm thuê cho Pháp. Hầu hết gác ngục Việt Nam suy nghĩ về thân phận hèn kém của họ, về tương lai khi người Pháp thua trận ở Việt Nam. Dự cảm ấy mỗi ngày một rõ rệt. Họ gần gũi tù chính trị, theo dõi tin tức, chiến sự, thăm dò xem thái độ của Chính phủ kháng chiến đối với những người làm thuê cho Pháp như thế nào? Liệu những người làm thuê cho Pháp có bị coi là Việt gian cả hay không? Nhiều người đã tích cực giúp đỡ tù nhân kháng chiến. Giám thị số 39 Trần Tần đã bí mật cung cấp quần áo, vải, lương thực, thuốc men cho nhiều chuyến vượt ngục của tù nhân Sở rẫy An Hải, Sở Củi, Sở kéo cây tù áo trắng. Ông đóng góp phần tiếp tế, liên lạc cho liên đoàn tù nhân khi có yêu cầu. Thầy chú Ba Thà thường giúp tù nhân giấy viết. Thầy chú Hai Nhỏ, bà Nguyễn Thị Năm (vợ Mourges) bà Hồ Thị Ba (vợ Lasomme) giúp thuốc men, đường sữa, sơn, vải. Ông Ruby, nhân viên kho bạc (gốc ấn Độ) bảo lãnh nhận bưu kiện tiếp tế cho Liên đoàn để chuyển cho anh Phạm Xuân Phụ và một số tù kháng chiến ở kho bạc. Trước đó, hai thầy chú Ngọc và Đang thì làm nội ứng cho tù nhân Sở Lưới cướp canh vượt ngục. Nhiều người khác cũng tỏ thái độ thiện chí sẵn sàng giúp đỡ tù kháng chiến hoặc thận trọng giữ mình.

Trong báo cáo số 93.C ngày 20-3-1948, Giám đốc nhà tù đã phải đánh giá rằng tình hình chính trị và quân sự ảnh hưởng sâu sắc đến các gác ngục người Việt. Họ không còn là cánh tay đắc lực cho các gác dang người Pháp nữa. Trong nhiều trường hợp, thái độ của họ khó hiểu và đáng ngờ. Báo cáo có đoạn viết: “… Họ thu mình trong một sự đợi chờ thận trọng, làm việc uể oải, nhẹ tay đối xử với phạm nhân, thận chí có những khi quá thân mật trong đối xử có thể dẫn đến thái độ đồng tình. Trong sự hoài nghi đối với tương lai, họ tìm cách làm sao vẫn giữ được chức vụ mà không có hành vi gì bất lợi cho mình. Trên thực tế, trong hoàn cảnh hiện nay, người ta chỉ có thể tin tưởng ở họ một cách có giới hạn”.

Bác sĩ Giăng Sác có thiện cảm với tù kháng chiến ngay từ Khám Lớn Ra Côn Đảo, ông tìm gặp ngay những người bạn tù mà anh Hoàng Xuân Bình, Tổng đại diện tù nhân Khám Lớn đã giới thiệu. Ông ngỏ lời với anh Trịnh Xuân Hà, Tổng đại diện của tù nhân Côn Đảo rằng anh em cứ luân phiên khai bệnh ra, ông sẽ cho nghỉ. Ông là đảng viên Đảng xã hội Pháp (S.F.I.O), không tán thành chủ nghĩa cộng sản, nhưng rất tôn trọng nhân cách của những người tù kháng chiến.

Người ốm đau bệnh tật được ông khám cẩn thận, cho thuốc và săn sóc tận tụy với lương tâm thầy thuốc. ông còn mua tặng Liên đoàn tù nhân nhiều sách mác xít do Nhà xuất bản Xã hội Pháp ấn hành. Những người chỉ mệt mỏi mà khai bệnh, Sác cũng cho nghỉ việc vài ngày. La phốt thường khiển trách ông về việc ông quá dễ dãi, cho tù nghỉ nhiều nên nhà tù thiếu nhân công khổ sai.

Một lần, La phốt đích thân kiểm tra và gay gắt với Sác trước mặt gần trăm tù nhân chờ khám bệnh ở sân Banh I. Sác cũng không vừa, tuyên bố thẳng thừng: “Nếu tất cả tù nhân có bệnh thật thì tôi sẽ cho nghỉ việc hết. Nhưng dẫu họ không có bệnh thật thì ăn uống như thế, làm khổ sai quần quật quanh năm suốt tháng cũng kiệt sức, cần cho họ nghỉ vài ngày”.

Sác rất thích những tờ báo của tù nhân mà anh Nguyễn Kim Diễn, y tá phiên dịch ở Nhà Thương mang đến cho ông xem. Khi hết nhiệm kỳ ở Côn Đảo (3-11-1949), Sác đã nhờ anh Diễn chọn cho vài số báo tù để mang về giới thiệu cho nhân dân Pháp.

Tù kháng chiến còn một nguồn sách báo quan trọng do Uy ban kháng chiến hành chánh Nam bộ gửi ra qua nhân mối trên các tàu De Lanessan, Nicolaux, Pigheau de Béhaine định kỳ chở hàng ra Côn Đảo. Kíp dọn tàu có tín hiệu riêng để bắt liên lạc với các nhân mối để nhận tài liệu, giấu trong các bao hàng chuyển vào nhà tù.

Anh em thủy thủ ngoài việc tiếp tế, liên lạc còn giúp tù nhân bằng cách cho hoặc mua giúp những thứ cần thiết. Thủy thủ tàu Nicolaux định tặng tù nhân kíp dọn tàu một chiếc xuồng gắn máy có đầy dủ nhiên liệu để vượt ngục nhưng không thành. Thủy thủ tàu De Lanessan tặng hàng chục mét vải bạt cho các cuộc vượt ngục.

Anh Nguyễn Mười Mè, thủy thủ tàu De Lanessan nhận bán giúp các loại đồ mỹ nghệ chạm trên gỗ găng, các đồ trang sức kham đồi mòi, do anh Hồng ở Nhà bếp, anh Mai Văn Hạc khu bất tử làm để gây quỹ cho Liên đoàn. Tiền bán được dùng mua giấy, mực in, thuốc men, đường sữa giao cho Ban xã hội.

Một đầu mối liên hệ khác giữa tù Côn Đảo với đất liền do linh mục Nguyễn Văn Mầu đảm nhiệm. ông nhận thơ từ, tài liệu, tiền, hàng tiếp tế của uỷ ban kháng chiến hành chánh Nam Bộ chuyển về Nhà thờ Côn Đảo, từ đó chuyển về các khám. Đầu mối thứ 2 do anh Đầy, công chức phụ trách thú y ở Côn Đảo đảm nhiệm. Hàng tháng về Sài Gòn lấy thuốc phòng dịch cho gia súc, anh làm liên lạc giữa tù nhân Côn Đảo và ủy ban kháng chiến hành chánh Nam Bộ.

Sách báo và đồ tiếp tế do anh Thái Sơn (Trần Ngọc Sơn), người phụ trách tài chánh nội thành của Đặc khu Sài Gòn – Chợ Lớn – Gia Định mua và chuyển giao ở một điểm hẹn trước. Anh Trần Ngọc Sơn được Chủ tịch ủy ban kháng chiến hành chánh Nam Bộ Phạm Văn Bạch giao nhiệm vụ lập ra Ban cứu trợ tù nhân, dùng tiền quyên góp mua đồ tiếp tế.

Anh Huỳnh Tấn Phát sau khi mãn tù ở Khám Lớn đã cùng vợ và một số người tham gia tích cực vào hoạt động cứu trợ tù nhân. Việc liên lạc và tiếp tế cho tù nhân Côn Đảo sau đó được ủy ban kháng chiến hành chánh Nam Bộ giao hẳn cho Đặc khu Sài Gòn – Chợ Lớn – Gia định phụ trách. Thông tin liên lạc của tù nhân ở các khám, các banh do mạng lưới tù nhân làm bồi bếp, thư ký, Nhà bếp Sở tẩy, Nhà Thương đảm nhiệm.

Thư từ, chỉ thị viết trên những mảnh giấy nhỏ xíu, luồn vào vạt áo, giấu ở những chỗ kín trong người. Tài liệu dày hơn thì giấu trong các thùng 2 đáy, nón bàng hai lớp, gáo dừa 2 ngăn. Tài liệu, thư từ từ nhiều nguồn thường qua đầu mối của Sở tẩy về Nhà bếp, rồi qua các thùng cơm, canh đi các khám, các sở tù.

Một đường liên lạc khác là từ các khám tù, sở tù, thư từ, tài liệu theo những người khám bệnh đến Nhà Thương, rồi từ đó chuyển giao cho các đầu mối. Đó là kiểu như đi bằng “đường bộ”. Nhà bếp còn có sáng kiến đưa thư bằng “đường thủy, giấu trong bụng cá, trong thùng canh. Khi địch khủng bố, khám xét gắt gao thì kíp đổ thùng lại phải trổ tài đưa thư từ qua thùng cầu.

Anh em còn sứ dụng kiểu đi thư bằng “đường không”, từ Banh I qua Banh II hoặc từ ngoài banh vào trong banh. Giấy in, tài liệu được “bay” qua tường ở những điểm vắng được ấn định trước. Các giao thông viên trao đổi tín hiệu với nhau bằng những viên sỏi ném qua, ném lại để báo hiệu việt chuyển giao tài liệu, nhận xong trả lời. Anh em còn dùng dàn thun để “bắn” thư từ qua tường, “bắn” từ ngoài sân qua cửa sổ lọt vào trong khám rất an toàn. Đường “hàng không” còn có kiểu đi thư không “bay” mà “bò” lên mái nhà rối tuồn từ khám này qua khám khác. Một loại cỏ ống mềm hơn cói, mọc ở các bàu, trũng ở Nam Bộ, được sứ dụng đan các bao, giỏ, nón, chiếu…

Những người tù tư pháp, xuất thân từ giang hồ, khi giác ngộ lại trở thành những giao liên xuất sắc. Các anh Tám Nhỏ, Sinh, Vinh, Thân, Hoàng Kiếm Thanh leo tường lẹ như thạch sùng, chuyền trên mái nhà thoăn thoát như vượn leo cây.

Trong những hoàn cảnh đặc biệt khó khăn thì thư từ tin tức lại có cách chuyển bằng những đường dây đặc biệt, qua những nhân mối trong bộ máy nhà tù như gác dang Béctơram (Bertram), thầy Lũy y tá… Đường dây đặc biệt này được Ban ngoại giới của Liên đoàn sử dụng hiệu quả trong những năm sau.

Người được chọn làm giao liên phải có nhiều mưu mẹo và gan góc. Địch phát hiện ra kiểu liên lạc này, lập tức phải thay bằng cách khác. Anh Quý (Dương Ngọc Quẩy) ở Sở rẫy Giám đốc nhờ anh em ở Bản Chế làm cho một đôi thùng gánh cơm có khoan lỗ ở thang thùng. Đôi thùng ấy trở thành “thùng thư di động từ bếp Banh I đến Sở tẩy, qua bao nhiêu cặp mắt cú vọ.

Anh bị bọn tù gian chỉ điểm ba lần, bị chủ sở Rờsẹc tra tấn đủ các kiểu, có lần bị Nôvắc dùng 2 thanh tre cột chéo kẹp nát ống chân nhưng không hề hé răng khai báo. Chúng biết anh là liên lạc mà không làm gì được. Trở về Sở rẫy, anh lại quẩy đôi “thùng thư di động trước những cặp mắt tức tối của bọn gác ngục.

Nhà bếp là trọng diềm chỉ đạo của Ban xã hội Liên đoàn, vừa tổ chức đường dây liên lạc từ các khám ra ngoài banh; đồng thời tổ chức cải thiện đời sống cho anh em. Anh Trần Văn Sứ là một trong những chiến sĩ giao liên tích cực. Nguyễn Ngọc Sớm cùng Lê Ngọc Hương (tử tù giảm án) và Bảy Lửa, một người tù tơ pháp (từng là Chủ tịch Ban chấp hành khu An Hải), tổ chức bầu Ban chấp hành tù nhân khu Nhà bếp.

Từ khi có tổ chức của tù nhân kháng chiến lãnh đạo, Nhà bếp giống như là trái tim giữ mạch máu giao thông liên lạc cho Liên đoàn tù nhân Côn Đảo. Hơn thế nữa, tù nhân khu nhà bếp còn làm nhiệm vụ người chị hiền, người mẹ nuôi chăm lo cải thiện bữa ăn, nuôi dưỡng anh em.

Đấu tranh chống cúi đầu

Liên đoàn tù nhân Côn Đảo ra đời đã mở đầu thời kỳ hoạt động sôi nổi và đấu tranh quyết hệt của tù kháng chiến. Là cơ quan lãnh đạo cao nhất của tù nhân, được dân chủ bầu ra, Liên đoàn tập hợp được tất cả lực lượng tù nhân thành một khối duy nhất, dẫn dắt họ vào cuộc đấu tranh bảo vệ quyền sống và nhân phẩm của những người tù kháng chiến.

Cuối năm 1949, qua đường dây liên lạc của ủy ban kháng chiến hành chánh Nam Bộ, Liên đoàn tù nhân được một tài liệu mới về chủ trương của Đảng đưa cuộc kháng chiến chuyển mạnh sang tổng phản công. Tài liệu phản ánh tinh thần của Hội nghị cán bộ lần thứ 6 do Ban chấp hành Trung ương Đảng triệu tập từ ngày 14 đến ngày 18-1-1949.

Ban chấp hành Liên đoàn quyết định kỷ niệm ngày Toàn quốc kháng chiến (19-12) với nghi thức long trọng nhằm biểu dương lực lượng và củng cố lòng tin vào thắng lợi. Báo Tiếng Tù của Liên đoàn ra trong dịp đó đã đưa tít lớn trên trang đầu những khẩu hiệu:

– Một khối – Một ý chí – Một hành động.

– Tổng phản công nhất định thắng.

Tối 18-12-1949, các khám lập bàn thờ Tổ quốc, chào cờ, cử quốc ca rồi liên hoan văn nghệ đến nửa đêm. Ban xã hội tập trung tiền quỹ, đường, sữa, thuốc lá, làm bánh, nấu chè liên hoan. Anh em đặt tên cho các mục liên hoan là “cơm chiến thắng – cháo đuổi giặc – bánh tổng phản công.”.

Ngày 19-12-1949, tất cả các khám đều tập trung ăn cơm ngoài hiên. Trước bữa cơm, đại diện của Ban chấp hành khu đứng ra phổ biến chủ trương tổng phản công của Đảng, tin tức chiến sự trên chiến trường và mục đích, ý nghĩa bữa cơm liên hoan mừng chiến thắng. Bọn giám thị Pháp thấy lạ xúm vào nghe. Đến khi diễn thuyết xong, tù nhân các khám nắm tay hô vang các khẩu hiệu:

– Việt Nam độc lập muôn năm!

– Hồ Chí Minh muôn năm!

– Tổng phản công nhất định thắng!

Bọn giám thị hoảng sợ tường tù nhân bạo động. Chúng lên đạn, súng lăm lăm trong tay. Sáng 20-12-1949, La phốt và Giám thị trưởng Rô nhông (Roghon) đích thân chỉ huy cuộc khủng bố. Một tiểu đội lính da đen lăm lăm súng tiểu liên trong sân Banh I. Gác dang mở cửa từng khám, Rô nhông thét: “Ra ngoài tập hợp”.

Tù nhân ra khỏi cửa khám là phải đi qua hàng rào roi mây của tốp gác dang đứng 2 bên cửa. Đứa bổ lên đầu, đứa quật ngang người, đứa vụt vào ống chân, đứa đánh vào chỗ hiếm. Người tù bị đánh tối tăm mặt mày, té sấp té ngửa mới ra đến sân. Khi tập hợp, chúng bắt tù ngồi cúi đầu ngẩng lên là chúng đánh. Khám 6 bị đánh nặng nhất vì chúng biết đây là khám đầu não chỉ huy. Trương Anh Tuấn bị đánh bể mắt kính, máu chảy ròng ròng trên mặt.

Khi tất cả tù nhân đã ra khỏi khám ngồi từng tốp trong sân, bọn gác dang vẫn vụt lốp bốp trên đầu họ, miệng gào lên: “Cúi đầu!… Cúi đầu!”. Cho đến khi Giám đốc La phốt đứng giữa sân chỉ huy quát “Thôi”, thì tiếng roi mới thưa dần. Chúng bắt tù nhân cởi hết quần áo, chất thành từng đống, trần truồng ngồi phơi nắng trong lúc bọn gác dang sục sạo vào các khám moi móc từng góc tường, sân khám, góc cột, cầu tiêu để truy tìm tài liệu, vũ khí mà tù nhân có thể sử dụng vào mục đích bạo động, nhưng kết quả ngược lại, những thứ mà chúng thu được chỉ là đồ dùng của tù nhân như quần áo, khăn mặt, bàn chải, sách đọc, giấy bút, viên phấn. Chúng sục sạo Khám 6 rất kỹ, lôi ra hàng đống sách vở, bút mực, báo chí.

Trừ bọn tù gian và Khám 1 (áo trắng) tất cả tù nhân còn lại đều bị bỏ đói 2 ngày, bị dồn lại, nhốt kín trong mấy khám. Ngày 23-12-1949, chúng mới cho ăn uống bình thường, trả tù nhân về khám cũ với chiếc chiếu và một bộ quần áo xanh cộc, còn tất cả đồ dùng khác đều bị thu hết, nhiều nhất là sách học văn hóa của Khám 6.

Trong gần một tháng khủng bố, các lớp học phải ngừng lại hết. Hai mươi người mà chúng nghi là cầm đầu bị biệt giam ở xà lim Banh II, trong đó có nhiều người trong Ban chấp hành Liên đoàn và Ban chấp hành Khám 6.

Liên tiếp trong 3 ngày, tù đi làm khổ sai bị bọn gác dang đánh đập rất dữ và lập lại chế độ kiểm danh cúi đầu. Không kịp liên lạc được với Ban chấp hành Côn Đảo đang bị biệt giam ở xà lim Banh II, Trương Anh Tuấn đã nhân danh Đặc phái viên của Liên đoàn thảo chỉ thị Cương quyết chống cúi đầu. Khẩu hiệu hành động lúc đó là: “Tất cả hãy ngẩng đầu lên”.

Nguyễn Ngọc Sớm ở Nhà bếp vừa tìm cách liên hệ với lãnh đạo Liên đoàn ở biệt giam để trao đổi chủ trương chống khủng bố, vừa truyền đạt chỉ thị của Đặc phái viên Liên đoàn đến các cơ sở, phát động cuộc đấu tranh chống cúi đầu. Khám 6 bầu lại Ban chấp hành khu, thay cho những người vừa bị bắt. Ban chấp hành mới gồm những người có dũng khí đấu tranh. Nghị quyết đầu tiên của Ban chấp hành mới là kiên quyết chống cúi đầu. Ai cúi đầu sẽ bị kỷ luật khai trừ.

Khám 6 Banh I đi đầu trong cuộc đấu tranh chống cúi đầu. Hàng ngày đi làm, bọn gác ngục tập trung đánh tốp đi trước. Chiều về, chúng đánh tốp đi cuối, lúc chờ xếp hàng vào khám. Ban chấp hành mới đã bố trí những người có sức khoẻ, dũng cảm, chịu đòn đi đầu và đi cuối để giữ vững đội ngũ. Các anh Lê Trung Khá, Lê Ngọc Hương, Nguyễn Trí Tuệ, Nguyễn Thành Phương, Vương Tự Kiên, Nguyễn Văn Hai… là lực lượng xung kích trong đợt chống cúi đầu, chịu đòn thay cho anh em.

Nguyễn Trí Tuệ cao hơn mọi người nửa cái đầu nên nhiều lần bị đánh trào máu. Nguyễn Thành Phương có bộ dạng dềnh dàng nên chúng ngứa mắt đánh luôn tay, có lần dính cú đá chỏ hiểm suýt chết. Các anh Thái Mập (Lê Văn Trình), Hồng Mùi (Tạ Văn Hồng) càng bị đánh càng lỳ ra. Những tên gác dang hung bạo nhất cũng phải bất lực trước những cái đầu không chịu cúi bạo giờ. Thái Mập, Hồng Mùi từng là đại diện, đứng đầu các cuộc đấu tranh ở Sở Củi, Sở Lưới, Chỉ Tồn, từng làm cho bọn gác ngục ngao ngán. Họa sĩ Nam Hải nhiều lần bị Sa den đánh gục xuống vẫn nhỏm dậy, ngẩng đầu hô “Hồ Chủ tịch muôn năm”. Anh là người chuyên vẽ hình Bác Hồ trên các tờ báo của Liên đoàn và cung cấp hình Bác cho các khám trong những ngày lễ kỷ niệm.

Nửa thế kỷ sau, lớp tù nhân kháng chiến vẫn nhớ mãi hình ảnh hiên ngang của Lê Ngọc Hương trong cuộc đấu tranh chống cúi đầu năm ấy. Một buổi sáng, tù nhân Khám 6 điểm danh trong sân Banh 1 như thường lệ bỗng có tiếng hô dõng dạc của trật tự viên:

– Tất cả hãy đứng dậy! Nghiêm!

Tên Xếp chánh Rô nhông sửng sốt chưa hiểu chuyện gì xảy ra thì Lê Ngọc Hương bước tới trước mặt Rô nhô ng, từ tốn nói:

– Thưa ông Xếp chánh, ông cho phép chúng tôi từ nay được chào ông bằng động tác đứng nghiêm như thế nàv. Như vậy có vẻ văn minh và lịch sự hơn là ngồi cúi đầu.

Mặt Rô nhông tái đi, nó vung roi cá đuối quật vào mặt anh liên hồi. Lê Ngọc Hương vẫn đứng nghiêm, đầu ngẩng cao, mặt không biến sắc. Rô nhông tiếp tục quật roi xuống đầu anh và gầm lên: “À cái đầu thằng này cứng”.

Lê Ngọc Hương điềm tĩnh trả lời: “Thưa ông cái đầu của chúng tôi có thể rơi khôi cổ nhưng từ nay không bao giờ cúi nữa!”.

Bọn gác ngục xông vào đánh anh té sấp xuống sân rồi lôi theo kíp tù ra nơi đập đá. Tên Saden đứng gác cổng Banh I, cầm dùi cui đập liên hồi vào đầu của kíp tù miệng gào lên “cúi đầu!… cúi đầu!”. Khi Lê Ngọc Hương đi qua, Saden vung dùi cui quật thẳng cánh lên đầu anh rồi ấn mạnh xuống, Hương quắc mắt, ném vào mặt tên sát nhân đểu cáng một cái nhìn nảy lửa và tuyên bố một câu bằng tiếng Pháp mà cả lớp tù kháng chiến không ai quên được:

– Chúng tao chưa nói lời cuối cùng đâu! (Nous nảvons pas encora dit notre demier mot!).

Lê Ngọc Hương, còn gọi là Hương Bà Điểm, nguyên là chủ tịch ủy ban nhân dân xã Bà Điểm quận Hóc Môn tỉnh Gia Định lúc mới giành chính quyền. Hương bị kết án tử hình rồi giảm án, là một trong những người có công xây dựng Liên đoàn tù nhân. Dũng khí đấu tranh và lời tuyên bố hùng hồn của Lê Ngọc Hương trở thành biểu tượng của người tù kháng chiến, trở thành bài học về nhân cách và khí tiết của người chiến sĩ cách mạng trong ngục tù của thực dân Pháp. Phải đến hơn bốn năm sau, bọn chúa ngục mới hiểu dược “lời cuối cùng” mà Lê Ngọc Hương tuyên bố năm ấy.

Đầu năm 1950, các thành viên của Ban chấp hành Liên đoàn tù nhân Côn Đảo và Ban chấp hành Khám 6 (cũ) vẫn còn bị biệt giam ở xà lim. Khám 6 bị khủng bố và phong tỏa chặt chẽ. Việc liên lạc giữa các khu với cơ quan chỉ đạo hết sức khó khăn. Trong tình hình đó, các anh Nguyễn Văn Năm, Hoàng Phúc, Vũ Ngọc Toàn ở khám Chỉ Tồn đã trao đổi với đại diện tù nhân ở một số khám để thành lập Ban thường trực Hội đồng tù nhân Côn Đảo để chỉ đạo phong trào1. Ban thường trực đặt Văn phòng tại Khám 5 Chỉ Tồn. Các anh Đỗ Văn Đích, Lê Đăng Tam, Lê Ngân, Trần Quốc Phiên tham gia tích cực trong việc thông tin liên lạc, ấn loát, ra báo. Tờ báo Tiếng Tù vẫn ra tại Khám 5 trong những ngày khủng bố ác liệt. Anh Năm Mền (bí danh Thanh Mi) nhân danh Ban thường trực ra hiệu triệu kêu gọi toàn thể tù nhân vừng vàng trước đợt khủng bố, siết chặt đội ngũ, kiên quyết chống cúi đầu, đòi thả những người bị biệt giam ở xà lim, chống đánh đập vô lý.

Hưởng ứng chỉ thị của Đặc phái viên Liên đoàn và lời kêu gọi của Ban Thường trực Hội đồng tù nhân, nhiều khám đã nhất loạt chống cúi đầu. Tù nhân khu Nhà bếp, Sở tẩy tuyệt thực phản đối khủng bố. Tù nhân Khám 2 (thợ hồ) đã chống cúi đầu và chịu đòn cho đến khi cả khám bị đánh tả tơi, gục ngã. Trong ngày làm khổ sai đẫm máu ấy, anh Tám Đỏ (tù tư pháp) đã phẫn nộ đổ cả một Xô vôi lên đầu tên gác dang hung hãn Tômaxini (Thomacini). Chủ sở Rờsẹc bắt anh về tra tấn, kẹp điện quay đến đứt một tai làm anh bị điếc hẳn.

Sau ba ngày khủng bố ác liệt, hằng trăm tù nhân bị đổ máu, biếu dầu, tím mặt, bầm mình mẩy, nhưng không ai khuất phục. Bọn gác dang vẫn bắt điểm danh vẫn đánh đập nhưng lờ hẳn chuyện cúi đầu. Sự tàn bạo không khuất phục được khí phách người tù.

Ban thường trực chỉ đạo các khám nhượng bộ một bước, không ngẩng cao đầu để khiêu khích địch mà giữ tơ thế hiên ngang, mắt nhìn thẳng. Đòn roi bớt dần. Lê Ngọc Hương sau một tháng phạt xà lim, ăn cơm nhạt lại trở về Khám 6. Đó là trận tranh đấu quyết liệt của tù kháng chiến nhằm xóa bỏ hẳn lệ điểm danh cúi đầu. Họ là người chiến thắng.

Cuộc đấu tranh chống khủng bố vẫn tiếp tục diễn ra, khi thì riêng lẻ từng khám, có lúc bùng lên ở phạm vi toàn đảo. Ngày 31-1-1950, anh Nguyễn Văn Điều, số tù C.11802 bị gác ngục đánh chết tại Sở Củi. Báo cáo nguyệt kỳ của La phốt (số 250-P ngày 5-2-1950) đã xuyên tạc sự thật, vu cáo anh Điều vượt ngục và cải chính tội ác cho bọn gác ngục. Toàn thể tù nhân đã bỏ ăn một ngày để phản đối hành động giết người.

Hàng loạt cuộc đấu tranh chống khủng bố đã diễn ra trong năm ấy. Tháng 2 năm 1950, tù nhân kíp cắt cỏ đi làm về ngang sân vận động thì bị 2 tên Vidan và Tômaxim đánh đập tàn tệ vì không ai chào hỏi chúng. Đoàn tù vẫn tiếp tục đi về banh, không tránh đòn mà cung chẳng ai thèm chào. Hai tên gác dang nổi máu côn đồ đuổi đánh đến tận Banh II. Tù nhân kíp Lò Vôi ở chung trong Khám 4 đã hò la phản đối đánh đập vô cớ. Hai tên này Xông vào đánh cả khám một trận nữa. Tên Bê quy (Bé cu) gác Banh II cũng nhảy vào phụ họa đánh đập anh em cho đến lúc Giám đốc La phốt và Giám thị trưởng Rô nhông đến. Mười tù nhân bị thương nặng, lủng đầu, toạc da thịt đã kéo ra tố cáo ba tên gác ngục khát máu. Giám đốc không can thiệp. Giám thị trưởng xoa dịu mấy câu rồi bỏ đi.

Phẫn nộ trước hành động dã man của bọn gác ngục và sự dung túng của bọn cầm đầu nhà tù, toàn thể tù nhân hai kíp Cắt Cỏ và Lò Vôi đã biểu quyết tán thành một cuộc đấu tranh bằng hình thức bãi công và tuyệt thực để phản đối đánh đập với khẩu hiệu:

– Đuỗi 2 tên Vidan và Tômaxim khỏi Côn Đáo

– Cảnh cáo tên Bê quy.

Khi ấy La phốt mới tỏ thái độ. Hắn đưa một tiểu đội lính da đen chĩa súng bao vây vòng ngoài, rồi cho 15 giám thị Pháp Xông vào đánh cả khám tù một trận tơi tả. Anh Nguyễn Trí Tuệ, Chủ tịch Ban chấp hành tù nhân kíp Lò Vôi và 8 người nữa bị chúng đánh bằng củ mây, báng súng vào bụng, vào ngực vào đầu gối và mắt cá chân cho đến khi chết ngất, rồi phạt xà lim, cho ăn cơm nhạt.

Tù nhân hai kíp Cắt Cỏ và Lò Vôi tiếp tục tuyệt thực, đình công, giữ vững yêu sách đấu tranh và phản đối hình phạt vô lý. Ngày thứ 3, bọn gác ngục đổ cả nước uống, nước tắm. Ban chấp hành tù nhân hai khu vận động viên anh em kiên trì tranh đấu. Liên đoàn tù nhân đã chỉ thị cho các sở tù khác, tuyệt thực và lãn công hưởng ứng. Nhiều sở tù đã gởi đơn phản đối việc đánh đập dã man.

Cuộc đấu tranh có chiều hướng phát triển thành một cuộc tổng đình công bãi thực toàn đảo. Laphôt buộc phải nhượng bộ. Hắn tuyên bố chấp nhận đuổi hai tên Vidan và Tômaxini về đất liền, hứa sẽ cấm gác ngục vô cớ đánh đập tù nhân. Đợt đấu tranh này do yêu sách quá cao (đuổi gác ngục khỏi Côn Đảo) nên hai kíp tù phải đổ khá nhiều xương máu. Nguyễn Trí Tuệ sau khi bị phạt xà lim, phải vào cấm cố tại Khám 6.

Lời hứa của bọn thống trị chỉ cốt xoa dịu dư luận, khi thấy không thể đàn áp được nữa. Thỉnh thoảng chúng lại khủng bố từng bộ phận tù nhân, giảm dần những điều đã nhân nhượng. Trong khi áp dụng hàng loạt các biện pháp cứng rắn, Laphốt cũng không quên những thủ đoạn lừa mị. Hắn nới bớt chế độ khắt khe cho Khám 6 cấm cố như tăng giờ ra chơi, kéo dài giờ ăn uống, tắm rửa.

Tù chính trị đã khéo lợi dụng tính thích oai quyền của Laphốt để giảm bớt tình hình căng thẳng. Mỗi lần Laphôt đến, trật tự viên Khám 6 lại hô “nghiêm” thật to và dài, tất cả tù nhân đứng dậy chào Giám đốc. Laphốt đáp lễ bằng cách giơ tay chào đúng nghi thức nhà binh, sau đó dạo vài vòng rồi đi, tỏ vẻ hài lòng. Hắn vẫn cho tù nhân Khám 6 đập đá lớn thành đá dăm trên bãi đá gần con đường đi lên sở Chuồng Bò. Mỗi ngày y còn cho 7 tù nhân Khám 6 lên Sở Ruộng hoặc Chuồng Bò kiếm rau về cải thiện.

Gácdang Lanhghê (Lainguet) coi kíp đập đá, người da đen, nghiêm khắc nhưng không độc ác. Y chỉ muốn làm tròn bổn phận một người gác tù, không đế cấp trên khiển trách vì một khuyết điểm nào đó mà ảnh hưởng đến miếng cơm manh áo của y. Y giao khoán cho cả kíp tù một khối lượng đá phải hoàn thành trong ngày, thường là ở mức không nặng lắm. Nhờ vậy, cuộc sống của Khám 6 có phần dễ chịu hơn, việc liên lạc giữa Ban chấp hành tù nhản Côn Đảo với các khu cùng dễ dàng hơn.

Trong một lần được phân công di lấy rau cải thiện, hai anh Nguyễn Văn Mẹo và anh Giàu đã bỏ trốn lên núi tìm cách vượt ngục, không báo gì cho Ban chấp hành biết để có cách đối phó. Chiều hôm Khám 6 bị cấm cố trở lại, mỗi ngày chúng cho ra tắm giặt một giờ nhưng bắt ăn cơm trong khám. Chúng đình chỉ luôn việc phát bưu kiện cho tù nhân Khám 6. Rônhông cho chuyển đá hộc vào sân sau Banh I, bắt tù nhân Khám 6 đập thành đá dăm. Toàn thể tù nhân Khám 6 đã nhất trí đấu tranh tuyệt thực, đòi nhà tù:

1. Phải sắp xếp địa điểm lao động ngoài bốn bức tường của banh.

2. Phải để cho tù nhân được đi lấy rau xanh.

3. Phải cho nhận bưu kiện của gia đình gửi ra, trả lại những bưu kiện mà nhà tù còn giữ.

Anh em bầu ngay Ban tranh đấu gồm các anh: Lê Trung Khá, Vương Tự Kiên và Hoàng Phúc. Ban trật tự gồm những người khoẻ mạnh, tập câu tay nhau chịu đòn để bảo vệ cấp lãnh đạo Liên đoàn và Ban chấp hành khu. Các anh em ốm yếu được chuyến chỗ nằm vào sâu trong góc khám. Anh Lê Trung Khá, Trương ban đấu tranh đưa bản yêu sách và tuyên bố đình công tuyệt thực.

Một giờ sau, Rônhông chỉ huy cuộc đàn áp tù nhân. Bọn gácdang kéo hàng một vào khám, mỗi đứa cầm một khúc mây dài, vụt thẳng cánh xuống đầu, xuống lưng tù. Anh em câu tay thành hàng rào che chắn, cắn răng chịu đòn, người khoẻ che đỡ cho người yếu.

Rút kinh nghiệm cuộc khủng bố trước, chúng bắt cởi quần áo, lần này anh em tự cởi quần áo chất đống ngay cửa khám để thể hiện tinh thần kiên quyết đấu tranh.

Đánh tù khoảng nửa tiếng, chúng đổ nước trong khạp và sàn khám và còng chân hết lại. Để cổ vũ tinh thần chiến đấu của anh em, Ban xã hội cho châm lửa mồi 4 điếu thuốc phát cho 4 dây còng, chuyền tay nhau rít mỗi người một hơi và ôn lại trận chống khủng bố quyết liệt.

Ngày thứ 5 của cuộc đấu tranh, Rônhông vào giải quyết, đồng ý để Khám 6 không đập đá ở trong Banh I, cho tù nhân nghỉ ít ngày, chờ Giám đốc ở Sài Gòn về sẽ chỉ định chỗ làm việc. Đồng thời Rônhông trả các bưu kiện mà y còn chặn lại từ ngày xảy ra vụ trốn của 2 anh Giàu và Mẹo.

Tuần lễ sau, Laphôt tù Sài Gòn về, quyết định cho Khám 6 được đi làm đường ở Bến Đầm. Sáng có xe tải chở qua Đầm, trưa ăn cơm tại chỗ và chiều đưa về Banh I. Laphôt nhiều lần tự lái xe con, qua gặp anh em. Mỗi lần hắn xuống xe, họ vẫn giữ nghi thức cũ chào y bằng cách hô to lệnh: nghiêm!

Trong thời gian lao động ở Bến Đầm, Khám 6 tận dụng hết cả khả năng để cải thiện, mỗi ngày chặt hàng chục cổ hũ dừa để nấu ăn và tiếp tế cho các khám. Hôm nào bữa ăn cũng có cá, hào, ốc tai tượng và hải sản khác. Ta cũng tranh thủ Lanhghê, thường nói chuyện tình cảm với y, và không quên mỗi ngày gửi cho gia đình y bó củi, vài trái dừa hoặc mớ ốc.

Thái độ của Laphôt có chiều hướng ôn hòa hơn trước. Y muốn giữ một trạng thái yên ổn cho nhà tù, nhất là khi sắp mãn nhiệm Côn Đảo. Y cũng biết rằng đối với những người đã không sợ mọi hình phạt, kể cả cái chết thì không dễ gì khuất phục.

Đảng bộ Nhà tù Côn Đảo

Tính đến ngày 31-1-1950, Côn Đảo có 1.392 tù nhân, trong đó có 95 người Khơme, 9 người Lào, 66 người Hoa, 3 người Xiêm (Thái Lan) và 72 tù binh Nhật, trong đó, 1.157 tù nhân người Việt được phân chia theo các địa phương như sau: 751 người ở miền Nam, 233 ở miền Bắc, 161 ở miền Trung và 2 ở miền Thượng (dân tộc thiểu số). Những tù nhân quê miền Trung bị bắt trong các cuộc hành quân, bị đưa thẳng vào Khám Lớn –

Chí Hòa rồi đưa ra Côn Đảo. Số tù nhân quê miền Bắc, trừ 22 chiến sĩ Đại đội Ký Con bị bắt trong trận đánh đảo Cô Tô (vịnh Bắc Bộ), còn lại hầu hết là những người đã tham gia chiến đấu và bị bắt ở mặt trận Sài Gòn – Chợ Lớn và Gia Định rồi đày ra Côn Đảo, sau khi trải qua một thời gian bị giam ở Khám Lớn – Chí Hòa.

Trong số 1.392 tù nhân lúc đó chỉ có chưa tới hai chục đảng viên, chiếm một tỷ lệ rất nhỏ (gần 2%). Số đảng viên ít ỏi ấy là hạt nhân đoàn kết góp phần tích cực trong các hoạt động của tù nhân, gương mẫu, đi đầu trong đấu tranh, trong vai trò người lãnh đạo, xây dựng tổ chức Liên đoàn tù nhân…

Theo mô hình tổ chức ở Khám Lớn – Chí Hòa, một số đảng viên ra Côn Đảo đã liên hệ nhau, hình thành nhóm nghiên cứu mácxít để truyền bá chủ nghĩa Mác- Lênin và lãnh đạo tù nhân ở các cơ sở. Từ năm 1948 – 1949, các anh Nguyễn Văn Năm (Năm Mên), Trần Minh, Nguyễn Văn Giỏi, Hai Nhị (ở Bản Chế), Nghĩa “Cơm cháy” ở Sở Củi, Trương Anh Tuấn ở Chỉ Tồn, Nguyễn Đình Thâu (khi giảm án tử hình về Khám 6)… là những thành viên của nhóm nghiên cứu mácxít ở Côn Đảo.

Bên cạnh đó còn nhiều người chưa phải là đảng viên nhưng có trình độ và uy tín cũng đã tham gia truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin cho các bạn tù gần gũi. Nhóm thanh niên trí thức ở Khám 6 Banh I do Lê Trung Khá,

Vũ Đắc Bằng và một số người có trình độ đã tổ chức dịch một số cuốn sách như Cộng sản sơ giải. Những nguyên lý của chủ nghĩa Lênin, Làm gì?, Ba mươi năm chính quyền Xô viết. Sách dịch xong được chép hoặc in thành nhiều bản để góp phần phổ biến lý luận Mác-Lênin. Với ý nghĩa đó, anh em trong nhóm đã hào hứng đặt tên cho công việc của mình là Nhà xuất bản Hồng Quang.

Dù là đảng viên hay chỉ mới giác ngộ, những người tù kháng chiến vẫn tràn dầy niềm tin vào cuộc kháng chiến của nhân dân ta do Đảng cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo. Họ đã sống, chiến đấu như những người cộng sản. Chống khủng bố, vạch trần tội ác của bọn thực dân xâm lược, đề cao chính nghĩa của cuộc kháng chiến, tổ chức và đấu tranh cùng hàng loạt hoạt động phong phú, sôi nổi trong những ngày thành lập Liên đoàn tù nhân là bằng chứng về sự giác ngộ và trưởng thành của lớp tù nhân kháng chiến.

Bước phát triển trong hoạt động và tranh đấu của tù nhân đòi hỏi trình độ tổ chức và lãnh đạo ngày càng cao hơn, đủ sức ứng phó với những thủ đoạn ngày càng xảo quyệt của kẻ thù. Nhu cầu bức thiết ấy cùng với những biến Cố chính trị trong năm 1950 đã dẫn đến sự ra đời Đảng bộ Côn Đảo, bộ tham mưu chiến đấu của tù nhân Côn Đảo.

Ngày 5-3-1950, những đảng viên trong chuyến lưu đày từ Khám Lớn – Chí Hòa ra Côn Đảo đã hình thành nhóm nghiên cứu mácxít do Trần Chính Quyền phụ trách. Hai tháng sau, thực dân Pháp đày 50 tù nhân ở các nhà lao miền Trung ra Côn Đảo. Giám đốc Laphốt không phân tán tù nhân về các sở tù mà giam riêng chuyến tù này vào Khám 6 Banh II, phiên chế thành một kíp lao động khổ sai đập đá ở dưới chân Núi Chúa. Đoàn tù nhân miền Trung đã làm đơn xin gia nhập Liên đoàn tù nhân và đặt phiên hiệu là khu Trần Phú.

Đoàn tù miền Trung đã thành lập chi bộ đảng từ nhà lao Huế, gồm 11 đảng viên, lấy tên là Chi bộ Nguyễn Chí Diểu, do Lê Trọng Bộ tức Lê Doãn Thiết là bí thư, chi ủy có Lê Quang Thuyết, Lê Nam Kim, Hồ Duy Khoảng, Võ Dự, Lê Trọng Bộ. Chi bộ Nguyễn Chí Diểu đã liên hệ với các đồng chí Nguyễn Đình Thâu và Nguyễn Văn Năm, tha thiết đề nghị các nhóm mácxít sớm thống nhất quan điểm, tiến tới thành lập Đảng bộ nhà tù Côn Đảo. Cuối tháng 5-1950, Ban củ tập đã được hình thành gồm đại diện các chi bộ và nhóm nghiên cứu mácxít, làm nhiệm vụ tập hợp, soát xét lại tư cách của các đảng viên cũ, chuẩn bị thành lập Đảng bộ, Lê Trọng Bộ là Trương ban củ tập.

Ngày 24-6-1950, đoàn tù án chính trị đầu tiên ở nhà lao Hỏa Lò (Hà Nội) gồm 54 người dặt chân lên Côn Đảo. Đoàn tù Hà Nội đã lập chi bộ đảng từ Hỏa Lò, do Lê Đình Cầu làm bí thư, chi ủy có Trần Khắc Du tức Nguyễn Ngọc Cảnh, Doãn Chiêm (Minh Kính). Hai đại biểu của chi bộ Hỏa Lò được bổ sung vào Ban củ tập. Trần Khắc Du được bố trí ra nhà thương với bệnh án kiết lỵ, để làm nhiệm vụ thường trực Ban củ tập. Trần Minh (Minh ốm) y tá tại nhà thương đảm nhiệm đầu mối liên lạc cho thường trực Ban củ tập.

Các đoàn tù ở đất liền liên tiếp bị đày ra Côn Đảo đầu năm 1950 đã bố sung những kinh nghiệm tổ chức và hoạt động ở các nhà lao cho Côn Đảo, góp phần làm biến chuyển về chất lượng lãnh đạo và tố chức tù nhân. Việc củ tập đảng viên, thành lập đảng bộ được khẩn trương triển khai. Hơn 30 đảng viên đã được công nhận trong tháng 7-1950.

Đảng viên được củ tập với điều kiện là khi bắt phải giữ được khí tiết, không đầu hàng khuất phục; vào tù phải có ý thức tổ chức, gương mẫu, có tinh thần chiến đấu, được tập thể tù nhân tín nhiệm và được tập hợp từ cơ sở. Mỗi đảng viên phải được 2 đảng viên khác biết và giới thiệu. Trường hợp không có ai giới thiệu thì phải tự khai báo. Nhưng dù có người giới thiệu, bảo đảm hay chỉ là tư khai báo thì nguyên tắc cao nhất để công nhận đảng viên là phải qua thực tiễn đấu tranh trong tù, thể hiện được phẩm chất đảng viên, được tập thể trong tù công nhận. Cơ sở đảng trong các đoàn tù, các sở tù giới thiệu và nhận xét đảng viên, sau đó gửi danh sách để Ban củ tập xem xét và làm quyết định công nhận đảng viên.

Tháng 8-1950, các cơ sở tiến hành Đại hội thành lập Đảng bộ nhà tù Côn Đảo. Bộ phận thường trực ở nhà thương soạn dự thảo nghị quyết chi bộ, lấy ý kiến các đồng chí trong Ban củ tập, tổng hợp lại rồi gửi đến các chi bộ tham gia ý kiến. Bộ phận thường trực tập hợp ý kiến, bổ sung thành Án nghị quyết của Đảng bộ.

Kế thừa kinh nghiệm của Chi bộ đặc biệt ở nhà tù Côn Đảo trước đây và kinh nghiệm hoạt động ở nhiều nhà tù khác, Đại hội đã xác định nhiệm vụ hàng đầu của Đảng bộ là lãnh đạo đấu tranh đòi cải thiện đời sồng tù nhân và biến nhà tù đế quốc thành trường học cách mạng. Đại hội uốn nắn tư tưởng của một số đảng viên trước đây, quá say sưa với chủ trương “tự giải phóng” chỉ tìm cách vượt ngục mà xem nhẹ việc xây dựng tổ chức, lãnh đạo đấu tranh trong tù.

Đại hội đã bầu ra Ban chấp hành (gọi là Hội ủy để giữ bí mật) gồm 7 người do Lê Trọng Bộ làm bí thư; Nguyễn Đình Thâu là phó bí thư phụ trách tuyên huấn; Trần Khắc Du phụ trách dân vận; các anh Nguyễn Văn Năm, Trần Chính Quyền, Lê Quang Thuyết, Nguyễn Văn Thương là ủy viên phụ trách các cơ sở.

Đảng bộ đánh giá cao tinh thần chiến đấu và ý thức kỷ luật của những người tù kháng chiến cùng với sự trưởng thành của Liên đoàn tù nhân. Từ nay, Liên đoàn được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, giống như một đoàn thể rộng rãi nhất, vừa như là một hình thức chính quyền dân chủ và trực tiếp của tù nhân. Đảng bộ chỉ đạo cải tổ một số điểm trong cơ cấu tổ chức và hoạt động của Liên đoàn. Ban tư pháp được thay bằng Hội đồng kỷ luật. Các hình thức kỷ luật mang tính chất nhục hình, cực đoan được bãi bỏ, thay vào đó là các biện pháp thuyết phục và giáo dục. Đại hội quyết định bồi dưỡng và kết nạp những cán bộ ưu tú của Liên đoàn tù nhân vào Lớp đảng viên tháng Tám (1950).

Thực hiện Nghị quyết của Đảng bộ, từ ngày 19-8- 1950, các cơ SỞ đã tổ chức kết nạp một loạt đảng viên mới – Lớp đảng viên tháng Tám. Những người được kết nạp trong đợt này đã trải qua nhiều cuộc đấu tranh ở Côn Đảo, đã giác ngộ về chú nghĩa cộng sản, chứng tỏ lòng trung thành với Đảng và đều phải được 2 đảng viên giới thiệu.

Lớp đảng viên tháng Tám hầu hết là những người hoạt động tích cực trong Liên đoàn tù nhân Côn Đảo ở các cấp, trong đó các anh: Trịnh Xuân Hà, Nguyễn Văn Thìn, Nguyễn Văn Khang, Vũ Ngọc Toàn, Đặng Nguyên, Lê Ngọc Hương, Lê Tấn Vinh, Ngô Đăng Đức, Trần Văn Đĩnh, Lâm Thái Côn, Trần Văn Hai, Lê Thúc Bính, Nguyễn Văn Trường, Trần Văn Bảy, Lê Hoàng Yến, Võ Tuyền… Các anh Phạm Xuân Thụ, Nguyễn Duy, Đinh Văn Dần, Vũ Ngọc Chung, Lê Đăng Tam không đủ điều kiện trong đợt củ tập tháng 7-1950 cũng được kết nạp lại và công nhận chính thức trong dịp này.

Trong tháng 9 và tháng 10-1950, Đảng bộ tiếp tục kết nạp thêm một số cán bộ có thành tích trong Ban chấp hành Liên đoàn tù nhân ở các khu, trong đó có Tạ Văn Hồng, Nguyễn Trí Tuệ, Nguyễn Văn Tùng, Trần Việt Xuân… Lớp đảng viên mới vừa góp phần tích cực thực hiện nhiệm vụ của chi bộ, vừa trực tiếp tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Liên đoàn tù nhân.

Đầu mối liên lạc và ấn loát của Đảng bộ ở Nhà Thương do Nguyễn Văn Khang và Trần Minh đảm nhiệm. Văn phòng của Bí thư Đảng bộ đặt tại Khám 6 Banh II, Võ Nguyên, Nguyễn Đức Triêm, Võ Bằng, Hò, Hội, vừa làm công tác ấn loát, giao liên và bảo vệ. Nguyễn Văn Giỏi và Huy Nghĩa đặc trách đường dây liên lạc của Đảng bộ giữa Banh I với Banh II và các sở.

Lê Quang Thuyết được Đảng ủy giao nhiệm vụ soạn thảo đề án hoạt động và tranh đấu của Đảng bộ. Lê Trọng Bộ và Trần Khắc Du đã biên soạn nhiều tài liệu phục vụ công tác giáo dục tư tưởng và đường lối của Đảng cho đảng viên và quần chúng như: Tiểu sử Hồ Chủ tịch, Thư của Hồ Chủ tịch gửi các đồng chí Trung bộ, Sửa đổi lề lối làm việc, Cách mạng dân chủ mới, Trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi.

Vào thời điểm đó, tù nhân Sở Củi và Lò Vôi vẫn bị đánh đập nhiều. Ban chấp hành tù nhân khu Sở Củi đã chuẩn bị phương án đấu tranh và đề nghị Liên đoàn phát động các khu hỗ trợ. Đảng ủy đề xuất cuộc đấu tranh toàn đảo bằng hình thức đình công tuyệt thực đòi các yêu sách chính:

– Nhà tù phải nhìn nhận tổng đại diện của tù nhân.

– Giảm nhẹ các mức khổ sai, hạ mức củi.

– Bãi bỏ chế độ hành hạ đánh đập tù nhân.

– Tù nhân đi làm khổ sai không phải đeo xiềng.

– Đảm bảo khẩu phần ăn đúng quy chế, bỏ khô mục, gạo sạn, tuần có 2 bữa thịt.

– Tù nhân đau ốm được khám bệnh và điều trị.

– Được nhận thư từ, bưu kiện, báo chí sách vở và tự do học tập.

– Khám cấm cố được ra sân chơi ngày 2 buổi, sáng và chiều, mỗi buổi 2 giờ.

Giữa lúc đó, qua gácdang Béctơram, tù nhân biết các báo Sài Gòn đều đưa tin về thất bại của thực dân Pháp ở mặt trận Biên giới với những hàng tít lớn:

– Thất Khê lọt vào tay Việt Minh.

– Lepage – Charton bị bắt làm tù binh.

– Việt Minh làm chủ đường số 4.

Tù nhân hết sức phấn khởi lao vào cuộc tranh đấu. Họ dự cảm về cuộc tổng phản công quét sạch thực dân Pháp ra khỏi đất nước không còn xa nữa. Tin tức về các cuộc đấu tranh thắng lợi của tù nhân ở Chí Hòa củng góp phần cổ vũ họ.

Theo sự chỉ đạo chung, tù nhân các khu Sở Củi, Chỉ Tồn và các Sở khổ sai tuyệt thực mở màn. Ngày hôm sau, kíp tù áo trắng và nhiều khám khác tuyên bố tuyệt thực đình công. Khám 1 (áo trắng) và Khám 6 (cấm cố) đập bể khạp nước, tuyệt ẩm luôn, đồng thời cởi hết quần áo, chất đống ngoài cửa, sẵn sàng chịu trận. Khí thế cuộc đấu tranh lên rất cao.

Ngày thứ 3 thì khí thế chững lại. Nhóm Mười Võ Sĩ ở Sở Củi và một số tù tư pháp ở các khám nhảy ra ăn. Mười Võ Sĩ trước đã tham gia Ban chấp hành tù nhân khu Sở Lưới, sau vụ âm mưu cướp tàu Nicôlô không thành, bị đưa về cấm cố ở Khám 7 rồi làm khổ sai ở Sở Củi. Giống như phần đông số tù tư pháp, Mười Võ Sĩ chưa quen rèn luyện và chịu đựng những hình thức đấu tranh ở mức cao như tuyệt thực. Sau này, y ngả về phe Liên xã, đối lập với Liên đoàn.

Mặc dù không đánh đập khủng bố như trước, Laphôt dứt khoát không chấp nhận tổng đại diện. Hắn chỉ ra lệnh cho Giám thị trưởng Rônhông mời một đại diện tù nhân ra Văn phòng thương lượng. Anh Thái Mập tức Lê Văn Trình, số tù c. 11746 là Chủ tịch ủy ban tranh đấu được cử ra thay mặt cho toàn thể tù nhân. Rônhông yêu cầu tù nhân chấm dứt tuyệt thực, đi lao động bình thường. Hắn hứa sẽ nghiên cứu giải quyết các yêu sách, trừ việc nhận tổng đại diện.

Cuộc tuyệt thực kết thúc sau buổi thương lượng. Cả hai phía đều có sự nhân nhượng. Nhà tù bớt đánh đập, chế độ ăn uống được cải thiện khá hơn. Một thời gian sau chúng mới bỏ hẳn kiểu phạt xiềng. Sở Củi được hạ bớt mức khổ sai và ít bị đòn roi. Việc sinh hoạt và học tập của tù nhân được dễ dàng hơn trước.

Trong dịp kỷ niệm ngày toàn quốc kháng chiến năm ấy, tù nhân Sở Củi biên soạn và dàn dựng vơ ca kịch Ngọn đuốc Bác Hồ, trình diễn tại sân củi trưa 19- 12-1950, có kíp tù làm đường cạnh đó đến xem. Mở đầu vở kịch là cảnh giữa đêm tối, mọi người mò mẫm đi, không tìm ra đường lối và vấp ngã. Cảnh 2 xuất hiện ngọn đuốc, tượng trưng cho tư tưởng cách mạng của Bác Hồ. Nhờ ánh đuốc soi đường mở lối, mọi người đã đứng dậy nô nức đi theo. Cảnh 3 là tất cả vây quanh ngọn đuốc, kết thành hình ngôi sao 5 cánh, tượng trưng cho sự đoàn kết của dân tộc Việt Nam xung quanh Đảng – Bác. Nhiều thầy chú cai quản hai kíp tù cũng xem và tỏ ra xúc động.

Trong dịp ấy, tù nhân Sở Củi và Sở rẫy An Hải đã tranh thủ sự ủng hộ của các thầy chú bằng cách bán đấu giá một chiếc áo len để lấy tiền ủng hộ tù nhân khám tử hình và cấm cố. Ban chấp hành tù nhân thu được gần một ngàn đồng (tiền Đông Dương) cho quĩ xã hội của Liên đoàn.

Gần Tết âm lịch 1951, Laphốt mới cho trả lại một số sách báo, tư trang mà bọn gác ngục tịch thu trước đó. Hắn cũng cho trả các bưu kiện mà nhà tù còn giữ lại. Đại diện của tù nhân đã đưa yêu sách đòi tổ chức vui chơi trong ngày tết; các khám được thăm nhau theo phong tục cổ truyền. Được Giám đốc nhà tù đồng ý, Ban kịch Khám 6 đã qua Khám 5 (Chỉ Tồn) trình diễn vở kịch Hội nghị Diên Hồng do Vũ Đắc Bằng biên soạn. Gácdang, thầy chú trực phiên hôm đó đứng ở cửa Khám 5 ngó xem.

Tết ấy, các khám đều lập bàn thờ Tổ quốc, có cờ đỏ sao vàng và ảnh Bác Hồ. Có khám làm cả bản đồ Tổ quốc Việt Nam bằng bông gòn dán trên giấy rồi phun thuốc đỏ, vị trí thủ đô Hà Nội được điểm một ngôi sao vàng. Laphôt đến thăm Khám 6 cấm cố, tỏ thái độ trân trọng và trang nghiêm trước bàn thờ Tổ quốc Việt Nam. Đó là cử chỉ mị dân cuối cùng của chúa đảo Laphốt, trong khi hắn đã chuẩn bị một âm mưu mới thâm độc hơn và tàn ác đối với tù nhân kháng chiến.

Nguồn: Lịch sử nhà tù Côn Đảo 1862 – 1975

Xem thêm:

Côn Đảo trong buổi đầu kháng chiến chống Thực dân Pháp (1945 – 1946)

Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, ngày 2/9/1945, tại vườn hoa Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ cách mạng lâm thời trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á.

Nhưng không lâu sau ngày tuyên bố độc lập ấy, thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta. Trải qua một thời gian nhân nhượng, chuẩn bị tiềm lực mọi mặt, ngày 19/12/1946, kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Đây thực sự là thời khắc trọng đại của lịch sử dân tộc.

Tự do và thử thách

Sau khi đưa toàn bộ tù chính trị và tù thường phạm đã giác ngộ về tham gia kháng chiến, kể cả những người quốc tịch Lào, Khơme, Thái Lan, và Trung Quốc, đặc phái viên của Chính phủ, Đảo ủy đã sắp xếp cho gần một ngàn tù thường phạm ở lại được sinh hoạt tự do, dưới sự quản lý hành chính của Lê Văn Trà.

Bên cạnh đó, có Hội đồng tù nhân giống như hình thức chính quyền liên hiệp trước đó, nhưng có khác một điểm căn bản là hội đồng này gồm toàn tù thường phạm. Bộ máy hành chính ở đảo được giữ lại những cơ quan cần thiết, và được tổ chức lại theo mô hình của một chính quyền Việt Minh. Các đoàn thể Thanh mến cứu quốc Phụ nữ cứu quốc, Thiếu nhi cứu quốc vẫn được duy trì. Cờ đỏ sao vàng được treo trên các trụ sở và cơ quan.

Những người tù thường phạm ở lại đều được tự do, được đi lại tìm kiếm công việc làm ăn như mọi công dân khác. Một số tù nhân có tay nghề và sức khoẻ được chọn vào kíp đánh cá ở Sở Lưới và phục vụ tại Nhà Đèn, còn phần lớn thì làm ruộng làm rẫy để giải quyết lương thực, thực phẩm. Những người trước đây quen ở Sở rẫy nào thường tìm về sở cũ để trồng tỉa. Họ hưởng một phần lớn hoa màu và đóng góp một phần hoa lợi vào việc duy trì bộ máy hành chính.

Số gác ngục quốc tịch Pháp còn ở đảo và số thủy thủ người đáo Madagascar bị đắm tàu được tập trung tại Banh III. Trường tiểu học vẫn mở cửa. Con em của các công chức và gác ngục tới trường khai giảng một năm học mới, nhưng chương trình chưa có gì thay đổi. Các công chức vẫn tới nhiệm sở. Một số tư thương ở đất liền theo thuyền đánh cá đem hàng ra đảo buôn bán.

Đằng sau vẻ yên tĩnh bề ngoài, người dân Côn Đảo vân nơm nớp lo âu vì những tin tức tái chiếm của thực dân Pháp; vì thiếu liên lạc và tiếp tế từ đất liền; vì nguy cơ không thể tự túc được khi kho lương thực dự trữ đã sắp cạn, v.v… Chế độ cai trị tàn bạo của thực dân Pháp đã để lại hố ngăn cách quá sâu, khó lấp cho bằng giữa những viên gác ngục thô bạo trước đây và những tội nhân thường phạm đã bị lưu manh hoá. Cả hai nhóm người này đều chẳng ai muốn ở lại đây nữa, nhất là tháng 10-1945, một tàu chiến Pháp chạy qua nã đại bác vào Côn Đảo, đạn rơi trúng Banh III làm chết mấy thủy thủ người Madagascar thì nỗi lo sợ và tâm trạng đó lại càng tăng lên gấp bội.

Trung tuần tháng 12-1945, ủy ban hành chính lâm thời Nam Bộ lại cử phái đoàn Văn Cừ ra Côn Đảo lần thứ hai, với nhiệm vụ thu gom vũ khí và đưa một số máy móc ở Bản Chế về trang bị cho xưởng quân giới Nam Bộ. Trưởng đoàn Văn Cừ đã chấn chỉnh lại bộ máy chính quyền trên đảo, kêu gọi những công nhân là thường án trước đây yên lòng ở lại làm ăn, chờ khi có điều kiện, thì Chính phủ sẽ đưa thuyền ra đón. Trong lúc chờ đợi, nếu ai tự chuẩn bị được phương tiện thì Chính phủ không cấm việc trở về quê quán.

Trước sự chứng kiến của phái đoàn Văn Cừ, Lê Văn Trà tổ chức một cuộc bầu cử dân chủ trên đảo vào ngày 11-12-1945. Sáu đại biểu của giới công chức, giám thị cũ và sáu đại biểu của tù thường phạm cũ đã được bầu vào chính quyền mới. Ngày 15-12-1945, ủy ban hành chính mới – do Trương Văn Thoại (tức Sơn Vương) làm chủ tịch đã ra mắt dân đảo. Lê Văn Trà và số lính bảo an theo phái đoàn Văn Cừ về đất liền.

Trương Văn Thoại người gốc Gò Công, thân sinh là điền chủ Trương Đình Cung. Thoại được học hành, sáng tác được vài truyện ngắn, in thành tập sách nhỏ hoặc đăng tải trên báo chí hàng ngày, trong đó có truyện Chén cơm lạt được độc giả chú ý, nhưng rồi cuộc sống xô đẩy Thoại vào con đường giang hồ, trở thành tướng ướp nổi danh ở chợ Cầu ông Lãnh.

Sơn Vương – Trương Văn Thoại có ít nhiều uy tín trong đám công chức và trong giới tù. Bề ngoài Sơn Vương mềm mỏng, cởi mở, nhưng khi cần có thể thi thố những thủ đoạn “kinh thiên động địa”, làm cho các phe chống đối cũng phái nể sợ. Buổi đầu nắm quyền, Sơn Vương được dư luận xem là người sốt sắng với bổn phận, tỏ ra thật sự quan tâm đến công việc chung. Sau buổi lễ ra mắt của ủy ban hành chính Côn Đảo Sơn Vương tổ chức đợt lao động gặt lúa tập thể. Chỉ trong mấy ngày, các ruộng lúa trên cánh đồng phía tây Côn Đảo đã được gặt xong. Thóc lúa sau khi phơi khô được chuyển vào các kho của đảo. Đám công chức, giám thị xưa chỉ quen việc quản tù, nay cũng phải lao động thật sự. Các thành viên trong ủy ban cũng tham gia lao động với mọi người.

Ủy ban cải tiến một số quy định trong việc đánh bắt và phân phối cá để khuyến khích sản xuất. Theo quy định mới, Sở Lưới tổ chức đánh cá theo kiểu kinh doanh tư nhân, buổi đầu có hoạch toán. Cá đem bán chứ không phân phối như trước. Tiền bán cá một phần do Sở Lưới quản lý để mua sắm ngư cụ, một phần chia cho người đánh bắt. Biện pháp này làm cho nhân viên Sở Lưới phấn khởi, sản lượng cá tăng lên đáng kể.

Tình hình vệ sinh trên đảo cũng có tiến bộ. Uy ban quy định mỗi nhà phải có thùng rác và tự làm vệ sinh khu vực công cộng trước nhà. Xe của Sở Vệ sinh sẽ đến thu rác vào những giờ nhất định. Mỗi gia đình tự thanh toán tiền cho nhân viên Sở Vệ sinh. Khu vực nào bẩn hoặc có rác đổ bừa bãi thì những nhà gần đó đều phải liên đới chịu trách nhiệm. Những quy định đó tuy có vẻ khắt khe nhưng đem lại hiệu lực là sạch đẹp thị trấn.

Ủy ban khuyến khích tư nhân mở cửa hàng buôn bán; khuyến khích những tư thương trong đất liền đem hàng ra đảo, đồng thời có biện pháp ngăn cấm việc đầu cơ tích trữ và tự tiện nâng giá hàng. Để khắc phục tình trạng khan hiếm thuốc chữa bệnh, một lương y đã được mời ra thành lập Ban thuốc Nam để tìm kiếm dược liệu và trị bệnh cho dân.

Sau nạn thiếu lương thực, thực phẩm thì nạn khan hiếm vải mặc cũng là một mối lo lắng của người dân đảo Hội phụ nữ đã tận dụng số vải vụn trong kho, may thành quần áo cộc để phát cho những người không đủ vải che thân. Cô Hoàng Hoa, giáo viên trường tiểu học, con Vệ Liễn (Giám thị trưởng thời Lê Văn Trà) được Sơn Vương giới thiệu làm Hội trưởng Hội phụ nữ thay Huỳnh Thị Bốn (con giám thị Chuẩn).

Đối với người dân Côn Đảo thời ấy, vượt lên trên cả mối lo thiếu ăn, thiếu mặc là sự nhũng nhiễu của những người có quyền thế. Sở cảnh sát do Nguyễn Thành Út nắm. Út nổi tiếng là tay bịp bợm, bị án 10 năm khổ sai và lưu xứ, bị đày ra Côn Đảo ngày 17-10-1939. Ngay khi đắc cử cảnh sát trưởng quần đảo, Út đã đưa lũ đàn em lưu manh vào Sở cảnh sát. Hậu quả là nạn cướp bóc, cạy cửa khoét vách, bắt người tống tiền xảy ra liên miên.

Ủy ban tổ chức cho dân đảo bầu Hội đồng dân biểu – cơ quan tư vấn và thanh tra hoạt động của chính quyền. Hội đồng gồm 6 ủy viên: Một công dân gốc thường án, một thi sĩ, một chủ nhà máy đèn, một đại diện lính bảo an, một nữ giáo viên tiểu học, một nữ quốc tịch Pháp và một thủy thủ người Madagascar. Hội đồng có nhiệm vụ thu thập ý kiến của dân và hạn chế những việc bắt người vô cớ ức hiếp dân chúng của những kẻ có quyền thế. Trước tình thế quần đảo bị cô lập và dân chúng thiếu an tâm, ủy ban cứ phái đoàn về đất liền xin tiếp tế và vận động một số phụ nữ ra đảo lập nghiệp, xây dựng gia đình với anh em tù nhân cũ.

Trần Phẩm (cựu tù nhân) và giám thị Đức, hai thành viên trong ủy ban được giao nhiệm vụ này. Nhưng khi ấy Pháp đã chiếm Sóc Trăng nên họ không liên lạc được với ủy ban hành chánh Nam Bộ và không tìm được đồng chí Văn Cừ. Giám thị Đức ở lại Sóc Trăng, còn Trần Phẩm quay trở lại đảo với những tin tức làm nản lòng mọi người: Pháp đã chiếm hầu hết các tỉnh Nam Bộ, giao thông tắc nghẽn, không có triển vọng gì sáng sủa.

Khả năng Pháp tái chiếm Côn Đảo là có thật. Nhiều người đã bí mật tìm cách vượt đảo, mặc dù họ biết, nếu bị phát hiện hoặc đi không thoát sẽ bị Sơn Vương xử phạt rất nặng (9 tháng xà lim).

Thực dân Pháp tái chiếm Côn Đảo, lập lại nhà tù Côn Đảo

Ngày 18-4-1946, ba chiến hạm Pháp đã đổ bộ 2 đại đội bộ binh lên chiếm lại Côn Đảo. Mờ sáng, khi nước thủy triều đang lên thì chiến hạm Pháp bắn đại bác dọn đường. ít phút sau, tàu đổ bộ cập bãi Nhà Thờ. Bộ binh Pháp, lính âu Phi và cả lính bản xứ kéo về thị trấn theo đội hình hành quân. Tên tù gian Đoàn Công Thành đã kịp lẻn ra Sở Muối cung cấp tin tức và dẫn đường cho lính Pháp chiếm đảo. Cuộc hành quân tái chiếm không gặp trở ngại gì.

Sơn Vương tập trung dân chúng tại trụ sở để nghe ông đọc bản diễn văn bàn giao chính quyền. Đại úy Gimbe (Gimbert), người chỉ huy cuộc hành quân tái thiết không cần đến bài diễn văn ấy. Gimbe ra lệnh bắt giam Sơn Vương và bốn trăm cựu tù thường phạm còn lại.

Gimbe trở thành Giám đốc quần đảo và Nhà tù Côn Đảo, tên chúa đảo thứ 34 người Pháp. Gimbe có nhiệm vụ nhanh chóng khôi phục nhà tù Côn Đảo để đưa số tù kháng chiến đang đầy ắp ở Khám Lớn Sài Gòn ra đảo.

Tính cấp bách của việc tái chiếm quần đảo, khôi phục nhà tù là một lý do khiến cho người ta có thể hiểu được vì sao người Pháp lại phải dùng đến hai đại đội bộ binh, dưới sự yểm trợ của không quân và pháo binh đặt trên 3 chiếc tàu chiến, cùng với một đơn vị xe bọc thép để tấn công một hòn đảo không có lực lượng võ trang, không có lấy một khẩu súng trường và công sự chiến đấu Trong khi đó thì quân Pháp đang phải căng mỏng trên khắp các mặt trận ở đất liền.

Gimbe tiếp quản ngay được cơ ngơi đồ sộ của một nhà tù nổi tiếng ở Đông Dương. Côn Đảo còn nguyên dáng dấp của một thị trấn tù với những biệt thự tiện nghi cho quản ngục cùng với ba trại giam cỡ lớn và 30 sở tù rải khắp đảo đã từng chứa đến hơn 5.000 tù trong những năm trước. Trong điện văn số NR-26 gửi ủy viên cộng hoà Pháp tại Nam Kỳ, Gimbe đã mô tả thực trạng Côn Đảo:

“Khi tôi đến, thì thấy tình trạng Côn Đảo rất khá quan. Nhà cửa còn nguyên vẹn, phố xá sạch sẽ, nhà nào cũng còn đồ đạc, nhà máy điện vẫn đang hoạt động. Bốn gác – dang quốc tịch Pháp còn ở lại với gia đình họ. Bốn thủy thủ người đảo Madagascar đã ra đi, số người còn lại ở lại đều khỏe mạnh. Họ không bị xử tệ quá đáng”.

Gimbe bắt tay vào việc củng cố lại nhà tù. Theo sau đội quân tái chiếm có cả những gác dang Pháp từng ớ Côn Đảo và Khám Lớn trước đây. Những thấy chú (giám thị người Việt) có mặt ở Côn Đáo cũng được gọi ra làm việc lại.

Sau hơn một tháng củng cố lại bộ máy nhà tù, Gimbe đã tiếp nhận chuyến tù nhân kháng chiến đầu tiên, bị đày từ Khám Lớn Sài Gòn ra Côn Đảo vào cuối tháng 5-1946, gồm hơn 300 người.

Từ năm 1946 đến 1950, Côn Đảo chỉ có một loại tù án. Phần lớn họ là người tham gia kháng chiến bị thực dân Pháp bắt và đưa ra tòa án binh xét xử. Tháng 4-1951, thực dân Pháp mới bắt đầu đưa tù binh ra Côn Đảo. Phân biệt tù binh với tù án chỉ là sự phân biệt theo thủ đoạn cai trị của thực dân Pháp. Thực chất, họ đều là những người kháng chiến. Trong số tù án còn có tù án chính trị và tù án tư pháp (thường phạm), nhưng sự phân biệt rõ rệt nhất, và cũng là sự phân hóa sâu sắc nhất trong nội bộ tù nhân giai đoạn này là tù trung kiên và tù giam.

Tính đến ngày 31-12-1946, Nhà tù Côn Đảo có 784 tù nhân (Báo cáo nguyệt kỳ số 774P ngày 8-2-1947). Mọi sinh hoạt trên đảo đều dựa vào sức lao động của tù nhân, như việc sản xuất lương thực thực phẩm, công việc điện nước cho đến công việc thư ký, kế toán tổng hợp, sửa chữa máy móc các loại, sản xuất công cụ lao động, v.v… Đây là lối bóc lột tù nhân một cách triệt để của thực dân Pháp, nhưng đồng thời cũng là một lợi thế khi người tù ý thức được vị trí của họ.

Bộ máy điều hành nhà tù vẫn tuân theo Quy chế ngày 17-5-1916. Dưới quyền Giám đốc là Giám thị trưởng, kế đó là xếp banh và các chủ sở rồi đến giám thị Pháp, Việt. Bên cạnh đó có bộ máy hành chánh phục vụ cho nhà tù bao gồm Kho Bạc, Nhà Thương, Nhà Đèn, Sở Dây Thép, Sở Cò (hiến binh), Sở Rờsẹc (truy tầm tù trốn), Trường tiểu học Pháp Việt, hợp tác xã tiêu thụ… Trong bộ máy hành chính này thì Chủ sở Kho Bạc có vị trí quan trọng ngang với Giám thị trưởng, có thể thay thế khi Giám đốc vắng mặt.

Chế độ khổ sai, chế độ kỷ luật của nhà tù và sự tàn bạo của gác ngục Pháp nhìn chung không có gì khác trước Đốn củi, kéo gỗ, dọn tàu, mò san hô, sửa pha Bảy Cạnh hay đập đá, làm đường… vẫn là những công việc khổ sai rùng rợn. Đòn roi như cơm bừa, xiềng đơn, xiềng đôi xiềng tạ, xà lim, hầm dá, cấm cố, biệt lập là những hình thức phổ biến để trấn áp người tù. Vẫn cảnh đánh phủ đầu từ cầu tàu, bắt ngồi cúi đầu điểm danh bằng cách gõ cù ngoéo lên đầu; vẫn trần truồng “múa phượng hoàng” cho chúng xét khi qua cửa. Tù nhân kháng chiến đã phải đổ khá nhiều máu để chống lại những lối hành hạ man rợ ấy.

Gác ngục thì mỗi tên một vẻ hung ác. Viđan, Pôn Henri, Ăngđơrê, Loadô, Saden thích đánh tù như một thú tiêu khiển. Không thấy máu tù chảy là chúng ăn cơm không ngon. Lanh ghê thường dùng cù ngoéo có đóng đinh, đánh vào đâu là dứt thịt, toé máu. Noócmăng đánh tù bằng bất cứ thanh sắt, khúc củi hay hòn đá nào mà hắn vớ được. Bênarét là hung thần Sở Củi. Hắn đừng đánh đến chết một tù nhân ngay tại sân củi vì không chịu nộp đủ mức khổ sai vào tháng 11-1948.

Có những tên say máu như Giuyếcvave đuổi bắn một tù nhân tay không gục ngã rồi còn cố bắn hết hai băng đạn vào đầu nạn nhân. Tên Nôvắc, chủ Sở Rờsẹc, có đủ kiểu tra tấn tàn bạo, đến nỗi bọn giám thị thường đem hắn ra để dọa tù nhân: “Chừng chúng mày muốn gặp Vô vắc phải không?”.

Nhưng bộ máy nhà tù cũng phân hoá rất sớm. Giám thị trưởng Tút tu đã lâu năm ở Côn Đảo, thạo nghề coi tù và có nhiều kinh nghiệm điều hành. Tút tu được lòng nhiều giám thị Việt Nam và gác dang Pháp. Họ làm theo bổn phận hơn là hận thù. Họ hiểu tù kháng chiến là những người thật sự yêu nước và có nhân cách. Họ giữ được cảm tình và sự tôn trọng đối với tù chính trị trước đây.

Số gác dang hung ác như Viđan, Noócmăng, Pôn Hiền, Saden, Loadô, v.v… thì tập hợp xung quanh Giám đốc Gimbe và chủ kho bạc Phờ rê den, ngấm ngầm chuẩn bị một kế hoạch vu cáo phe Tút tu với tội danh “thân Việt Minh”.

Lớp tù kháng chiến đầu tiên mới đến Côn Đảo hơn một tháng đã phải đổ máu và điêu đứng vì mưu mô thanh trừng nội bộ của bọn thống trị. Chuyến tàu đổ bộ chở trên ba trăm tù nhân đầu tiên cập bãi Nhà Thờ vào trưa 27-5-1946. Phần lớn tù nhân ra chuyến này là người kháng chiến, trong đó có 56 người mang án tử hình và 22 chiến sĩ Vệ Quốc đoàn thuộc Đại đội Ký Con bị bắt trong trận tiến công chiếm lại đảo Cô Tô (vịnh Bắc Bộ) tháng 11-1945.

Thực dân Pháp không áp dụng quy chế tù chiến tranh mà xử họ tại các toà án thực dân giống như chúng đã áp dụng đối với những chiến sĩ trong các lực lượng võ trang Nam Bộ. Đại đội trướng Lê Phú và trung đội trường Nhâm Ngọc Bình bị kết án tử hình (sau giảm xuống chung thân), 20 chiến sĩ bị kết án chung thân khổ sai. Nhiều người bị kết án khi chưa đủ tuổi thành niên như Đặng Ngọc Bình (số tù C.11347), Phùng Như Hồ (C.11351), Đặng Thừa Hiền (C.11311), Nguyễn Văn Sỹ (C.11310)…

Những người bị bắt trong buổi đầu thang Pháp tại mặt trận Sài Gòn – Gia Định – Chợ Lớn hầu hết là thanh niên, trí thức xuất thân từ học sinh, sinh viên, công nhân viên chức. Có người đã tham gia trong cao trào Cách mạng tháng Tám, có người mới giác ngộ trong những ngày đầu kháng chiến; song, trong thời điểm cách mạng “một ngày bằng hai mươi năm” họ đã trưởng thành vượt bậc và có bản linh chính trị vừng vàng. Họ đã chiến đấu gan góc trên mặt trận và bị bắt trong những trận giao tranh không cân sức.

Trước đòn tra tấn của mật thám cũng như trước toà án thực dân, họ tỏ rõ khí phách của người dân một nước độc lập chống cuộc xâm lăng của bọn thực dân. Tư thế Của người công dân nước Việt Nam độc lập và lòng tin sắt đá vào Chính phủ kháng chiến Hồ Chí Minh là nguồn sức mạnh to lớn, tạo nên dáng vóc của người tù kháng chiến. Lời thề với non sông thà chết không chịu làm nô lệ, quyết tử cho Tố quốc quyết sinh đã thực sự trở thành ý chí sắt đá của họ.

Trước khi ra Côn Đảo, họ đã trải qua một cuộc đọ sức quyết liệt và một thời kỳ hoạt động sôi nổi ở Khám Lớn Sài Gòn. Những người tù kháng chiến vào Khám Lớn khi chế độ cặp rằng còn ngự trị. Bọn quản ngục sứ dụng những tay “anh chị” trong làng “đao búa” làm cặp rằng để duy trì kỷ luật, trật tự, vệ sinh. Mỗi cặp rằng lại tập hợp một lũ đàn em từng có án cướp của, giết người, sẵn sàng đâm thuê chém mướn. Các tay “anh chị” sau khi dám ăn thua đủ với nhau mới phân ngôi thứ rồi chia nhau cai trị các khám. Khám 1 có Tư Bé, Khám 2 có Tư Giàu, Mười Võ Sỹ, Khám 3 có Tư Ba Đào…

Chế độ cặp rằng là thủ đoạn dùng tù trị tù, là sự thỏa hiệp giữa các cai ngục và “tù anh chị” để trấn áp và bóp nặn người tù. Đó là lối áp bức, bóc lột tinh vi, vô hạn định và không bị ràng buộc bởi bất cứ qui chế nào. Lực lượng tù chính trị do các anh Phan Trọng Bình, Vũ Huy Xứng lãnh đạo đã tổ chức lật đổ chế độ cặp rằng. Hạt nhân của lực lượng đó là Đội xung kích, gồm những người can đảm và giỏi võ thuật. Đó là những chiến sĩ quyết tử, đội viên các Ban công tác thành, các chi ấn sĩ Cô Tô…

Cuộc tấn công vào bọn cặp rằng đã nổ ra vào sáng ngày 12-3-1946, đầu tiên tại Khám I. Bọn cặp rằng và tay chân bị chặn đánh bất ngờ ngay khi chúng xúm vào tranh cướp đồ thăm nuôi của tù nhân. Với dũng khí áp đảo lực lượng xung kích đã giao tranh kịch liệt với bọn cặp rằng.

Bọn chúng bị đánh mẻ đầu, sứt trán phải quỳ lạy, xin những người tù kháng chiến tha tội chết. Đúng lúc đó thì bọn gác dang đến can thiệp.

Đại diện tù nhân đã đứng ra vạch rõ tội ác chồng chất của bọn tù lưu manh và yêu cầu bãi bỏ chế độ cặp rằng, để tù nhân tự bầu lấy đại biểu của mình. Trước khí thế của tù nhân và những chứng cớ không thể chối cãi được, bọn thống trị phải đồng ý với yêu sách hợp lý của họ.

Trưa hôm ấy, trong khí thế hừng hực cách mạng, tù nhân Khám 1 đã bầu ra đại biểu một cách dân chủ. Anh Lương Văn Thắng được bầu làm đại diện của Khám 1. Ngoài ra, anh em còn bầu ra Ban trật tự, Ban xã hội, Ban bình dân học vụ, Hội đồng hoà giải tù nhân. Chế độ dùng tù đàn áp tù đã chấm dứt. Không còn cảnh tranh cướp trong các bữa ăn, cảnh bài bạc, hút xách, đấm bóp nữa. Ngày thăm nuôi, Ban xã hội trải chiếc chiếu lớn gần cửa. Ai có đồ tiếp tế đều tự nguyện để lại trên chiếu một phần, Ban xã hội sẽ chia đều cho những người không có. Chiếu làng trở thành một nét truyền thống đẹp, là biểu tượng cho tình thương yêu, nhường cơm sẻ áo của người tù kháng chiến.

Các anh Phan Trọng Bình, Vũ Huy Xứng tiếp tục tổ chức lực lượng và đổi quân đi các khám khác để thực hiện “nền dân chủ khám đường trên phạm vi toàn Khám Lớn. Bên cạnh hai anh còn có anh Tưởng Dân Bảo, một người cách mạng giàu lý luận và dày dạn kinh nghiệm đấu tranh ở nhà tù Côn Đảo trước đây. Được bổ sung bằng cả tinh thần và lực lượng của Khám 1, các Khám 2, 4, đã lần lượt đánh đổ, bầu ra đại biểu của tù nhân.

Do tương quan lực lượng tại chỗ, có khám phải làm tới lần thứ 2, thứ 3 mới lật đổ được chế độ cặp rằng. Riêng Khám III, anh Vũ Huy Xứng đã đổi lên đó và tranh thủ được cặp rằng Tư Ba Đào. Sau bảy ngày đêm ‘tâm sự”, Tư Ba Đào đã cảm phục và tôn những người kháng chiến vào bậc các “Anh Lớn”. Việc Tư Ba Đào đoạn tuyệt với quá khứ giang hồ, theo gương các “Anh Lớn” đã ảnh hưởng sâu sắc đến quá trình đoàn kết giữa tù thường phạm và tù kháng chiến ở Khám Lớn Sài Gòn trước đó và ở Côn Đảo sau này. Cuộc đấu tranh lật đổ chế độ cặp rằng và thực hiện nền dân chủ khám đường tại Khám Lớn Sài Gòn được tù nhân kháng chiến gọi là cuộc “Cách mạng khám đường”.

Anh Huỳnh Tấn Phát, một trí thức yêu nước được cử làm Tổng đại diện đầu tiên của toàn thể tù nhân Khám Lớn. Thực hiện khẩu hiệu “Biến khám đường thành học đường”, các lớp chính trì, lý luận quân sự, võ thuật, bình dân học vụ ngắn ngày được mở tại các khám. Hoạt động báo chí, văn nghệ, âm nhạc của tù nhân cũng phát triển sôi nổi chưa từng thấy. Mô hình tổ chức và hoạt động của tù nhân Khám Lớn. được những người tù kháng chiến áp dụng thành công ở Côn Đảo.

Cuộc nổi dậy chống chế độ cặp rằng và thiết lập “nền dân chủ khám đường” ở Khám Lớn Sài Gòn có ảnh hưởng sâu sắc đến cả một thế hệ tù nhân kháng chiến từ Khám Lớn đến Chí Hoà ra tới Côn Đảo. “Cách mạng khám đường” và những thành quả của nó là khúc dạo đầu của bản anh hùng ca Côn Đảo thời kỳ 9 năm kháng chiến chống Pháp (1945-1954).

“Vụ âm mưu” đẫm máu

Chuyến tù kháng chiến đầu tiên bị lưu đày ra đảo lúc cuộc đàm phán Pháp – Việt sắp mở tại Phôngtennơbơlô (Fontainebleau – Paris). Chúa đảo Gimbe thuộc phái thực dân hiếu chiến. Hắn đón những người tù kháng chiến bằng trận đòn thù với hèo mây, cù ngoéo, báng súng khi họ bị giải từ bãi Nhà Thờ về Banh I. Ngày hôm sau, chưa hết cái đau ê ẩm của đòn roi và sóng biển, đoàn tù áo xanh lại phải ra dọn tàu, một loại công việc khổ sai nặng nhọc. Họ phải làm quần quật từ sáng sớm đến đêm khuya dưới ngọn roi và báng súng trong ba ngày đêm ròng rã.

Giám đốc và Xếp chánh thường xuyên có mặt để đốc thúc việc dọn tàu. Bọn gác ngục được dịp thẳng tay đánh tù cho vừa lòng Giám đốc và cũng là để dằn mặt, răn đe. Máu tù nhân đổ dài trên đường vận chuyển lương thực, thực phẩm, vật liệu từ cầu tàu về kho chứa vài ngày sau đợt dọn tàu, đoàn tù kháng chiến được phân bổ về các sở, trong đó một số người có văn hoá được đưa ra làm thư ký văn phòng, bồi bếp.

Buổi đầu chưa có tổ chức và lãnh đạo thống nhất, tù kháng chiến tự động liên hệ với nhau, cứ ra đại diện để giao thiệp với nhà tù và cắt đặt trật tự, vệ sinh trong khám. Kinh nghiệm đấu tranh ở Khám Lớn đã giúp họ có ý thức ngăn chặn ngay việc lập lại chế độ cặp rằng ở Côn Đảo.

Tù kháng chiến phần lớn là thanh niên đang sục sôi khí thế cách mạng, vào tù vẫn còn hừng hực lời thề quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh. Vừa ra đến Côn Đảo, nhiều người đã tìm cách vượt ngục về tiếp tục tham gia kháng chiến. Táo bạo hơn, một số người đã tính đến cả chuyện bạo động cướp đảo. Chủ trương bạo động do một nhóm tù nhân gồm cụ Tú Oanh và các anh Phạm Gia, Trúc Quỳnh khởi xướng.

Cụ Tú Oanh (Võ Oanh) làm bồi ở trại lính, biết rõ lực lượng phòng thủ và quy luật hoạt động của bọn lính. Gần 2 đại đội lính tham gia tái chiếm Côn Đảo đã rút về gần hết để phục vụ kế hoạch đánh lấn ra Bắc Bộ. Trại lính Côn Đảo chỉ còn vẻn vẹn 18 tên. Buổi chiều chúng thường để súng trong trại rồi rủ nhau đi tắm biển; trừ vài tên làm nhiệm vụ canh gác. Cụ Võ Oanh nêu phương án cướp súng, bắt tốp lính gác vào thời điểm bọn lính đi tắm biển; cùng lúc ấy cho nổ tung nồi hơi Nhà Đèn, phát lệnh bạo động.

Anh Trúc Quỳnh làm bồi bếp lại đề xuất phương án đầu độc hàng loạt bọn lính và gác dang. Nếu 2 phương án trên không thực hiện được thì sẽ chờ dịp cướp tàu khi có điều kiện thuận lợi. Nhóm bạo động đã liên hệ với một số tù nhân ở các cơ sở để bàn việc tổ chức và bố trí lực lượng.

Trong tương quan lực lượng lúc đó, việc cướp đảo không mấy khó khăn. Lực lượng phòng thủ của địch chỉ có 18 tên mà ta đã nắm rõ quy luật hoạt động và những sơ hở của chúng. Gác ngục Pháp, Việt chưa đầy một trăm tên, trong đó quá nửa là thầy chú người Việt đã có sự phân hoá từ sau Cách mạng tháng Tám 1945, còn lại non nửa là gác dang Pháp vừa ra đảo mà nội bộ đang lục đục mâu thuẫn. Tàu tuần tiễu và tiếp tế cho Côn Đảo trong tháng 6 rất thưa thớt.

Lực lượng tù nhân kháng chiến hầu hết là những chiến sĩ dám xả thân vì độc lập và tự do của Tổ quốc. Họ đã từng giáp mặt với đạo quân viễn chinh nhà nghề có xe tăng và đại bác yểm trợ, khi trong tay họ chỉ có tầm vông vạt nhọn và vài khẩu súng trường cũ kỹ. Đòn roi trong những trận khủng bố phủ đầu của nhà tù không dập tắt được niềm lạc quan của họ trước triển vọng Hội nghị Phôngtennơbơlô sắp mở. Khát vọng độc lập tự do và ngọn cờ giải phóng Côn Đảo khi được phất lên sẽ khơi dậy sức mạnh xung thiên trong những người tù kháng chiến. Sức mạnh ấy đã có dịp chứng tỏ hơn một lần kể từ cuộc “Cách mạng khám đường” tại Khám Lớn Sài Gòn.

Việc cướp đảo thì dễ nhưng trở về đất liền bằng phương tiện gì mới là việc khó. Ở lại lập chiến khu ở Côn Đảo thì không thể được. Bởi thế, chủ trương bạo động đã dừng lại trong ý đồ của một nhóm, trên dưới chục người. Nhóm này cũng chưa đi đến một quyết định bạo động theo phương án nào và cũng chưa có sự chuẩn bị gì cụ thể.

Cuối tháng 6-1946, trong lúc nhóm chủ trương bạo động còn chưa ngả về phương án nào thì một vài nhóm khác đã tổ chức vượt ngục. Chuyến thứ nhất của các chiến sĩ Cô Tô do các anh Đỗ Văn Chung và Đặng Trung tổ chức. Năm người ra đi không để lại dấu vết gì, sau mới biết các anh đã hy sinh trên biển. Chuyến thứ 2 do Nguyễn Thanh Trang ở Sở Tiêu tổ chức thì bị bắt lại gần hết: còn một người bị chết khô trên Núi Chúa. Sau 2 chuyến vượt ngục ấy, nhóm bạo động đã từ bỏ ý định cướp đảo và chuyển hướng sang khả năng chuẩn bị vượt ngục khi điều kiện cho phép.

Song, khuynh hướng bạo động vẫn âm ỉ lan truyền trong một số tù nhân trẻ tuổi. Bọn chúa ngục sử dụng một số thường phạm cũ để nghe ngóng, rình mò và khống chế tù kháng chiến. Đoàn Công Thành, Nguyễn Thành Út, Lê Trọng Nghĩa, Nguyễn Văn Tốt là những tên tay sai đắc lực. Cuối tháng 6, bọn tù gian đã báo cáo cho chủ sở Noócmăng tin tức về tù nhân Trần Kỷ ở Bản Chế đã bí mật trao đổi với một số tù nhân về chủ trương cướp đảo. Trần Kỷ bị bắt ngay đêm ấy.

Giám thị trưởng Tút tu cũng bị bắt và bị quản thúc tại trại lính. Được sự đồng tình của Gimbe, phái đối lập với Tút tu gồm chủ kho bạc Phơrêgien, chủ Sở Rờsẹc Nôvắc, chủ sở Bản chế Noócmăng, chủ Sở rẫy An Hải Viđan đã lợi dụng cơ hội này để thanh toán Tút tu. Chúng phát hiện ở hợp tác xã tiêu thụ đang thiếu 2 bao đường và tung dư luận về việc Giám thị trưởng “thân Việt Minh”. Cả bọn vào hùa với nhau, dựng lên chuyện Tút tu ăn cắp 2 bao đường để tiếp tế cho tù kháng chiến chuẩn bị âm mưu bạo loạn nhằm lật đổ chính quyền trên đảo. Giám thị Liền và bà vợ giám thị Cơ có quan hệ thân mật với Tút tu cũng bị chúng bắt giam với tội danh thông đồng với tù nhân cướp đảo. Chúng đánh chết anh Trần Kỷ mà không moi được chứng cớ gì.

Giữa lúc đó thì tên tù gian Lê Trọng Nghĩa chỉ điểm cho bọn chúng vây bắt cuộc vượt ngục của nhóm tù nhân Sở Tiêu và Sở Củi. Một trong 8 người bị bắt đã khai rằng, họ có ý vượt đảo về liên hệ với ủy ban hành chánh Nam bộ để hỗ trợ cho kế hoạch giải thoát tù nhân. Như kẻ sắp chết đuối vớ được cọc, chúa đảo Gimbe ra lệnh thẳng tay tra tấn, tìm ra những người có liên quan và giao cho mấy tên tù gian Đoàn Công Thành, Nguyễn Thành Út và Lê Trọng Nghĩa dựng lên một cách giả tạo một vụ án được mệnh danh là “vụ âm mưu cướp đảo” để lấy cớ mở chiến dịch khủng bố tù kháng chiến và lật đổ viên Xếp chánh Tút tu.

Đoàn Công Thành được dịp thi thố những thủ đoạn bỉ ổi, chỉ mặt hầu hết những người mà hắn không ưa vào danh sách những tù nhân dính đến “vụ âm mưu”. Theo gợi ý của quan thầy, hắn bịa ra cả một kế hoạch cướp đảo như: Mục đích cướp đảo là giải thoát tù nhân; bắt tất cả các giám thị chỉ trừ Tút tu; cướp súng đạn đem về kháng chiến. Mục tiêu tiến công là trại lính, Nhà Đèn, Sở Cò, Sở Rờsẹc, Văn phòng Giám đốc, Trạm vô tuyến điện. Thời gian hành động là ngày 14-7-1946 (ngày Quốc khánh cộng hòa Pháp).

Trong kế hoạch bịa đặt của Đoàn Công Thành còn có cả “danh sách” ban tham mưu, đội cảm tứ, “kế hoạch” rèn giáo mác của tù nhân sở Bản Chế, có “sơ đồ tác chiến” tấn công trại lính và một “danh sách” gác dang, thầy chú, viên chức, chủ sở được phân loại rõ sẽ giết tên nào tống giam tên nào cùng những “giao ước” đảm bảo an toàn cho Tút tu và hứa hẹn sự cộng tác sau khi cướp đảo thành công.

Tiếp theo kịch bản vụ âm mưu bịa đặt đó là những cuộc bắt bớ và tra tấn rùng rợn, 72 tù nhân lần lượt trải qua những cực hình tàn bạo, người thì bị trói tréo cánh tay, rút lơ lửng trên xà nhà rồi bị đánh bằng roi cá đuối, roi gân bò cho đến ngất đi ; người thì bị chấn nước đến ngạt thở; người thì bị tra điện vào mang tai, dương vật; người thì bị quật vào ngực, vào gan bàn chân đến tàn phế suốt dời.

Gần hai chục chiến sĩ Cô Tô bị tra tấn đến chết đi sống lại nhiều lần, mặc dù họ không hề biết gì về kế hoạch cướp đảo. Họ bị nêu tên trong “danh sách đội cảm tử” mà Đoàn Công Thành đã bịa ra. Điều này có vẻ hợp lý vì bọn nhà tù đều biết họ thuộc một đơn vị Vệ Quốc đoàn đã từng gây nhiều sóng gió cho quân viễn chinh Pháp ở vịnh Bắc Bộ. Trong đợt khảo cung này, anh Trần Nhật Quang bị đánh lòi một con mắt, anh Trần văn Thính bị đòn hiểm nên mang bệnh và chết sau đó ít ngày.

Bọn gác ngục đã nhẫn tâm dùng máu xương của tù nhân để thanh toán, hãm hại nhau. Bằng chứng là chúng đánh đập hết sức dã man để truy ép tù nhân buộc phải nhận là có âm mưu cướp đảo và bắt tất cả giám thị, trừ Túttu.

Anh Trần Văn Sở, một người tù thường phạm từng nhiều lần vào tù ra tội đã than thở rằng anh chưa bao giờ gặp một chế độ lao tù tàn ác, nghiệt ngã một cách vô lối như vậy. Anh tính sẽ đâm chết vài tên gác dang khát máu, rồi thì tự vẫn hoặc chịu chết cách nào cũng được. Sau nghĩ lại, anh không nỡ để địch có cớ khủng bố tù nhân nhiều hơn, vì thế, anh chọn cái chết bằng cách tự vẫn để ngăn chặn tội ác của kẻ thù. Đêm 10-7-1946, Ba Sở treo cổ trên song sắt cửa tặmbua tại Khám 8 Banh I. Cái chết của anh là lời cảnh cáo đanh thép đối với âm mưu bịa đặt để khủng bố tù nhân.

Cùng một tâm sự với anh Ba Sở, Tư Tỷ cũng treo cổ tự vẫn nhưng không chết vì bộ quần áo mà anh dùng để buộc dây thòng lọng đã mục nát. Thòng lọng đứt, anh rơi xuống sàn khám. Bọn gác dang phát hiện, Xông vào lột hết quần áo và tịch thu tất cả đồ còn lại. Chúng lùa hết tù nhân trong vụ âm mưu xuống Hầm xay lúa; họ bị trần truồng và bị còng chân trên sàn xi măng lạnh cóng. Tư Tỷ ân hận. Anh định chọn cái chết để góp thêm vào lời tố cáo nhằm chặn đứng tội ác của bọn giám ngục, không ngờ địch lại đày ải anh em nghiệt ngã hơn. Tư Tỷ thề sẽ không tự sát nữa mà ở lại cùng anh em tranh đấu.

Sau hơn một tháng tra khảo, bọn gác ngục chẳng thu được gì hơn, nhưng điều mà chúng cần là khủng bố, hành hạ tù nhân và lật đổ Tút tu, đẩy về đất liền chờ ngày ra tòa thì đã đạt được. Phơrêden nhận chức Xếp chánh, Viđan được làm xếp Banh I. Noócmăng vẫn giữ chức Chủ sở Bản Chế béo bở. Chúng thiết lập một chế độ trị tù đẫm máu.

Bảy chục tù nhân còn lại trong “vụ âm mưu cướp đảo, phải làm khổ sai tại Banh I, dưới sự giám sát của những tên gác dang khát máu nhất như Viđan, Pôn Hiền, ăngđơrê, Loadô, Sa den… Sáng mở còng ra điểm danh là chúng đánh. Tên Pôn Hiền có lối điểm danh bằng cách gõ củ mây thật mạnh lên đầu người tù. Có lúc nổi máu côn đồ, nó còn bắt người bị đánh phải kêu thành tiếng “binh… boong…” như tiếng chuông nhà thờ để làm vui, nếu không kêu thì nó đánh mãi. Ra đến nơi làm việc, tù nhân lại tiếp tục bị đánh. Tên Viđan tuyên bố với kíp đập đá: “Một nhát búa không vỡ được hòn đá thì tụi bay vỡ đầu.”

Một kíp tù nhân khác phải đầm chà láng từ khu xà lim cuối sân dọc theo dãy khám 10-9-8-7-6. Đầm láng sân phía trước xong, chúng bắt xới sân sau lên đầm lại, cốt để hành hạ tù nhân chứ không chỉ là công việc khổ sai thuần túy. Đầm nặng bảy kí lô, bảy chục con người phải đầm theo một nhịp. Chệch choạc là ăn đòn. Đầm đi đầm lại, ngày này qua ngày khác. Chà láng xong rồi lại xới lên, tưới nước, đầm lại. Không ai có thể tính được mỗi thước sân nhà lao đã thấm bao nhiêu mồ hôi và máu của tù nhân.

Giờ tắm cũng được bọn gác ngục biến thành một kiểu hành hạ. Bảy chục con người chỉ có một giếng nước và chỉ được tắm trong năm phút. Đúng giờ, họ phải ào đến vây quanh giếng, người đứng, người khom, người ngồi, người múc nước giội hối hả. Loáng một cái đã hết giờ. Bọn ác ôn vung gậy xua họ ra khỏi giếng. Nhiều người nước chưa kịp thấm ướt thân thể mà máu đã phun đỏ miệng giếng.

Bữa ăn của tù cũng là cảnh cực hình. Cơm gạo hẩm và lẫn nhiều thóc sạn, ăn rát cả miệng. Cá khô mục đắng và mặn chát. Chỉ có 5 phút cho cả việc ăn lẫn uống. Trong khi ở các khảm khác chúng bắt ăn cơm nguội, uống nước lạnh thì kíp này lại phải ăn cơm nóng và uống nước sôi. Họ đã phải làm cật lực, đẫm mồ hôi dưới nắng hè tháng 7, chịu khát cháy cổ. Vậy mà đến bữa ăn, chúng lại đổ nước sôi vào khạp và bắt ăn uống trong vài phút. Họ vây quanh khạp nước bốc hơi ngùn ngụt nên không thể nào uống được.

Có tù nhân đã chết khát một cách thương tâm.

Anh Quý bị đánh đập nhiều nên sức cùng, lực kiệt. Không chịu được cách hành hạ trong bữa ăn như vậy, anh đành chịu khát vào khám. Đêm ấy khát quá, anh thều thào bảo Nguyễn Văn Bảy, người bạn tù nằm cạnh đái cho uống. Nhưng Bảy cũng đang khát khô cả họng và chẳng có được giọt nước tiểu nào. Cả hai đều thiếp đi trong sự dày vò của cơn khát và nỗi bất lực. Sáng ra, anh Quý đã chết khô cứng trong còng.

Khi thói bạo ngược đã thay thế cho quy chế thì tội ác cũng được nhân lên vô hạn. Bọn gác dang nghĩ ra đủ trò để hành hạ tù nhân. Trước khi vào khám, họ phái “múa phượng hoàng”, trần truồng, há miệng, chổng mông, dạng chân cho chúng khám xét. Xong nó vụt một gậy vào lưng đuổi vào. Dã man hơn, có đứa lại ngoáy cả gậy bẩn vào miệng tù nhân. Có thằng lại bắt họ múa tiều cách cho vui mắt, múa không “đẹp” là bị đánh. Vào khám, tra nhân trong còng còn bị đánh một lần nữa khi chúng kiểm tra xem đã xỏ đủ chân trong còng chưa. Mỗi ngày có đến hơn chục trận đòn giáng xuống người tù. Đó là thời kì khủng bố đẫm máu.

Nhân “vụ âm mưu”, tù nhân các khám đi làm cũng bị ăn đòn nhiều, đau ốm đi khám bệnh cũng bị đánh đập. Những người bị nhốt trong khám tử hình chỉ còn chờ ngày đem bắn cũng bị ngược đãi như vậy. Anh Minh, một tử tù đã chết vì đói khát và bệnh tật trước khi anh bị hành quyết. 55 tử tù còn lại đã nghẹn ngào hát bài Chiêu hồn tử sĩ để tiễn anh về nơi an nghỉ cuối cùng.

Vào dịp Quốc khánh Pháp, 14-7-1946, mười tử tù được giảm án, khám tử tù còn 45 người. Thời Tút tu làm Giám thị trưởng, bữa ăn thỉnh thoảng còn có rau xanh. Từ khi xảy ra “vụ âm mưu cướp đảo” thì chúng cho ăn rất tồi tệ. Có tuần chúng cho tù ăn toàn tương chua; tuần thì toàn khô mực đắng, không có lấy một cọng rau. 45 tử tù đã nhất loạt tuyệt thực vào cuối tháng 7-1946. Đây là cuộc tuyệt thực đầu tiền của tù nhân tại Côn Đảo. Anh Nguyễn Văn Huệ được cử làm đại diện, trình bày yêu sách trước Giám đốc, đòi cho ăn rau xanh hàng ngày và cho ăn cá khô không mục.

Những yêu sách hợp lý và thật chẳng đáng bao nhiêu so với chế độ ăn, ngủ ghi trong quy chế nhà tù, nhưng Giám đốc Gimbe trả lời bằng cách vung gậy vụt thẳng cánh lên đầu người đại diện rồi bỏ đi. Gimbe là một trong số những tên Giám đốc thích trực tiếp đàn áp tù nhân. Đến ngày thứ ba của cuộc tuyệt thực, tên Viđan ra lệnh đổ khạp nước của Khám tử hình và tuyên bố “cho chết luôn, khỏi phải bắn”.

Ngày thứ 4, anh Trí một tử tù (án tư pháp) không chịu nổi cơn khát nên đã gọi xếp xin nước uống. Cuộc tuyệt thực phải kết thúc dở dang. Riêng anh Huệ tiếp tục nhịn ăn, mỗi ngày chỉ nhấp vài ngụm nước lạnh. Đến ngày thứ 15 anh mới chịu ăn, theo lời khuyên của nhiều đồng đội, để giữ sức cho những đợt tranh đấu khác.

Ngoài báo cáo chính thức của Giám đốc nhà tù, tin tức vế vụ âm mưu cướp đảo bay về đất liền bằng nhiều đường: qua linh mục Nguyễn Văn Mầu và thư từ của nhiều gác dang, thầy chú. Bọn thống trị cũng không thể làm ngơ về vụ này. Thủ tướng bù nhìn Nguyễn Văn Thinh phải đích thân ra đảo thị sát. Nhân dịp giáp mặt hắn, anh Trần Văn Trung đã tố cáo âm mưu bịa đặt ra “vụ Côngplô” và yêu cầu bọn thống trị phải đưa ra xét xử công khai vụ này, không dược coi rẻ sinh mạng và nhân cách con người một cách dã man và phi pháp như vậy.

Một số tù nhân lại phản ứng theo kiểu khác. Khi Nguyễn Văn Thinh đến Hầm xay lúa hỏi tù nhân xem ai bị oan ức, ai cần kiến nghị gì thì cụ Võ Oanh dõng dạc trả 1ời: “Xếp chánh giới thiệu Ông là đại diện cho Chính Phủ Nam Kỳ tự trị”. “Những người tù chính trị chúng tôi không công nhận chính phủ ấy. ông bảo cần kiến nghị gì Chúng tôi không có gì để kiến nghị! Nếu cần gì thì chúng tôi đề nghị với những người quản ngục ở đây, chính họ mới là kẻ có quyền thực sự ở đây”.

Sau chuyến đi kinh lý của Nguyễn Văn Thinh, mức dộ khủng bố có giảm bớt. Gimbe bị triệu hồi. “Vụ âm mưu” được giải toả dưới triều Giám đốc mới. Những tù nhân vừa được giải toả đã bước vào thời kỳ tổ chức chặt chẽ và đấu tranh quyết liệt hơn.

“Vụ Côngplô” đã để lại nhiều bài học kinh nghiệm qúy về tổ chức và tranh đấu trong tù. Không thể đấu tranh thắng lợi khi chưa có tổ chức chặt chẽ. Việc bạo động võ trang ở Côn Đảo là hệ trọng, nó liên quan đến sinh mạng của hàng trăm, hàng ngàn con người. Chỉ cần vài người đặt vấn đề một cách phiến diện, chủ quan, lộ liễu là địch có cớ để khủng bố hàng trăm người khác.

Mặt khác, phải hết sức cảnh giác với bọn tù gian và những âm mưu đàn áp, giết hại tù nhân của bọn cai ngục. Bên cạnh những tổn thất xương máu, “Vụ âm mưu” đã để lại ý nghĩa lớn về nhân cách của người tù kháng chiến. Họ chịu đựng mọi cực hình, song không ai khai báo hoặc nhận bừa những điều bị vu khống. Nhờ đó, “vụ âm mưu” được giải toả, Tút tu cũng được “giải oan”.

Trong những ngày bị khủng bố thê thảm nhất, tù nhân càng đoàn kết, yêu thương nhau hơn. Địch bắt đầm đá đều 1 nhịp, anh em tổ chức đầm theo 2 nhịp, ba nhịp giống như kiểu giã gạo chày đôi, chày ba để mỗi người có thể được nghỉ 1 nhịp hoặc 2 nhịp. Gác dang Pháp thường hay đánh đập vào cuối bữa đuổi tù nhân vào khám khi chưa kịp ăn hết khẩu phần cơm ít ỏi. Anh em đã thống nhất với nhau, đồng loạt vào ăn, ăn xong hết mới cùng đứng dậy, mặc cho chúng đánh.

Có bữa cụ Võ Oanh bị chúng đánh lủng đầu. Máu chảy đỏ ròng, cụ vẫn điềm nhiên ngồi ăn, không thay đổi sắc mặt. Những lần khổ sai hoặc điểm danh, cụ thuộc số người bị đánh nhiều nhưng không khi nào cụ cúi đầu hay tỏ cử chỉ run sợ. Cụ còn động viên anh em một cách khéo léo rằng: “Đừng thấy chúng đánh tôi mà mất tinh thần. Chúng đánh tôi, cốt là để khủng bố tinh thần anh em đó”. Cụ là một trong những tấm gương khích lệ lòng can đảm, giữ vững khí tiết và nhân cách của tù kháng chiến thời ấy.

Qua cuộc khủng bố quy mô lần này của bọn quản ngục, tù kháng chiến nhận thức rõ việc xây dựng tổ chức vững vàng chắc để đoàn kết, lãnh đạo khối tù nhân là công việc cấp bách. Một bộ phận cứu trợ tù nhân đã nhen nhóm và bí mật hoạt động qua 2 đầu mối quan trọng là anh Phạm Gia – “tù áo trắng” làm thư ký Kho Bạc và anh Trần Duy Giang, làm thư ký ở văn phòng Giám đốc. Nhiều tù nhân ở Nhà Thương, Sở Củi, Nhà Đèn đã gửi phiếu tiền công lao động khổ sai cho hai anh để mua đường, sữa tiếp tế cho anh em ở Khám tứ hình và Hầm xay lúa. Thêm vào đó là đồ tiếp tế mà số anh em tù áo trắng đã vận động được ở những thầy chú, gác dang có cảm tình.

Cuối năm 1946, ủy ban kháng chiến hành chánh Nam Bộ liên lạc, gửi tiền và quà đến tay anh em tù Côn Đảo nhờ sự giúp đỡ của linh mục Nguyễn Văn Mầu. Việc tiếp tế và các tổ chức của tù nhân có điều kiện định hình và phát triển mạnh hơn trước.

Tận dụng cơ hội mới

Ngày 2-9-1946, chuyến lưu đày thứ 2 (chuyến tù áo trắng) ra đảo. Đại úy Lê dương Hômếchcơ (Homecker) cùng ra trên chuyến tàu ấy và nhậm chức Giám đốc nhà tù ngay ngày hôm sau. Gimbe bị triệu hồi. Hile (Hilaire) được bổ nhiệm làm Xếp chánh. Hômếchcơ quốc tịch Pháp gốc Đức, tính tình ngay thẳng, chuộng lẽ công bằng. Qua việc điều chỉnh chế độ cai trị, những người tù kháng chiến biết ông là đảng viên Đảng xã hội Pháp.

Giám đốc mới thị sát các khám giam đúng vào lúc hai tên hung thần Ăngđơrê và Loadô đang vung hèo mây quật túi bụi xuống kíp tù đầm đá trong sân Banh I. Trước mặt tù nhân, Hômếchcơ đã bắt Ăngđơrê cùng Loadô đứng nghiêm để chịu khiển trách. Ông tuyên bố kể từ nay, gác dang không được đánh đập tù nhân nếu họ không phạm lỗi.

Chớp thời cơ đó, anh Lương Văn Thắng đã thay mặt tù nhân tố cáo chế độ khủng bố của nhà tù, sự tàn bạo của gác dang và vụ âm mưu bịa đặt đế đàn áp tù nhân. Anh yêu cầu cải thiện khẩu phần ăn, chấm dứt ngược đãi, chữa trị cho những người đau yếu. Giám đốc hứa sẽ xem xét lại nội vụ để giải quyết.

Hômếchcơ giữ lời hứa. Ông xem lại toàn bộ hồ sơ vụ Côngplô. Ông nghe được nhiều lời tố cáo chế độ lao tù nghiệt ngã mà thực dân Pháp đang áp dụng ở Côn Đảo; thậm chí việc đối xử với những người kháng chiến Việt Nam còn tồi tệ hơn cả phát xít Đức đối với tù binh Pháp. Ông đã tận mắt thấy cảnh gác dang Pháp vô cớ hành hạ tù nhân. Ông được nghe những lời đề nghị quá đơn giản về việc cải thiện chế độ ăn, ở, tắm, giặt, chữa bệnh.

Đi thị sát các sở Bản Chế, Sở Củi – Chuồng Bò, Chỉ Tồn, Sở Lưới… Hômếchcơ đều nghe tù nhân đều tố cáo giống như vậy. Ông còn được nghe một số gác dang có lương tâm và nhiều thầy chú phản ánh rằng tù kháng chiến là những người có văn hoá và nhân cách, rằng Tút tu bị vu khống… Hômếchcơ đã công tâm điều tra và phúc trình về Cao ủy Pháp. Kết quả là Tút tu được miễn tố.

Phần lớn số tù nhân bị bắt bừa bãi trong vụ âm mưu đã được giải toả về các khám. Riêng 12 người bị khai là “Ban tham mưu” thì bị đưa về Khám 2 bổ sung vào kíp may quần áo tù, trong đó có cụ Tú Oanh, và các anh Tư Ba Đào Lương Văn Thắng, Nguyễn Văn Đường, Trần Văn Lai, Trần Văn Trung, Trần Văn Sứ, Tơ Mách, Tơ Tỷ… Hômếchcơ không coi những người tù kháng chiến là phiến loạn như cách nghĩ chung của bọn thực dân xâm lược bấy giờ và cũng không thích thú gì với chức vụ Giám đốc Côn Đảo. Buộc phải nhận nhiệm vụ, ông làm theo chức phận với thái độ riêng của mình. ông yêu cầu gác dang và các nhân viên dưới quyền làm đúng theo quy chế.

Hômếchcơ còn trực tiếp xem xét tình hình các tù phán bị phạt xà lim và hồ sơ án tiết của họ. Người nào quá yếu hoặc bị phạt lâu đều được giảm bớt. ông chấn chỉnh lại chế độ điều trì ở bệnh xá. Các tù nhân khai bệnh đều được khám và cho thuốc đúng bệnh. Bác sĩ Pốc (Po que) là người có lương tâm. Pốc đã tận tụy chữa cho mấy chục tù nhân bị ghẻ lở đầy người lúc đó. ông còn đế nghị tăng chế độ dinh dưỡng cho tù nhân, cho họ được tắm biển mỗi tuần một lần.

Tù nhân được gửi thư, nhận thư, tiền, bưu kiện. Anh Phạm Gia, thư ký chính ở Kho Bạc đã liên hệ được với anh ruột là Phạm Thiều và một người bà con là Phạm Ngọc Thuần, hai vị đó đều là ủy viên ủy ban kháng chiến hành chánh Nam Bộ. Nhờ đó, ủy ban đã gửi tin tức và tiếp tế được cho tù nhân Côn Đảo qua những bưu kiện gửi cho Phạm Gia, Lưu Văn Lê, Trần Duy Giang… Do vậy, đời sống và sức khỏe tù nhân sau vụ khủng bố đỡ phần nào bi đát.

Linh mục Nguyễn Văn Mầu cũng là một đầu mối liên lạc và tiếp tế quan trọng. Khi trực tiếp, khi gián tiếp ông nhận tin tức và tiền bạc, thực phẩm thuốc men của ủy ban kháng chiến hành chánh Nam Bộ chuyển ra Côn Đảo. Anh Nguyễn Ngọc Lân, thư ký Kho Bạc, và anh Quý giúp việc tại Nhà Thờ đã chuyển về để phân phát cho các cơ sở. Cha Mầu cởi mở với cả tù nhân đạo gốc hoặc chưa theo đạo. Nhiều người tù kháng chiến khai là có đạo để được đi lễ vào ngày chủ nhật để có dịp gặp nhau trao đổi tin tức và bàn chủ trương hoạt động ngay trong Nhà Thờ.

Ba tháng cuối năm 1946, đòn roi, xiềng xích, phạt xà lim bớt hẳn đi. Sự thay đổi trong chế độ lao tù Côn Đảo ít nhiều phản ánh không khí chính trị ở Pháp lúc đó Liên minh cánh tả thuộc Đảng cộng sản và Đảng xã hội Pháp đã đánh bại Đảng cộng hoà bình dân trong cuộc bỏ phiếu thông qua bản Dự thảo Hiến pháp của nền cộng hoà thứ 4 (10-1946) và việc tổ chức Tổng tuyển cử bầu Quốc hội vào ngày 10-11-1946.

Do chính sách cai trị thời Hômếchcơ tương đối cởi mở, tù nhân ở nhiều cơ sở đã tự tổ chức bầu ra Ban tự quản (có nơi gọi là Ban quản trị). Người đại diện lúc đầu gọi là cặp rằng, nhưng do anh em tù nhân bầu ra chứ không phải là nhà tù chỉ định. Có nhiều cặp rằng là tù thường phạm đã giác ngộ lợi ích chung của tù nhân, phục tùng sự chỉ đạo của tập thể. ổn định trật tự, sinh, tăng gia cải thiện, tổ chức tương tế, sinh hoạt văn hoá văn nghệ v.v… là những hoạt động chính của cặp rằng và Ban tự quản.

Tù nhân đã vận dụng kinh nghiệm của cuộc “cách mạng khám đường” để không lặp lại chế độ cặp rằng theo kiểu tù trị tù ở Côn Đảo. Phá hoại, lãn công là hình thức phản kháng của tù nhân được phổ biến từ rất sớm. Nhờ sự cảm thông của bác sĩ Pốc, số tù nhân lãn công bằng cách khai bệnh khá đông. Trung bình mỗi ngày có tới 50 người nghỉ ốm, tương đương với số lao động khổ sai ở một sở quan trọng như Bản Chế.

Tù nhân Sở Bản Chế nhiều lần phá hỏng máy canh để bọn gác ngục không có phương tiện tuần tra, đuổi bắt tù trốn. Tù nhân ở Nhà Đèn làm hỏng, làm yếu nồi hơi, đến nỗi 3 máy phát, tổng cộng 75KVA mà khó khăn lắm mới đạt được 1/3 công suất thiết kế. Sở Rẫy thì không phát triển măng tây và các loại rau cao cấp theo lệnh Giám đốc mà trồng nhiều cà chua, rau xanh để chúng ăn không hết, phải đưa vào bếp Banh I. Tù Sở Lưới thường làm rách lưới, kéo được cá to thì hạ lưới cho cá quẫy ra, vì cá to chẳng bao giờ chúng để cho tù nhân ăn.

Giám đốc mới không can thiệp vào những sinh hoạt văn nghệ của tù nhân. Năm 1946, anh Hoàng Hữu mình, người tử tù vừa được giảm án, làm thư ký Sở rẫy Chuồng Bò đã khéo léo đề nghị tổ chức “Đêm văn nghệ mừng Chúa giáng sinh” và được Giám đốc đồng ý. Ngoài số gần trăm tù nhân Sở Củi – Chuồng Bò, còn có mấy chục tù nhân làm thư ký, bồi bếp và một số ở Chỉ Tồn. Nhiều gác dang Pháp và hầu hết thầy chú người Việt cùng vợ con họ đã đến xem. Những dịp giải trí như thế thật hiếm có trên hòn đảo này.

Đêm diễn mở màn bằng bài Thanh niên hành khúc, sau đó là điệu vũ Công chúa ngủ trong rừng. Bài hát Lên Đàng bừng bừng khí thế cách mạng đã chuyển tiếp từ điệu vũ sang vở kịch Nguyễn Trãi biệt Phi Khanh, nội dung vừa đượm tình cha con vừa nặng lời thề với non sông đất nước.

Vở diễn được nửa chừng thì chủ Sở Cò bắt dừng lại để báo cáo Giám đốc. Hắn đề nghị Giám đốc có biện pháp đối với những tù nhân dám tổ chức diễn kịch “tuyên truyền cho Việt Minh”. Trái với thái độ hậm hực của tên chủ Sở Cò, Hômếchcơ điềm nhiên trả lời rằng vụ này tù nhân đã xin phép và Giám đốc đồng ý, còn chuyện nội dung văn nghệ tuyên truyền cho Việt Minh là tất nhiên, bởi vì họ là tù chính trị, là Việt Minh. Đêm văn nghệ lại tiếp tục trong niềm hân hoan của tù nhân.

Tình thế đã đổi thay. Mới trước đó hơn 3 tháng, chúa đảo Gimbe đã phạt 3 tù nhân Sở Củi nhiều ngày xà lim, cơm nhạt, nước lạnh vì dám tổ chức đêm văn nghệ. Giám đốc Hômếchcơ được tù nhân đặt cho biệt hiệu là “Đại úy Việt Minh”. Sau đêm văn nghệ ở Sở Củi – Chuồng Bò, tù nhân lại ráo riết chuẩn bị chương trình văn nghê mừng xuân Đinh Hợi (1947). Trong dịp đó có 14 tù nhân được ân xá đã trở về đất liền trên tàu Goeland ngày 31-1-1947. Họ là những người tù cũ, được đại úy Gimbe đề nghị ân xá từ tháng 5-1946. Tết năm ấy, tù nhân được yên.

Giám đốc Hoónếchcơ đã ghi trong báo cáo nguyệt kỳ, số 774P, ngày 8-2-1947: “Người Việt Nam tổ chức ăn Tết Nguyên đán. Việc tiếp tế đến đúng lúc, trước đó 2 ngày…” “… Tù nhân đã cử hành lễ Tết. Không có việc gì xảy ra.”.“… Những sự kiện xảy ra ở Bắc kỳ không có tiếng vang trong số dân tự do cũng như trong tù nhân”.

Sự kiện xảy ra ở Bắc Kỳ mà Hômếchcơ nói tới đây chính là cuộc kháng chiến của nhân dân cả nước, bắt đầu từ đêm 19-12-1946 tại thủ đô Hà Nội.

Cuộc đấu tranh của tù nhân Côn Đáo cũng bước sang một giai đoạn mới. Bầu không khí “dễ thở” dưới thời “Đại úy Việt Minh” kéo dài không lâu. Phái hữu ngày càng thắng thế trong chính phủ Pháp. Bọn thực dân ở Đông Dương đưa ra Côn Đảo những tên Giám đốc nhiều thủ đoạn hơn, không đến mức dâm ô, tàn bạo một cách trắng trợn như Gimbe, nhưng cũng không nương tay với tù nhân như Hômếchcơ. Những tên Giám đốc sau này vừa độc ác, tàn nhẫn lại vừa thạo các thủ đoạn lừa mị tinh vi, thâm độc.

Nguồn: Lịch sử nhà tù Côn Đảo 1862 – 1975

Xem thêm:

Nhà tù Côn Đảo từ Chiến tranh Thế giới Thứ II (1939) đến Cách mạng Tháng Tám (1945)

Theo dòng lịch sử, đầu năm 1945, Chiến tranh thế giới thứ hai bước vào giai đoạn cuối. Hồng quân Liên Xô liên tiếp giành thắng lợi quyết định trên chiến trường châu Âu, giải phóng một loạt nước và tiến thẳng vào sào huyệt phát xít Đức tại Béc-lin. Ngày 9/5/1945, phát xít Đức đầu hàng vô điều kiện, chiến tranh kết thúc ở châu Âu. Ngày 8/8/1945, Hồng quân Liên Xô tiến công như vũ bão vào quân đội Nhật. Ngày 14/8/1945, phát xít Nhật đầu hàng vô điều kiện, chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc. Theo thỏa thuận của các nước Đồng minh, sau khi phát xít Nhật đầu hàng, quân đội Anh và Tưởng sẽ vào Đông Dương để giải giáp quân đội Nhật. Trong khi đó, thực dân Pháp lăm le dựa vào phe Đồng minh hòng khôi phục địa vị thống trị của mình; đế quốc Mỹ đứng sau các thế lực này cũng sẵn sàng can thiệp vào Đông Dương; những phần tử phản động, ngoan cố trong chính quyền tay sai Nhật đang âm mưu thay thầy đổi chủ, chống lại cách mạng nước ta.

Chống khủng bố trắng

Ngày 1-9-1939, phát xít Đức tấn công Ba Lan. Ngày 3-9-1939 Anh, Pháp tuyên chiến với Đức, chiến tranh thế giới thứ II bùng nổ. Bọn cầm quyền Đông Dương lập tức tước bỏ tất cả các quyền tự do dân chủ, đóng cửa các báo chí tiến bộ, mở các cuộc vây ráp, bắt bớ hàng trăm cán bộ đảng viên hoạt động bí mật và công khai của Đảng. Chúng mở các tòa án quân sự để xử những người cách mạng và lập thêm nhiều trại tập trung mới như Bá Vân, Bắc Mê, Nghĩa Lộ ở miền Bắc; Đắc Lây, Đắc Tô, Trà Kê ở miền Trung và Tài Lài, Bà Rá ở miền Đông Nam Bộ để đàn áp phong trào cách mạng.

Bọn chúa ngục Côn Đảo tước bỏ các quyền lợi mà tù nhân đã đấu tranh giành được. Chúng cấm đọc sách báo, cấm hội họp, bớt khẩu phần ăn hàng ngày… Giữa năm 1940, thực dân Pháp đày nhiều tù chính trị vừa bị bắt ra Côn Đảo. Không khí khủng bố ngày càng nặng nề. Những người tù “cứng đầu” ở Banh I bị tập trung về khám Vagông (Wagon: goòng) chuyên san cồn cát, lấp ao hồ dưới ngọn roi của những tên gác ngục thuộc loại gian ác như Tút tu (Toustou), Sốtxiđie (Chaussidière). Mỗi lần tàu chở hàng ra đảo là khám Vagông bị điều đi dọn tàu. Khám Vagông thành một nơi đày đọa khủng khiếp và là một khám đi đầu trong phong trào đấu tranh trong thời kỳ này.

Khám Vagông có khoảng 100 tù nhân thì có đến 70 tù thường phạm loại “anh chị”. Khoảng 30 tù chính trị còn lại thì quá nửa là Quốc dân đảng, anh em tù cộng sản chỉ có hơn 10 người. Nhờ quá trình hoạt động trong nhiều năm, Chi bộ đặc biệt dã giáo dục, cảm hóa được nhiều người tù thường phạm và một số đảng viên Việt Nam Quốc dân đảng cho nên đã hình thành được sự hợp tác cần thiết làm chỗ dựa cho Hội tù nhân.

Hội tù nhân tổ chức ra Ban trật tự, Ban trật tự ngoài1, Ban học tập, Ban vệ sinh, Ban cứu tế… Tô Thúc Rịch, đại diện cho anh em tù cộng sản và Thanh Giang, đại diện cho anh em tù Quốc dân đảng ở khám Vagông thường gặp gỡ thảo luận với nhau về hình thức, phương pháp, mức độ đấu tranh và chỉ dạo chung trong khám. Ban trật tự lo bố trí công việc cho phù hợp với sức khỏe từng người, quy định mức độ làm việc sao cho vừa sức tù nhân và cùng với Ban trật tự ngoài đấu tranh với gác dang, ma tà, không để chúng hạch sách, đánh đập tù nhân.

Ban học tập tổ chức cho tù nhân học tập, xóa nạn mù chừ cho tù thường phạm và tổ chức học thêm các môn văn hóa, ngoại ngữ cho tất cả tù nhân trong khám. Đồng chí Tô Thúc Rịch truyền đạt lại chương trình lý luận Mác-lênin mà đồng chí đã được học tại Côn Đảo trong những năm trước đó cho cán bộ đảng viên và những quần chúng cảm tình. Đồng chí Lang Kiều sau nhiều năm nghiên cứu và chữa bệnh bằng thuốc Nam cho tù nhân đã nhờ anh em ghi chép lại nhiều bài thuốc hay và gửi về đất liền qua đường dây bí mật để trị bệnh cho đồng chí, đồng bào.

Ban vệ sinh lo việc giữ gìn vệ sinh trong khám và phổ biến kinh nghiệm giữ gìn sức khỏe, phòng chống bệnh tật cho anh em. Ban cứu tế chăm sóc những người yếu đau, bệnh tật và giúp đờ những người có khó khăn. Tù nhân mới ra đảo đều được Ban cứu tế chăm sóc, thường nhận được khi thì một cái nón (mũ), một cuộn chỉ, có khi cả một bộ quần áo tù. Sau một thời gian thử thách, tù nhân được nghiên cứu chương trình, điều lệ của Hội tù nhân. Ai thừa nhận và tích cực hoạt động theo chương trình điều lệ sẽ được kết nạp vào hội. Tất cả các khám có tù cộng sản đều được tổ chức như vậy. Nhà bếp, Sở tẩy vẫn là trung tâm liên lạc và cứu tế cửa cả banh, thông qua đó mà chi bộ nắm tình hình và chỉ đạo hoạt động của các khám tù.

Bọn chúa ngục đánh tù nhiều hơn và tăng cường hình phạt. Chúng thiết lập chế độ “trị an” ở Banh III để khủng bố những người đứng đầu các cuộc đấu tranh. Banh III có 12 khám, được xây thành 3 dãy song song với nhau, mỗi dãy có 4 khám. Khám trị an (San de Sécurité) là các khám 5-6-7-8 có cùm đóng xuống sàn. Đó là khu cấm cố biệt lập dành cho những người tù thuộc loại “bất trị”, dưới sự giám sát của những tên gác dang hung ác. Nhiều đảng viên cộng sản đang lãnh đạo các kíp tù khổ sai đã bị đưa vào khám trị an. Họ bị tước hết sách vở và đồ dùng cá nhân, mỗi người chỉ còn một bộ quần áo mặc trên người. Suốt ngày họ bị cấm cố ở trong khám, đều bị còng cả hai chân.

Cuối năm 1939, gần chục người tù cộng sản trong khám trị an đã tuyệt thực để phản đối chế độ “trị an”, đòi trả lại quần áo, sách vở và đòi có đèn ban đêm trong khám. Mới tuyệt thực được một bữa thì xếp Banh III cho đem trả quần áo và đồ dùng cá nhân. Anh em tạm kết thúc cuộc đấu tranh vì lực lượng còn rất mỏng và đang bị cấm cố biệt lập. Ít lâu sau, 12 người tù còn lại trong khám trị an đã đấu tranh quyết liệt đòi có đèn ban đêm, đòi được đọc sách, được viết thư, đòi bãi bỏ cùm và bãi bỏ chế độ “trị an”. Cuộc tuyệt thực kéo dài đến ngày thứ 7, nhiều người hấp hối.

Quản đốc Buviê phải cho đưa hai người đi Nhà Thương cấp cứu và tiêm thuốc hồi sức, bơm sữa vào hậu môn những người còn lại. Ngày thứ 8, Buviê nhượng bộ, cho tháo cùm, anh em mới kết thúc cuộc đấu tranh. Những người tù ở khám trị an không còn bị cùm xiềng như trước. Hằng ngày họ được ra khỏi khám làm việc ở kíp may quần áo trong Banh III..Tháng 10 năm 1940, Buviê trả tất cả tù nhân khám trị an về kíp Chỉ Tồn Banh I.

Khi được tin Liên Xô ký hiệp ước không xâm phạm với phát xít Đức (23-8-1939), một cuộc tranh luận lớn đã nổ ra trong chi bộ. Có người cho rằng Liên Xô ký hiệp ước đó là đúng. Những người không tán thành như vậy thì bi quan, cho rằng Liên Xô thỏa hiệp với bọn phát xít. Vì không đủ cơ sở để nhận định nên cuộc thảo luận kéo dài, nhiều người băn khoăn lo lắng cho Liên Xô. Sau cùng, chi bộ thống nhất nhận định rằng Liên Xô là thành trì của cách mạng thế giới, việc ký hiệp ước Xô – Đức là cần thiết để tránh tổn thất cho cách mạng, để có thời gian củng cố, xây dựng lực lượng…

Nhận định của chi bộ đã giải quyết một cách cơ bản tư tưởng cho cán bộ đảng viên, nhưng phải đến khi phát xít Đức bội ước tấn công Liên Xô thì mọi người mới thật sự nhất trí với nhận định của chi bộ.

Ngày 22-6-1940, Chính phủ Pêtanh (Pétain) đầu hàng phát xít Đức, để cho quân đội Đức chiếm đóng nước Pháp. Quản đốc Buviê ra lệnh xiềng toàn bộ khám tù cộng sản (khám 6 Banh I). Chi bộ đặc biệt phát động ngay một cuộc đấu tranh trong khám 6 đòi tháo xiềng, đòi ăn rau, ăn thịt đúng khẩu phần quy định. Chi ủy đề xuất một hình thức quyết liệt là nhịn ăn và nhịn uống để chặn đứng sự khủng bố của kẻ thù.

Cuộc đấu tranh kéo dài 3 ngày rưỡi thì phải ngừng lại. Nhịn ăn và nhịn uống cùng một lúc là một hình thức đấu tranh quá cao, nhất là khi kẻ thù đang đi vào con đường phát xít hóa, trong khi đó ta lại chưa tranh thủ được sự đồng tình và ủng bộ rộng rãi. Rút kinh nghiệm cuộc tuyệt thực này, chi bộ thận trọng hơn mỗi khi đưa ra khẩu hiệu tranh đấu. Các hoạt động của chi bộ cũng bí mật hơn.

Lấy lý do chiến tranh, Quản đốc Buviê cứ tăng dần từng mức khổ sai và bớt dần khẩu phần ăn của tù nhân. Trong tình hình không thuận lợi, chi bộ chủ trương về phương châm đấu tranh trong lúc này là duy trì các quyền lợi mà tù nhân đã giành được trong những năm trước đây bằng một thái độ ôn hòa hơn. Hình thức đấu tranh phổ biến trong thời kỳ này là lãn công, duy trì mức khổ sai như trước. Chi bộ hết sức chú ý theo dõi tình hình ở trong nước và tình hình thế giới để có chủ trương thích ứng kịp thời.

Mùa thu năm 1940, kíp dọn tàu nhận được tài liệu của Xứ ủy Nam Kỳ gửi ra, trong đó có bản Nghị quyết Hội nghị Trung ương tháng 11-1939 về vấn đề giải phóng dân tộc. Chi bộ đặc biệt đã tổ chức học tập ngay bản nghị quyết quan trọng này. Những vấn đề về tình hình thế giới, tình hình trong nước, những điều kiện khách quan và chủ quan để nổ ra vũ trang khởi nghĩa giành chính quyền được thảo luận rất sôi nổi.

Các vấn đề thành lập Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương, vấn đề sách lược phân hóa kẻ thù, chĩa mũi nhọn vào kẻ thù nguy hiểm nhất là đế quốc và tay sai… cũng được thảo luận kỹ và đi đến nhất trì. Chi bộ còn dự kiến tình hình trên đảo, thảo luận sách lược đấu tranh với bọn gác ngục và phương châm hành động mới, khi tình thế cách mạng trực tiếp nổ ra ở Đông Dương.

Lợi dụng sự suy yếu của thực dân Pháp, ngày 22-9-1940, quân Nhật từ Trung Quốc đánh vào Lạng Sơn. Quân Pháp sau vài trận đụng độ đã bỏ chạy tháo thân. Bọn phản động thuộc địa đầu hàng, quỳ gối dâng Đông Dương cho phát xít Nhật. Trong lúc quân Pháp tan rã tháo chạy, đảng bộ và nhân dân Bắc Sơn (Lạng Sơn) đã cướp vũ khí của địch, vùng dậy khởi nghĩa giành chính quyền ở huyện lỵ Bắc Sơn. Thực dân Pháp sau khi đầu hàng phát xít Nhật đã quay lại đàn áp cuộc khởi nghĩa.

Hội nghị Trung ương lần thứ 7 từ ngày 6 đến ngày 9-11-1940 tại Đình Bảng (Bắc Ninh) đã nhận định tình hình: “Một cao trào cách mạng nhất định sẽ nổi dậy. Đảng phải chuẩn bị để gánh lấy cái sứ mệnh thiêng liêng lãnh đạo các dân tộc bị áp bức ở Đông Dương võ trang bạo động giành lấy quyền tự do, độc lập”1.

Trong khi đó, Xứ ủy Nam Kỳ chủ trương phát động nhân dân võ trang khởi nghĩa. Mặc dù Trung ương đã quyết định hoãn cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ nhưng khi đồng chí Phan Đăng Lưu mang chỉ thị của Trung ương về đến Sài Gòn thì lệnh khởi nghĩa của Xứ ủy đã phát đi khắp nơi.

Đêm 23-11-1940, cuộc khởi nghĩa đã bùng nổ làm rung chuyển nhiều vùng nông thôn Nam Kỳ. Tin tức về cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ làm cho những người cộng sản đang bị đày ở Côn Đảo vô cùng hồi hộp và lo lắng theo dõi. Thực dân Pháp đã dìm cuộc khởi nghĩa trong bể máu. Bọn chúa ngục Côn Đảo cũng bắt đầu một thời kỳ đàn áp man rợ đối với tù nhân.

Đầu năm 1941, thực dân Pháp đày lớp tù bị bắt trong Nam Kỳ khởi nghĩa ra Côn Đảo. Banh I, Banh II và Banh III đều nhốt chật tù. Mỗi khám trước đây giam nhiều nhất từ 80 đến 120 người, nay chúng tăng lên 150 đến 180 người, tù nhân phải nằm nghiêng sắp lớp chen chúc nhau trên sàn khám.

Vẫn chưa hết, ở Banh II bọn chúa ngục còn cho dựng sạp gỗ để giam hai tầng tù nhân trong một khám. Con số tù nhân ở Côn Đảo tăng vọt lên cao nhất trong suốt 80 năm qua kể từ khi có nhà tù1. Nhiều tên gác ngục hung ác được phái trở lại Côn Đảo chúng đánh tù luôn tay, chẳng cần phải có lý do gì. Sáng ra điểm danh đánh, trưa ra ăn cơm đánh, chiều ra ăn cơm lại đánh.

Cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ (23-11-1940) đã làm rung chuyển cả nến móng của chế độ thuộc dịa khiến cho bọn thực dân vừa điên cuồng khủng bố trả thù, vừa nơm nớp lo sợ. Chúng sợ cả đến những người tù đang bị chúng đày đọa, xiềng xích. Bọn gác dang đi tuần suốt đêm. Rình mò xem tù nhân có hội họp hay có ý đồ bạo động gì không.

Khoảng một, hai tháng chúng lại ập vào khám xét thấy một mảnh giấy vụn, một mẩu san hô hay gạch non là chúng đều tịch thu và đánh đập tù nhân rất tàn tệ Xét khám không thấy gì chúng cũng vu cho là mất trật tự, đánh cả khám một trận rồi mới trơ trẽn rút. Buviê cho lập lại chế độ Khám trị an ở Banh III dành cho những người tù mà chúng gọi là “bọn cứng đâu” (réfractaires). Xiềng, cấm cố, ăn uống tồi tệ, các yêu sách đều được trả lời bằng roi vọt.

Giữa năm 1941, Thống đốc Nam Kỳ cứ Bơruionnê (Brouinonnet) ra làm Quản đốc thay Buviê. Là một tên quan hai sen đầm trung thành với chính phủ Pêtanh, Bơruionnê đã gây nhiều tội ác tại Côn Đảo. Hắn cấm tù nhân không được nhận thư từ, không được đọc sách báo, không được hội họp… Bưu phẩm từ đất liền gửi ra bị kiểm soát rất kỹ, thuốc bổ, thuốc bệnh và sách báo đều bị chúng tịch thu.

Tháng 7-1941, một tên tù lưu manh đã vu cáo về các hoạt động của Chi bộ đặc biệt và chỉ bắt các đồng chí lãnh đạo trong khám 6 Banh I. Hắn còn chỉ những nơi giấu tài liệu và vu cáo tù cộng sản đang chuẩn bị bạo động vượt ngục, cướp tàu đi Xanhgapo (Singapore) gia nhập phe Đồng Minh chống phát xít, ủng hộ Liên Xô. Lúc ấy phát xít Đức đã tấn công Liên Xô và trong nội bộ bọn Pháp đã có mâu thuẫn giữa phái Pêtanh và phái Đờ Gôn (De Gaune) nên bọn Pháp tin ngay.

Một số đồng chí lãnh đạo của chi bộ bị nhốt hầm tối. Hơn 40 đồng chí ở khám 6 bị tước hết quần áo, chiếu, đồ dùng cá nhân và bị cấm cố trở lại. Bọn mật thám ở Sài Gòn ra điều tra một thời gian không khai thác được gì hơn nhưng đó là một dịp để Bơruionnê tước hết những quyền lợi mà tù nhân đã giành được trong những năm trước. Nhiều người tù thường phạm trước đây tham gia Hội tù nhân vì Hội tù bảo vệ quyền lợi thiết thực của họ, đến nay thấy chi bộ và Hội tù bị khủng bố, quyền lợi của tù nhân bị tước bỏ thì họ bất mãn và trở mặt nói xấu những người cộng sản.

Trong tình hình bất lợi, Hội tù nhân tuyên bố tự giải tán. Chi bộ đặc biệt cũng giảm bớt hai phần ba số đảng viên, chỉ tuyển lại những đồng chí trung kiên và có năng lực hoạt động trong tù. Mạng lưới cứu tế tù nhân vẫn được củng cố dưới sự chỉ đạo trực tiếp của chi bộ. Chi bộ tìm mọi cách bố trí cho đảng viên vào làm ở Nhà Thương và Nhà bếp các banh để liên hệ và tiếp tế cho anh em.

Tên Quản đốc Bơruionnê đặt ra nhiều luật lệ quái ác như ra vào khám phải trần truồng, múa phượng hoàng cho chúng xem; vào khám bệnh cũng phải cởi hẳn quần áo để một nơi; mỗi lần điểm danh chúng bắt tù nhân cúi đầu và gõ hèo cồm cộp lên đầu họ. Bọn gác ngục vừa đánh tù vừa đe dọa: Mặt trận nhân dân của chúng mày chết rồi. Hãy coi chừng.

Khi phát xít Đức tấn công Liên Xô, mỗi lần đánh tù chúng lại rít lên: “Hồng quân của chúng mày chết rồi, đừng có mà hy vọng (!)”. Thì ra chúng hiểu niềm tin của những người cộng sản bắt nguồn từ sức mạnh tất thắng của chủ nghĩa cộng sản mà Liên Xô là ngọn cờ tiêu biểu. Lớp tù nhân ra sau Nam Kỳ khởi nghĩa hầu hết bị cấm cố ở Banh III và Banh II. Chế độ cấm cố, chế độ khô mục và chế độ đánh đập hằng ngày của bọn gác ngục làm cho sức khỏe tù nhân suy sụp và bệnh tật phát triển rất nhanh.

Bệnh xá Côn Đảo chật, Bơruionnê cho lựa những người tù bệnh tập trung về Banh II (lúc ấy gọi là Banh Nhà Thương). Hằng ngày, thầy thuốc vào coi bệnh và phát thuốc. Căn bệnh phổ biến và nguy hiểm lúc ấy là kiết lỵ và ghẻ hợm (còn gọi là ghẻ hầm). Nhưng bất cứ bệnh gì, thấy thuốc nhà tù cũng chỉ cho có hai thứ thuốc: nước vôi và bột than. Chỉ trường hợp cấp cứu mới đưa vào Nhà Thương và được tiêm một, hai ống thuốc hồi sức. Thật ra, những tù nhân bệnh tật chẳng được chữa chạy gì. Họ chỉ được tập trung về một nơi và lần lượt chết ở dấy.

Ghẻ hợm là một loại ghẻ lớn, hay lây và phát triển rất nhanh. Ghẻ mới xuất hiện hôm trước là hôm sau đã lan khắp người. Con ghẻ đục rãnh sâu làm thối thịt da, hút cạn dinh dưỡng làm cho người bệnh đau nhức và kiệt sức. Ghẻ thường xuất hiện ở chân, lan lên đùi và lên khắp người là không cứu được nữa. Bọn thầy thuốc thực dân mỗi khi thấy người bệnh ghẻ hợm vào Nhà Thương là chúng cưa chân ngay. Có người đã bị cưa cụt cả hai chân nhưng rồi cũng chết. Cuối năm 1941, tù nhân phát bệnh chết nhiều. Các banh ngày nào cũng có người chết. Riêng Banh II có thời gian mỗi ngày hơn 20 người tù chết.

Những người kiết lỵ nặng bị tập trung về “bệnh xá kiết lỵ” phía sau Banh III, giáp chân Núi Chúa. Bệnh xá kiết lỵ là một cái lán mới dựng trong khu vực Sở Ruộng để cách ly những người kiết lỵ nặng không được cứu chữa. Những người bị đưa ra đây chỉ một, hai hôm là chết. Nói đúng hơn, đây là một nhà xác. Ở “nhà xác” này, mỗi ngày thường có trên dưới 20 người tù qua đời. Từ giữa năm 1941 đến cuối năm 1943, tù nhân chết vợi hẳn đi, chôn chật nghĩa địa Hàng Keo, bọn chúa ngục cho mở thêm nghĩa địa Hàng Dương để chôn tù .

Theo số liệu tổng kết chưa đầy đủ, có khoảng 3.000 tù nhân đã chết trong thời kỳ này bởi chế độ tù đày ải nghiệt ngã của thực dân Pháp, trong đó có nhiều nhà yêu nước như Nguyễn An Ninh, Võ Công Tồn… Mỗi người chết được bó hai chiếc bao bàng3, một chiếc trùm từ đầu xuống, một chiếc từ chân lên, sau đó được cột chặt bằng 7 nút lạt ở cổ, ở bụng và ở chân. Xế chiều, một tên ma tà đưa vài người thường phạm đến lượm xác tù nhân chất lên xe bò chở ra Hàng Dương vùi qua loa xuống cát, nhiều người còn đang hấp hối chúng cũng bắt bó lại đem chôn luôn, cảnh tượng thật là thê thảm.

Khi nhà chí sĩ yêu nước Nguyễn An Ninh hy sinh, những người cộng sản đã vận động Phuốchiyê (pouminier), người kỹ sư, chủ sự Nhà Đèn Côn Đảo, bỏ tiền mua cho ông một cỗ áo quan bằng gỗ nhưng chúa đảo đã lạnh lùng bác bỏ, bắt bó bao bàng đem chôn như hàng ngàn người tù đã chết. Những người tù chính trị và tù thường, mỗi lần đi làm khổ sai qua Hàng Dương lại nhặt đá đắp lên ngôi mộ của ông và mộ đồng chí Lê Hồng Phong, bất chấp sự đánh dập của bọn gác ngục.

Mở rộng mạng lưới cứu tế

Mặc dù nhiều đồng chí bị cấm cố, Chi bộ đặc biệt vẫn tích cực chỉ đạo chống khủng bố. Thông qua những đảng viên làm ở Nhà bếp, Sở tẩy và các sở tù ngoài, chi bộ đã liên hệ được với các đoàn tù mới ra để nắm bắt tin tức và thông báo tình hình trên đảo, phổ biến kinh nghiệm đấu tranh chống khủng bố, kinh nghiệm bảo vệ sức khỏe, chống bệnh tật trong tù.

Trong tình hình địch khủng bố ác liệt và bệnh tật phát sinh nhiều, chi bộ đã đặt công tác cứu tế tù nhân lên hàng đầu. Chi bộ chỉ thị cho tất cả các trại giam, các sở tù, những nơi có tù chính trị đều phải lập các tổ cứu tế, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, bằng mọi giá phải báo vệ mạng sống của tù nhân, bảo vệ cán bộ của Đảng.

Các đồng chí đảng viên, qua nhiều năm được chi bộ trong tù rèn luyện đã trở thành lực lượng nòng cốt trong việc xây dựng tổ chức cứu tế tù nhân và triển khai các chủ trương chống khủng bố của chi bộ. Nhờ mạng lưới đảng viên ở các sở tù bên ngoài, chi bộ đã tổ chức việc tìm kiếm và chế biến thuốc nam chữa bệnh cho tù nhân. Chi bộ còn tổ chức làm kinh tế để đóng góp vào quỹ cứu tế.

Những đồng chí có tay nghề được phân công làm các loại kim khâu, kim máy may, tiện các hộp thuốc lá bằng gỗ găng, làm tẩu thuốc lá bằng cây dương nước, làm cúc áo vòng, lược, bằng đồi mồi, v.v… để bán cho gác dang, ma tà và thủy thủ. Các sản phẩm được tập trung về một đầu mối, tiền bán được đem về nộp cả vào qũy cứu tế.

Qua các cơ sở ở Nhà Thương và Nhà bếp các banh, chi bộ đã gửi đến các khám tù cấm cố từng nhúm muối để ăn thay khô mục, từng trái ớt tươi, từng ngọn rau xanh đến lọ dầu xoa, viên thuốc bệnh. Các khám tù cộng sản thường tổ chức theo hình thức phổ biến lúc đó là Ban trật tự để lãnh đạo mọi hoạt động của tù nhân.

Phần lớn những người bị bắt trong cuộn khởi nghĩa Nam Kỳ là quần chúng cách mạng, ít được rèn luyện thử thách trong những điều kiện cực kỳ khó khăn. Ban trật tự phân công những đảng viên trung kiên phụ trách từng mâm cơm (mười người) để quản lý, động viên và bồi dường ý chí cách mạng cho anh em. Cơm tù ngày càng ít đi, đồng chí trưởng mâm phải chia cơm cho từng người, có khi đến phần mình chỉ còn những hạt cơm cuối cùng ít ỏi.

Có đồng chí còn bớt cả phần cơm của mình lén đưa vào trong khám nghiền ra nấu cháo cho những người ốm nặng. Cháo nấu trong lon sữa bò, chụm bằng những mảnh áo tù xé ra, ống tay áo và ống quần của nhiều đồng chí cứ cụt dần đi sau mỗi lần chăm sóc người bệnh. Bọn gác dang mà xét thấy một hạt cơm, một đốm lửa trong khám là nhiều người đổ máu với chúng.

Khu vực gần cửa thoáng mát được ưu tiên dành cho những người già yếu. Một vài tia nắng lọt vào qua kẽ ngói rọi vào trong khám cũng được nhường cho các đồng chí bệnh lao sưởi ấm lá phổi trong khoảnh khắc. Mỗi lần bọn gác dang vào khủng bố thì lập tức anh em lại chuyển những người đau yếu vào phía trong. Cá đồng chí trung kiên lập thành một hàng rào bên ngoài để đỡ đòn cho những anh em khác. Những người tù cộng sản luôn sẵn lòng chia nhau từng muỗng cơm tù, từng tấm áo tù và chia sẻ với nhau cả những trận đòn đổ máu. Thương người hơn cả thương thân là phẩm chất cao quý của người cộng sản trong tù.

Trước ngưỡng cửa của thần chết và sự đày đọa nghiệt ngã nhất của kẻ thù thì đức độ của những người cộng sản càng sáng ngời. Nhiều đồng chí đã nhường nhau một vệt nắng trong khám tối, một viên thuốc khi lâm bệnh, một miếng cháo khi đói lòng… Có những lúc, tổ chức phải phân xử cho ai được nhận phần nhường nhịn ấy.

Đồng chí Vu Văn Hiếu, người bí thư đầu tiên của Đặc khu mỏ Hòn Gai, khi bị bắt cùng với đồng chí Nguyễn Văn Cừ và đồng chí Lê Duẩn, đã nhận hết các chứng cớ về mình để cho đồng chí khác nhẹ án. Đến khi ra Côn Đảo bị bệnh nặng, biết không sống nổi, đồng chí đã trao chiếc áo cuối cùng của mình cho đồng chí Lê Duẩn và dặn lại: “Ráng sống phục vụ cho cách mạng!”.

Đồng chí Trần Xuân Độ, một đồng chí lớn tuổi, bị đày ra Côn Đảo từ năm 1930 đã tận tình chăm sóc, giúp đỡ và giáo dục động viên các đồng chí mới ra. Lúc đồng chí Độ lâm bệnh nặng, Ban cứu tế gửi cho mấy quả trứng gà thì đồng chí lại đem chia hết cho những anh em cùng bị bệnh. Khi có người trách thì đồng chí trả lời rằng: “Tôi bệnh nặng quá, ăn chưa chắc đã sống, nên nhường cho các đồng chí trẻ ăn dưỡng sức để sống về hoạt động cho cách mạng”.

Có hàng trăm tấm gương như vậy. Người cộng sản sống để phấn đấu cho lý tưởng cách mạng nhưng sẵn sàng chết cho sự nghiệp cách mạng. Ngay cả khi biết không sống nổi nửa, họ cũng chọn một cái chết có ích nhất cho cách mạng.

Nhiều đồng chí được đưa ra ngoài làm đã tranh thủ gài bẫy bắt từng con chim sẻ về góp cho Ban cứu tế để nấu cháo cho những người yếu, bệnh. Đồng chí Tôn Đức Thắng trở lại Sở Lưới lái canh, mỗi lần đi đánh cá đều lượm những con cá nhỏ giắt vào kẽ áo tơi, về ngang qua Bản Chế gỡ ra để anh em kho nấu và chuyển vào cho khám tù cấm cố. Chi bộ bố trí cho Lang Kiều ra ngoài làm thuốc nam, chữa bệnh ho anh em.

Lang Kiều được xếp vào “phần tử nguy hiểm”. Mười năm ở đảo, Lang Kiều tổ chức vượt ngục hơn 10 lần, có lần về đến đất liền lại bị bắt đày ra đảo. Mỗi lần vượt ngục không thành, bị Toustou săn đuổi bắt được là một lần bị phạt. Bọn gác ngục rất ngán, nhưng phục tài Lang Kiều chữa bệnh. Lần này, nhờ sự vận động của chi bộ, chính Toustou, Chủ sở Recherche đưa Lang Kiều từ hầm cấm cố ra chữa bệnh cho Sở Truy tầm tù trốn.

Toustou chẳng thiện cảm gì, nhưng hắn cần Lang Kiều ra chữa bệnh cho nhân tình của hắn, vợ của một tên gác ngục khác, đang có vấn đề phụ khoa mà thầy thuốc Tây bó tay, nhân thể, sử dụng Lang Kiều chữa bệnh cho đám nhân viên Recherche.

Tương kế tựu kế, Lang Kiều tranh thủ cơ hội này kiếm thuốc chữa bệnh cho anh em. Lang Kiều đề xuất, Toustou đồng ý điều thêm người, cho lập tổ bào chế thuốc Nam, cứu sống hàng trăm sinh mạng tù chính trị. Lang Kiều thạo chữ Hán, đọc nhiều sách thuốc, rành y lý phương Đông, giỏi về Nam dược. Trong hoàn cảnh lao tù anh sử dụng nhiều bài thuốc đặc trị như dùng huyết heo chữa bệnh đường ruột, dùng cơm cháy chữa bệnh bao tử, dùng cỏ tranh chữa bệnh đái đường, dùng chuối hột, cám gạo chữa bệnh kiết lỵ, thương hàn, dùng hồ tiêu hành củ, ngải rừng chữa bệnh sốt rét…

Đối với bọn nhân viên Recherche gian ác, anh cũng có luật chơi. Anh bốc thuốc công hiệu nhanh nhưng công phạt mạnh để hành hạ chúng. Lang Kiều còn hướng dẫn cho anh em ở các sở tù khổ sai chú ý tìm kiếm và chế biến các loại thuốc Nam ở Côn Đảo. Hàng trăm gói thuốc Nam do đồng chí bào chế đã được gửi đến Ban cứu tế ở các banh, cứu sống được nhiều người.

Theo lời kêu gọi của Đảng, đồng bào ta ở trong nước, bất chấp sự theo dõi và đe dọa của mật thám, đã quyên góp tiền, mua đồ tiếp tế cho tù chính trị. Hằng trăm gói bưu phẩm, trong đó có rất nhiều gói hàng quý của quần chúng cách mạng gửi ra Côn Đảo. Anh em tù chính trị nhận được nhiều gói quà của những người chưa hề quen biết. Đồng chí Dương Bạch Mai có lúc nhận được 40 gói quà, chia cho anh em cùng sử dụng. Một số công chức tiến bộ cũng nhận hộ tiền và quà rồi chuyển cho anh em tù chính trị.

Tình đồng chí, nghĩa đồng bào đã tiếp thêm sức mạnh vật chất và tinh thần cho cuộc đấu tranh chống khủng bố cửa tù chính trị ở Côn Đảo. Các lớp lý luận, chính trị tiếp tục được mở dưới nhiều hình thức. Có lớp học được tổ chức dưới dạng giải thích các khái niệm lý luận như giai cấp, giai cấp vô sản, đấu tranh giai cấp, chuyên chính vô sản, vấn đề dân tộc, chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Có lớp chuyên dạy về cách mạng dân tộc dân chủ và nhiều lớp dạy các môn văn hóa, dạy ngoại ngữ và các tác phẩm ưu tú của nền văn học Việt Nam.

Trong các khám tù cấm cố, các lớp lý luận, chính trị thường học vào buổi sáng, các lớp văn hóa thường mở vào,buổi chiều. Buổi tối anh em sinh hoạt văn hóa nghệ thuật bằng các hình thức diễn kịch miệng, ngâm thơ, bình luận các tác phẩm văn học mà anh em còn giữ được lúc đó như Truyện Kiều của Nguyễn Du, Người mẹ của Mácxim Goócki (Gorki), Ximăng của Gơlátcốp (Gladkov), Tam Quốc chí của La Quán Trung…

Các buổi sinh hoạt và học tập đã thu hút được đông đảo quần chúng cách mạng và tù thường. Nhiều người ham học đến mức bệnh nặng vẫn không rời cuốn sách, với một lời tâm niệm: “có chết làm ma biết chữ vẫn hơn”. Bọn gác ngục vẫn thường rình rập nhưng Ban trật tự đã cắt cử người canh gác và có kinh nghiệm đối phó. Các khám tù cộng sản còn bí mật kỷ niệm ngày Quốc tế lao động (1-5), ngày Xô viết Nghệ Tĩnh (12-9), ngày sinh Lênin (22-4), ngày Cách mạng tháng Mười Nga (7- 11) dưới nhiều hình thức.

Khám 8 Banh III là nơi tập trung nhiều tên Tơrốtkít đầu sỏ. Bọn Tơrốtkít thường xuyên tạc chủ nghĩa cộng sản, nói xấu Liên Xô và Quốc tế cộng sản. Các đồng chí ở khám 8 phải kiên trì đấu tranh với chúng và giác ngộ quần chúng, lôi kéo họ ra khỏi ảnh hường của Tơrốtkít. Bọn này là những tên hay lý sự, chống cộng có kinh nghiệm nên đấu tranh với chúng rất căng thẳng.

Từng giờ, từng phút trong lao tù, những người cộng sản Việt Nam hồi hộp và lo lắng theo dõi cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại của nhân dân Liên Xô. Căn cứ vào các tài liệu về Đại hội lần thứ 7 của Quốc tế cộng sản (7-1935), tổ chức Đảng ở Côn Đảo đã phân tích rõ thế yếu của chủ nghĩa phát xít, giáo dục lòng tin tất thắng và sự nghiệp đấu tranh chính nghĩa của nhân dân Liên Xô và các lực lượng tiến bộ chống chủ nghĩa phát xít. Mặc dầu bọn Pháp tìm mọi cách bơng bít tình hình nhưng tin tức về những trận chiến đấu của Hồng quân Liên Xô ở Xmôlenxcơ và Xtalingơrát vẫn truyền đến tận nhà ngục Côn Đảo làm nức lòng những người cộng sản Việt Nạm trong lao tù.

Đồng chí Lê Hồng Phong, đồng chí Lã Vĩnh Lợi đã tổ chức nhiều buổi sinh hoạt chính trị để giới thiệu những thành tựu trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hói ở Liên Xô để củng cố niềm tin tất thắng cho mọi người. Tin tưởng ở thắng lợi cuối cùng của cách mạng, đồng chí Lê Hồng Phong đã làm một bài thơ 8 câu vẽ nên viễn cảnh đất nước sẽ được giải phóng, “địa ngục trần gian” Côn Đảo sẽ được xóa bỏ, Côn Đảo sẽ trở thành một thắng cảnh rất đẹp, trên bến dưới thuyền, thành nơi nghỉ mát của những người lao động. Đồng chí còn dạy cho anh em bài Cô gái Nga mà đồng chí sáng tác trong thời gian học ở Liên Xô. Trước khi hy sinh, đống chí còn nhắn các đồng chí ở khu cấm cố biệt lập: Nhờ các đồng chí nói với Đảng rằng, tới giờ phút cuối cùng, Lê Hồng Phong vẫn một lòng tin tưởng ở thắng lợi vẻ vang của cách mạng.

Phân hóa kẻ thù, tranh thủ gác ngục

Ngày 2-2-1943, Hồng quân Liên Xô thắng lớn ở Xtalingrát, tạo ra bước ngoặt căn bản của cuộc chiến, tranh chống phát xít và sau đó lại giành những thắng lợi vang dội ở Cuốcxcơ trong mùa hè năm 1943 khiến cho toàn thể thế giới phải kinh ngạc và khâm phục.

Ngày 8-12-1943, Đờ Gôn đang lưu vong ở An giê (Angiêri) tuyên bố “sẽ giải phóng Đông Dương” để chuẩn bị cho mưu đồ theo gót quân đội Đồng Minh vào chiếm lại Đông Dương1. Mâu thuẫn giữa Pháp và Nhật ở Đông Dương, cũng như mâu thuẫn giữa Pháp Pêtanh và Pháp Đờ Gôn ngày càng trở nên sâu sắc.

Nắm được tình hình trên, Chi bộ đặc biệt chủ trương tích cực phân hóa bọn gác dang, tranh thủ những tên thuộc phái Đờ Gôn, tuyên truyền chủ trương của những người cộng sản liên hiệp với các lực lượng dân chủ, tiến bộ chống phát xít, giải thích cho họ hiểu về Đảng cộng sản Pháp liên minh với Đờ Gôn chống phát xít… Gác dang Pháp rất phục những người cộng sản Việt Nam trong việc phân tích tình hình. Họ thường lặng im nghe, không phản ứng gì. Mỗi khi có điều thắc mắc không giải thích được là họ lại đến hỏi anh em tù cộng sản.

Chủ trương liên minh với phái Đờ Gôn là một đề tài gây nhiều tranh luận. Một quan điểm cho rằng muốn thực hiện được sự liên minh, cần phải có sự nhân nhượng quốc tế, bằng cách thừa nhận chủ quyền Pháp ở, Đông Dương. Quan điểm thứ hai kiên quyết phản đối việc thừa nhận chủ quyền của Pháp ở Đông Dương.

Những người theo quan điểm này đã xác định cách mạng là sự nghiệp của nhân dân Đông Dương, phối hợp với cuộc chiến đấu của nhân dân Liên Xô và các lực lượng chống chủ nghĩa. Việc liên minh với phái Đờ Gôn là nhằm tranh thủ một lực lượng chống phát xít, cô lập cao độ kẻ thù chủ yếu để đánh đổ chúng. Sách lược liên minh chỉ được thực hiện trên nguyên tắc bớt đổ máu cho cách mạng nhưng không được thủ tiêu mục tiêu cơ bản của cách mạng là giải phóng dân tộc.

Quan điểm thứ hai đã trở thành ý kiến chỉ đạo ở Côn Đảo lúc ấy.

Từ giữa năm 1943, quân Nhật ở Đông Dương bắt đầu khốn đốn vì vòng vây của Đồng Minh ngày càng siết chặt. Ở Côn Đảo trước đây mỗi tháng có từ một đến hai chuyến tàu ra tiếp tế, nay 6 tháng mới có một chuyến tàu. Lương thực, thực phẩm, quần áo, thuốc men thiếu nghiêm trọng. Các bệnh kiết lỵ, ghẻ hợm, lao phổi tiếp tục hoành hành, giết hại những người tù đã kiệt sức.

Tên quan tơ Tít xe (Tisseyre) ra nhậm chức Quản đốc quyết định giảm khẩu phần ăn của tù nhân xuống 350 gam gạo mỗi ngày. Hắn còn bắt “tù Côn Lôn tự túc” nhằm huy động sức tù để giải quyết những khó khăn trên đảo. Nhiều khám tù cấm cố cũng được đưa ra đập xơ dừa, tước chỉ dứa, xe chỉ, dệt vải, thuộc da… Các Sở Rẫy, Sở Ruộng, Sở Chuồng Bò, Sở Bản Chế đều được bổ sung thêm tù nhân. Các công việc kéo lưới và câu cá mập cũng được đẩy mạnh.

Nhân dịp này chi bộ vận động cho nhiều anh em cộng sản ra ngoài làm việc. Những người tù thường phạm làm thư ký ở Văn phòng Xếp chánh và Văn phòng Quản đốc đã được giác ngộ cũng góp phần đưa các đồng chí cộng sản ra khỏi cấm cố. Nhiều đồng chí lãnh đạo Chi bộ đặc biệt lâu nay bị cấm cố đã được đưa ra ngoài làm. Các đồng chí có trình độ lãnh đạo của Đảng cũng được chi bộ chú ý vận động đưa ra những nơi mà công việc khổ sai đỡ khắc nghiệt hơn.

Sau những năm bị khủng bố ác liệt và bị phân tán ở nhiều nơi, Chi bộ đặc biệt đã hình thành được Trung tâm lãnh đạo bên ngoài trại giam. Hầu hết đảng viên trong chi bộ và nhiều cán bộ có năng lực của Đảng lúc ấy đã được bố trí về Sở Lưới, Bản Chế, Nhà Đèn, Nhà Thương, Văn phòng Xếp chánh, Văn phòng Quản đốc, v. v. .. Một số đồng chí còn ở trong Banh III cũng được liên lạc thường xuyên. Chi bộ đã bố trí được một số đảng viên vào làm ở Sở dây thép và Sở dây thép gió. (T.S.F) để nắm tin tức, tình hình.

Kiên định tư tưởng, đấu tranh chống Tơrốtkít và chống phái thân Nhật

Tháng 1-1944, Hồng quân Liên Xô quét sạch phát xít Đức ra khỏi Lêningrát sau 900 ngày chiến đấu anh dũng. Tháng 4-1944, Hồng quân lại thắng lớn ở Ucờraina và đuổi bọn phát xít đến tận biên giới. Việc tiêu diệt chủ nghĩa phát xít chỉ còn là vấn đề thời gian. Theo đà chiến thắng của quân đội Đồng Minh, phái Pháp Đờ Gôn ở Côn Đảo hoạt động mạnh hơn. Họ thường kể cho anh em cộng sản nhiều tin tức về cuộc chiến tranh, cả những thắng lợi của Hồng quân Liên Xô và nghe anh em cộng sản phân tích tình hình. Đó là những dịp thuận lợi để anh em tuyên truyền chủ trương liên minh với các lực lượng dân chủ chống phát xít của những người cộng sản.

Mùa hè năm 1944, thực dân Pháp đày 140 tù chính trị án nặng (trên 15 năm) ở Sơn La và Hỏa Lò (Hà Nội) ra Côn Đảo. Đây là chuyến tù cuối cùng bị đày ra Côn đảo trước Cách mạng tháng Tám (1945), trong đó có nhiều đồng chí lãnh đạo cấp Trung ương, Xứ ủy và tỉnh ủy.

Theo đúng lệ, bọn gác dang đánh cả đoàn tù một trận phủ đầu ngay tại cầu tàu rồi đưa về Banh III cấm cố ở dãy khám 9-10-11-12. Đây là khu cấm cố biệt lập, có tường ngăn cách với hai dãy khám của Banh III, dành cho những người tù thuộc loại cực kỳ nguy hiểm. Tù nhân ở dãy khám này bị phạt theo chế độ cấm cố hầm, vì thế mà dãy khám còn có tên là hầm cấm cố Banh III. Chi ủy đoàn tù Sơn La, Hỏa Lò tiếp tục phát huy vai trò lãnh đạo trong khu cấm cố Banh III và liên lạc với Trung tâm lãnh đạo1.

Qua bộ phận Nhà bếp, Trung tâm lãnh đạo đã gửi thực phẩm thuốc men cho đoàn tù Sơn La – Hỏa Lò và Các đoàn tù mới ra đều tìm cách bắt liên lạc. báo cáo tình hình và xin ý kiến chỉ đạo, xem như Đảo uỷ. thông báo tình hình trên đảo, phổ biến kinh nghiệm chống khủng bố và chỉ đạo phương châm đấu tranh.

Chi ủy đoàn tù Sơn La – Hỏa Lò đã bố trí một số đồng chí ra khám bệnh ở nhà thương, báo cáo với Trung tâm lãnh đạo nội dung Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (5-1941), Mười chính sách của Việt Minh, tình hình chuẩn bị võ trang giành chính quyền và 8 tháng đánh du kích ở Bắc Sơn – Võ Nhai (1941-1942). Chi ủy còn báo cáo tình hình nội bộ đoàn tù và xin ý kiến chỉ đạo.

Ngay từ khi còn ở Hỏa Lò (Hà Nội), trong lúc thảo luận về sách lược liên minh với phái Pháp Đờ Gôn đã có một vài đồng chí nêu ý kiến rút bỏ khẩu hiệu Độc lập trong cương lĩnh của Mặt trận Việt Minh và thay bằng khẩu hiệu Tự trị, tức là thừa nhận chủ quyền của Pháp ở Đông Dương. Mặc dù chi bộ đã kiên quyết đấu tranh bác bỏ nhưng các đồng chí này vẫn giữ ý kiến và tiếp tục nêu lại vấn đề này khi mới ra Côn Đảo.

Cuộc thảo luận gây không khí căng thẳng, không lợi cho sự đoàn kết nhất trí. Chi ủy đã báo cáo với Trung tâm lãnh đạo và nhận được sự chỉ đạo kịp thời. Trung tâm lãnh đạo kết luận việc rút bỏ khẩu hiệu “độc lập” là hữu khuynh. Cần phải tích cực phân hóa và tranh thủ phái Pháp Đờ Gôn để hình thành mặt trận chống phát xít, song trong lúc liên minh không được quên mục tiêu cơ bản của cách mạng là giải phóng dân tộc, giành độc lập, chủ quyền.

Nhờ sự chỉ đạo đúng đắn của Trung tâm lãnh đạo, vấn đề sách lược liên minh với phái Pháp Đờ Gôn đã được sáng tỏ. Chi bộ khu cấm cố Banh III được củng cố lại tăng cường sự đoàn kết nhất trí. Quá trình đấu tranh về quan điểm trong việc liên minh với phái Đờ Gôn đã làm cho những người cộng sản trong tù nhận thức một cách sâu sắc về bản chất thực dân và mưu đồ của bọn phàn động Pháp đối với thuộc địa Đông Dương.

Sau này, trong cuộc Cách mạng tháng Tám 1945, những người cộng sản Việt Nam đã chuẩn bị cả tinh thần và lực lượng, chống cuộc chiến tranh xâm lược trở lại của thực dân Pháp, ngay trong lúc chuẩn bị giành chính quyền từ tay Nhật.

Tranh thủ thời gian trong cấm cố, chi bộ tổ chức tổng kết kinh nghiệm đấu tranh cách mạng, kinh nghiệm công vận, nông vận, thanh vận, phụ vận và biên soạn chương trình lý luận Mác-lênin huấn luyện cho anh em. Ít lâu sau, phần lớn anh em bị điều ra làm ở kíp xe chỉ, tước chỉ trong Banh III, một số bị điều ra các sở ngoài, một số đồng chí vẫn còn bị cấm cố. Chi bộ vân duy trì các lớp học, bố trí giảng viên theo từng kíp công việc để huấn luyện cho nhau. Tối về khám, Ban tuyên huấn khu cấm cố còn làm báo miệng đọc cho nhau nghe, gây không khí lạc quan tin tưởng.

Trong đoàn tù Sơn La – Hỏa Lò có nhiều đồng chí đã tham gia làm báo bí mật và công khai của Đảng. Anh em tập hợp hơn 20 người, mở lớp huấn luyện cán bộ làm báo. Lớp học không có thầy, anh em tự nghiên cứu xây dựng chương trình và thảo luận với nhau, trọng tâm là hai phần: Nghiên cứu học tập và Nghiệp vụ báo chí. Lớp học nghiên cứu tổng quát lịch sứ văn học thế giới chú ý phân tích đặc điểm văn hóa của các chế độ xã hội. Những nét lớn của lịch sử văn học Việt Nam cũng được nghiên cứu và thảo luận sôi nổi.

Sau khi nghiên cứu kỹ phần văn họe, các học viên thảo luận về nghiệp vụ báo chí từ các thể loại, cách trình bày cho đến việc tổ chức in ấn, phát hành… Có người từng học ở Liên Xô về, có người là học trò trực tiếp của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, có người học ở trong các nhà tù, có người trường thành trong cuộc đấu tranh cách mạng; mỗi người góp vào một ý, vận dụng tất cả kinh nghiệm làm báo bí mật và công khai trong thời kỳ Mặt trận dân chủ Đông Dương (1936-1939) để xây dựng chương trình. Nhiều đồng chí dự lớp huấn luyện này đã trở thành những cây bút của báo Đảng sau Cách mạng tháng Tám (1945).

Ở Banh III lúc ấy còn có 12 binh sĩ yêu nước tham gia cuộc khởi nghĩa Đô Lương (31-1-1941) do Đội Cung lãnh đạo. Ban lãnh đạo đã giao cho tổ chức cứu tế ở Banh III phải tìm mọi cách giúp đỡ và phân công một đảng viên trực tiếp giác ngộ chủ nghĩa cộng sản cho anh em. Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ Nhà tù Côn Đảo, những người bị giặc bắt trong ba cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn (27-9-1940), Nam Kỳ (23-n-1940) và Đô Lương (31-1 1941) đã sát cánh bên nhau chống chế độ khủng bố dã man của thực dân Pháp.

Banh III lúc ấy còn có một số tù người Khơme tham gia các phong trào chống Pháp của sư sãi Phnôm Pênh (Campuchia). Chi bộ khu cấm cố giáo dục cho cán bộ đảng viên tinh thần đoàn kết các dân tộc Đông Dương chống Pháp. Nhiều đồng chí được phân công gần gũi giúp đỡ anh em tù Khơme. Các đồng chí đã nhờ anh em dạy tiếng Khơme và dạy cho anh em tiếng Việt. Nhiều cuộc nói chuyện về đất nước, con người và phong trào cách mạng của hai dân tộc Việt Nam – Khơme đã tăng cường tình đoàn kết giữa những người tù trong khu cấm cố. Chi bộ giới thiệu về cương lĩnh Mặt trận Việt Minh và đường lối đoàn kết các dân tộc Đông Dương trong một Mặt trận dân tộc thống nhất chống đế quốc của Đảng cộng sản Đông Dương cho anh em.

Mặc dù phong tục tập quán và trình độ giác ngộ có khác nhau, những người tù Khơme trong khu cấm cố đều có thiện cảm với những người cộng sản Việt Nam. Sau khi Cách mạng tháng Tám (1945) thành công, những người tù Khơme đều được đưa về đất liền và được tạo điều kiện trở về quê quán. Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, Pátsuôn (Patchhoeun) đã được cử làm Chủ tịch ủy ban dân tộc giải phóng người Khơme ở Châu Đốc. Sau này làm việc cho Xihanúc, ông vẫn giữ mối thiện cảm với cách mạng Việt Nam.

Ở Banh III lúc này còn có một số tù thuộc các đảng phái thân Nhật Bọn này ra sức ca tụng chủ nghĩa phát xít chống Liên Xô và tuyên truyền cho chính sách Đại Đông Á của Nhật. Chúng đe dọa bọn gác dang Pháp và đả kích những người cộng sản. Anh em cộng sản rất bất bình nhưng vẫn giữ thái độ ôn hòa với chúng. Một số tên quá khích như tên Bể, tên Thu chửi cộng sản suốt ngày. Một lần tên Thu xuyên tạc lá cờ đỏ sao vàng của Việt Minh một cách rất bỉ ổi, anh em kíp xe chỉ phẫn nộ đã đánh y một trận để cảnh cáo.

Bọn Tờrốtkít hùa vào một phía với đám thân Nhật để xuyên tạc cộng sản. Đảng bộ Côn Đảo chủ trương cô lập bọn đầu sỏ, phân hóa những phần tử trung gian và lôi kéo giác ngộ những người ngộ nhận. Anh em cộng sản đã bố trí những đồng chí có trình độ kèm chặt những tên đầu sỏ để kiềm chế và và có thể bác bỏ ngay những luận điệu xuyên tạc của chúng. Tên Thu có lần viết thư cho chúa đảo tố cáo những người tù cộng sản có tổ chức bí mật, có quan hệ với bọn Pháp Đờ Gôn, có âm mưu vượt ngục và chỉ điểm những đồng chí tích cực. Anh em cảnh giác lấy được thư và giáo dục y. Một số quần chúng thân Nhật có chuyển biến, một vài người sau trở về tham gia kháng chiến. Một số nhân viên y tá ở Nhà thương Côn Đảo cũng được giác ngộ và giúp nhiều việc đắc lực cho Đảng bộ Côn Đảo, có người sau này trở thành đảng viên cộng sản.

Những tin tức về cuộc chiến tranh và thắng lợi của Hồng quân Liên Xô làm cho bọn Pháp ở Côn Đảo hết sức lo lắng. Thỉnh thoảng chúa đảo Tít xe lại cho bọn lính hành quân, tập trận trên các đường phố xung quanh trại giam để tự trấn an tinh thần và đe dọa tù nhân. Đảng ủy Côn Đảo vẫn theo dõi sát tình hình và chỉ đạo hoạt động của các kíp tù, đấu tranh với những yêu sách thích hợp như đòi nới rộng chế độ nhà tù và hạn chế bóc lột khổ sai.

Kíp xe chỉ dứa trong Banh III đã đấu tranh dai dẳng trong gần một tháng trời bằng hình thức ngầm lãn công chống việc tăng định mức xe chỉ. Tên gác dang ôbênăng (Obénans) giám sát rất kỹ tù nhân làm việc suốt ngày vẫn không tăng được mét chỉ nào. Ôbênăng quyết định bắt tù nhân làm việc một ngày căng thẳng dưới sự kiểm soát chặt chẽ của chính hắn. Anh em vẫn lặng lẽ làm việc nhưng có cách làm cho xa quay mà chỉ không quấn. Cuối buổi chiều, mức chỉ vẫn y nguyên như cũ Ôbênăng bắt làm thêm một tiếng đồng hồ nữa mà kết quả cũng không nhích lên được chút nào. Tức điên người, hắn phạt cả kíp xe chỉ 7 ngày ăn cơm nhạt, uống nước lã, nhưng đành phải chấp nhận mức chỉ như cũ.

Kíp vận chuyển đá từ Núi Chúa về Cầu Tàu lãn công một buổi sáng và phẫn nộ phản đối tên gác dang Pháp đã thúc ép tù làm, để đá đè gãy chân một người tù. Trước sự đoàn kết nhất trí của tù nhân, tên gác dang hung ác cũng phải chùn bước.

Chuyến tù Sơn La – Hỏa Lò ra đầu năm 1944 còn có 2 người bị bắt oan là cộng sản. Anh Mẫn một lần cùng gánh xiếc lên biểu diễn ở Đền Hùng (Phú Thọ), gặp ngày hội đông người, Việt Minh rải truyền đơn cách mạng. Mật thám Pháp nghi anh Mẫn lợi dụng gánh xiếc để rải truyền đơn nên bắt anh và khép vào tội “tuyên truyền cộng sản”. Không chịu được đòn, anh phải nhận bừa là cộng sản và khai người đứng đầu tổ chức là ông Khuê, một trạng sơ có tiếng trong vùng với hy vọng được ông cãi cho khỏi tội.

Đến lượt ông Khuê cũng không chịu được đòn, đành phải nhận bừa là cộng sản. Thế rồi mỗi người lãnh một án chung thân khổ sai và bị đày ra Côn Đảo. Ngay từ thời bị giam ở Hỏa Lò, chi bộ Đảng trong tù đã hết sức giúp đỡ và giác ngộ ý thức cách mạng cho hai người. Ra Côn Đảo, chi bộ khu cấm cố Banh III phân công người kèm cặp và giúp đỡ. Mẫn “xiếc sớm được giác ngộ đã huấn luyện cho anh em Banh III làm một “gánh xiếc” với nhiều tiết mục và những động tác nghệ thuật điêu luyện. Sau Mẫn “xiếc” được kết nạp vào Đảng và tham gia cuộc kháng chiến chống Pháp.

Riêng trạng sư Khuê thì luôn miệng oán trách cộng sản, rằng vì cộng sản mà ông bị tù tội, mất nghiệp, mất gia tài. Đau khổ và không chịu nổi sự đày ải khắc nghiệt, ông lâm bệnh kiết lỵ, người quắt lại chỉ còn da bọc xương, khó qua khỏi. Nỗi oán hận của ông tăng lên gấp bội. Những người cộng sản đã huy động mọi khả năng tìm kiếm thuốc, cứu sống ông. Ông rất cảm phục và thôi không oán trách cộng sản nữa. Sau Cách mạng tháng Tám 1945), Đảng bộ Côn Đảo dã đưa ông về đất liền và sau đó Xứ ủy Nam Kỳ tạo điều kiện cho ông trở về quê quán.

Tết âm lịch 1945, chi bộ khu cấm cố Banh III đã tổ chức một chương trình văn nghệ để bồi dường tinh thần lạc quan cách mạng. Tấu ông Táo về trời phê phán thói cẩu thả lười biếng, mất vệ sinh. Kịch vui một màn Bóc lột tố cáo chế độ thực dân và phong kiến bóc lột đến tận xương, tận tủy những người lao động. “Gánh xiếc” Banh III biểu diễn 28 tiết mục luyện tập công phu làm cho bọn gác dang hết sức ngạc nhiên, tưởng như “cả gánh xiếc bị bắt vào tù”.

Đặc biệt là vở kịch thơ Chiến sĩ và Hằng Nga có tác dụng giáo dục sâu sắc. Vở kịch do đồng chí Vương Gia Hương biên soạn và trình diễn ở Hỏa Lò (Hà Nội) gồm 2 màn ca ngợi ý chí chiến đấu của người chiến sĩ cách mạng đã vượt qua mọi khó khăn gian khổ và cám dỗ để chiến đấu cho cho sự nghiệp giải phóng đất nước.

Ra Côn Đảo, đồng chí Nguyễn Văn Vịnh biên soạn thêm 2 màn nữa, đưa vở kịch đến một kết thúc hùng tráng. Người chiến sĩ chiến đấu và hy sinh, vợ chiến sĩ ở nhà nuôi con khôn lớn để tiếp tục cuộc chiến đấu. Chất thơ và nội dung tư tưởng vở kịch có sức cảm hóa sâu sắc đối với những chiến sĩ cách mạng đang bị tù đày, thôi thúc họ kiên trì, vững chí.

Ở sở Bản Chế, anh em tù cộng sản cũng tổ chức diễn kịch của Môlie và Coóchây. Một số anh em Quốc dân đảng đã từng tham gia đóng kịch ở Banh II trong những năm trước có kinh nghiệm làm mũ áo, râu tóc đúng mốt, mấy người thường phạm bị tù vì làm bạc giả cũng hăng hái tham gia trang trí, vẽ phông màn. Anh em tập kịch bằng tiếng Pháp và tổ chức diễn công khai để tranh thủ bọn gác dang. Tên quan tư Tít xe rất thích xem kịch. Tít xe bắt thợ mộc làm sân khấu ngay tại dinh, bắt tù nhân diễn đêm kịch đầu tiên cho riêng hắn và người thân xem rồi đêm sau mới cho diễn công khai ở Bản Chế.

Nghe tin tù nhân diễn kịch Tây, bọn gác dang và lính Pháp kéo cả vợ con đến xem chật bãi. Họ trầm trồ thán phục sự hiểu biết sâu sắc về nghệ thuật của những người tù cộng sản, họ ngạc nhiên không thể hiểu được vì sao mà trên hòn đảo tù này, những nạn nhân của nước Pháp thực dân lại có thể thưởng thức và truyền bá những giá trị của nền văn hóa Pháp. Nghệ thuật đã thức tỉnh nhân cách con người văn hóa trong những người gác ngục. Gác ngục Pháp bớt hung ác hơn và đề nghị tù chính thức tiếp tục diễn kịch.

Đầu năm 1945 anh em dựng vở kịch tiếng Việt Tội của ai tố cáo chế độ cũ chà đạp lên hạnh phúc con người. Vở kịch đã gây ấn tượng tốt cho số ma tà và công chức người Việt. Nhân dịp đó, anh em vận động cho một số đồng chí lãnh đạo trong cấm cố ra Bản Chế.

Giải phóng Nhà tù Côn Đảo lần thứ nhất (1945)

Từ năm 1942 bọn Nhật đã đổ quân lên Côn Đảo nhưng ít lâu sau chúng rút về. Ngày 6-2-1945, tàu chiến Nhật đã đổ lên đảo một toán lính khoảng 20 tên và đóng lại, bất chấp sự phản đối của lính Pháp. Lính Nhật chiếm ngay đài vô tuyến điện (T.S.F), tước hết rađiô của những nhân viên Pháp, khống chế khu nhà ở của chúa đảo và sĩ quan Pháp.

Tên sĩ quan Nhật hằng ngày ra vào dinh Tham biện, trại lính Pháp và các trại giam tù chính trị để điều tra tình hình. Bọn Pháp hoang mang, lo sợ. Chúa đảo Tít xe ra lệnh cấm cố tất cả tù nhân thân Nhật đang làm khổ sai ở các nơi trên đảo vào Banh III. Những tên tù thân Nhật đầu sỏ lồng lộn trong Banh III, chúng đe dọa và luôn miệng chửi rủa bọn gác ngục Pháp.

Đảng ủy Côn Đảo nhận định mâu thuẫn giữa Pháp và Nhật đã đến mức quyết liệt, sắp bùng nổ và có thể xuất hiện tình thế cách mạng. Đảng ủy đã chỉ thị cho tất cả đảng viên phải hết sức tỉnh táo, sẵn sàng đối phó với mọi tình huống phức tạp có thể xảy ra. Anh em ở các banh phải cảnh giác cao đó với bọn tù nhân Nhật, cất giấu kỹ sách báo tài liệu và giữ vững nguyên tắc hoạt động bí mật.

Đảng ủy còn chỉ thị cho tất cả các cơ sở Đảng phải tích cực chuẩn bị vượt ngục, đưa cán bộ về đất liền tăng cường lực lượng cho Đảng ta đón thời cơ lãnh đạo võ trang khởi nghĩa giành chính quyền. Nhiều chuyến vượt ngục được chuẩn bị ngay trong tháng 2-1945. Các cơ sở ở Bản Chế và Nhà Đèn đã cung cấp cưa, đinh, dây đồng, sơn, dầu hắc, vải bạt… Một số đồng chí ở các sở tù ngoài được lệnh chọn địa điểm, hạ gỗ, đóng thuyền, đảng ủy khẩn trương bố trí cho một số đồng chí có năng lực lãnh đạo chuẩn bị vượt ngục. Đồng chí Phạm Hùng sau nhiều năm bị cấm cố cũng được anh em vận động đưa ra làm ở Bán Chế.

Đêm 9-3-1945, Nhật làm đảo chính, hất cẳng Pháp để trừ hậu họa và độc chiếm Đông Dương. Hội nghị của Ban Thường vụ Trung ương Đảng ngay trong đêm ấy tại làng Đình Bảng (Bắc Ninh) đã ra chỉ thị Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta. Bản chỉ thị là một cương lĩnh hành động nhằm gấp rút chuẩn bị mọi mặt tiến tới tổng khởi nghĩa.

Rạng sáng ngày 10-3-1945, hai tàu chiến Nhật đã đổ thêm một trung đội lính lên Côn Đảo. Không đầy một giờ sau, toàn bộ đại đội bộ binh thuộc địa và mấy chục gác dang Pháp bị tước hết vũ khí. Quản đốc Tít xe và tên sĩ quan chỉ huy đơn vị lính Pháp bị bắt giải về Sài Gòn sau đó mấy ngày. Lính Pháp cũng bị bắt giam, công chức Pháp bị quản thúc tại nhà, còn bộ máy trị tù vẫn được sử dụng dưới quyền chỉ huy của Lê Văn Trà, một công chức thân Nhật.

Bọn gác ngục người Việt (ma tà) được trọng dụng, được trang bị súng ngắn thay cho súng trường. Bọn tù thân Nhật được ra khỏi trại giam, nhảy vào làm thư ký, công chức các công sở trên đảo. Nhiều tên cũng mang súng ngắn vào sục sạo các trại giam, soi mói bọn gác ngục và rình mò tù cộng sản. Bọn thân Nhật chia nhau giám sát tất cả gác dang Pháp, nhất là phái Pháp Đờ Gôn. Chúng đã lôi Tút tu, Lăngtali và nhiều tên gác dang trước đây hung ác ra đánh đập, trả thù. Bọn gác dang Pháp bị thất thế, lo sợ, bi quan và thờ ơ trong việc coi tù.

Được sự giáo dục của Đảng bộ Nhà tù Côn Đảo, những người tù cộng sản đã tỏ thái độ đúng mực với gác dang Pháp. Anh em đã giải thích cho họ đường lối của Mặt trận Việt Minh là chống thực dân, chống phát xít và tay sai để giành độc lập dân tộc, giống như cuộc đấu tranh của nhân dân Pháp chống phát xít Đức, giải thích cho họ hiểu về chủ trương liên minh giữa những người cộng sản và những người Pháp dân chủ chống phát xít ở Pháp cũng như ở Đông Dương.

Anh em còn khẳng định thắng lợi tất yếu của Liên Xô và các lực lượng dân chủ, tiến bộ chống phát xít đang tới gần và chỉ cho gác dang Pháp cách đối phó với bọn thân Nhật. Cơrítsơchiani, một gác dang đã từng gây nhiều tội ác đã cảm phục mà nói với những người tù cộng sản rằng:

– Có trái tim như các anh thì không cảnh ngộ nào làm cho đau khổ được.

Tút tu, một gác dang trước đây khét tiếng hung ác cũng bộc lộ thái độ thiện cảm với tù cộng sản:

– Trước đây tôi ghét cộng sản, bây giờ tôi mới thấy người cộng sản đứng đắn, không thù oán cá nhân.

Bọn thân Nhật không để cho tù cộng sản được yên. Sục sạo mãi không tìm thấy chứng cớ gì, chúng mạo thư chửi phát xít Nhật và ca tụng Liên Xô đem nộp cho quan Nhật, nói là bắt được tài liệu của cộng sản, nhưng quan thầy chúng đang rầu rĩ vì những thất bại liên tiếp của quân đội Nhật trên các chiến trường nên không có phản ứng gì. Chúng lại tiếp tục bày mưu bắt tù cộng sản ra chào cờ Nhật nhằm hạ uy thế của của những người tù cộng sản và khủng bố những người chống đối. Anh em cộng sản hết sức phẫn nộ và kiên quyết chống, nếu chúng bắt chào cờ Nhật.

Bọn Nhật đang lo lắng cho số phận của chúng trên ác chiến trường nên không để ý gì đến hành động của đám tay chân. Vẫn không chịu từ bỏ ý đồ đen tối, bọn thân Nhật xoay sang lập danh sách những người tù cộng sản mà chúng liệt vào loại “nguy hiểm, đề nghị bọn Nhật thủ tiêu, nhưng rốt cuốc vẫn không thành.

Qua tin tức của những gác dang Pháp thuộc phái Đờ Gôn và những công chức tiến bộ ở Sở dây thép và Sở dây thép gió, anh em tù cộng sản nắm được tin tức về phong trào kháng Nhật của ta ở Cao – Bắc – Lạng. Nhận định tình hình cách mạng đang đứng trước thời cơ lớn, Đảng ủy Côn Đảo chỉ thị cho các cơ sở Đảng gấp rút tổ chức vượt ngục trở về hoạt động. Các công việc đóng thuyền, tích trữ lương thực, thực phẩm, thuốc men… được tiến hành rất khẩn trương.

Giữa tháng 4 năm 1945, Đảng ủy bố trí cho các đồng chí Tôn Đức Thắng, Phạm Hùng về tham gia lãnh đạo cướp chính quyền, cùng đi có Lang Kiều, Cẩm Tài, Văn Viên. Toustou, Chủ sở Rờsẹc lờ đi nhưng tên Quản Liễn dã cho quân vây bắt lại để tâng công với quân Nhật. Toustou không đánh, không phạt, chỉ bắt phơi nắng chiếu lệ rồi cho về khám.

Nghe tin tù cộng sản vượt ngục, bọn thân Nhật lồng lộn lên. Nhiều gác dang Pháp mà chúng nghi ngờ cũng bị đánh đập dã man. Từ đó bọn thân Nhật càng tăng cường theo dõi cả gác dang Pháp và tù cộng sản.

Vòng vây của Đồng Minh ngày càng siết chặt Đông Dương, thỉnh thoảng lại có một chiếc tàu Nhật thất trận dạt vào Côn Đảo. Máy bay Đồng Minh nhiều lần sà xuống nhằm các tàu Nhật bắn phá. Máy bay Mỹ đã bắn hỏng Hải Đăng – Côn Đảo, bắn phá cả Sở Lưới, Bản Chế, Nhà Đèn, làm chết một số tù nhân. Máy bay Mỹ còn rải truyền đơn vận động việc cứu giúp các nhân viên phi hành của Đồng Minh khi bị nạn và giúp đờ khi quân Đồng Minh đổ bộ lên.

Đảng ủy Côn Đảo ra một chỉ thị phân tích tình bình và xác định nhiệm vụ cho cán bộ, đảng viên. Chỉ thị đã nhận định: ở Đông Âu, Hồng quân Liên Xô đang tiêu diệt phát xít Hít le tận sào huyệt của chúng; ở mặt trận phương Đông, quân Đồng Minh đang thắng Nhật và có thể nhảy vào Đông Dương. Bọn Pháp Đờ Gôn sẽ theo gót chúng mà trở lại đặt ách đô hộ. Vì thế những người cộng sản phải hết sức cảnh giác, không những với bọn Pháp Đờ Gôn mà với cả quân Anh – Mỹ; chỉ có dựa vào nhân dân mới có thể giành được thắng lợi chân chính; phải quyết tâm vượt ngục trở về để chớp lấy thời cơ giành chính quyền… Bản chỉ thị được phổ biến đến các cơ sở Đảng trên toàn đảo.

Trước thất bại không thể tránh khỏi, bọn Nhật tổ chức “Lễ trao trả độc lập” giả hiệu tại sân banh (bãi đá bóng) Côn Đảo. Bọn thân Nhật dựng khán đài quay mặt về phía đông, kẻ khẩu hiệu và hô hào rùm beng. Trước mật gần 2.000 chính trị phạm, Lê Văn Trà đọc đạo dụ của chính phủ Trần Trọng Kim, tuyên bố phóng thích tất cả tù chính trị. Đạo dụ có đoạn viết: “Các chính trị phạm kể từ ngày này được chính phủ Việt Nam (tức chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim) trả lợi quyền tự do và coi như mọi người dân khác trong nước”.

Nhưng mỉa mai thay, sau cuộc mít tinh, chúng lại xua ngay tù vào trong banh, sập cứa lại và cho bọn gác ngục tiếp tục canh giữ. Chỉ có 150 tù thân Nhật được phóng thích sau đó vài tháng.

Theo sự chỉ đạo của Đảng ủy Côn Đảo, tù nhân Banh II, Banh III đã đấu tranh đòi được ra ngoài làm, đòi được mở cửa banh và trả lại tự do cho tù chính trị. Sau nhiều lần đấu tranh với lý lẽ đanh thép, Lê Văn Trà phải nhượng bộ một bước, cho phần lớn tù nhân ra ngoài làm và mở cửa trại giam từ 6 giờ sáng đến 21 giờ.

Sau khi tiêu diệt hoàn toàn phát xít Đức, ngày 8-8-1945, Liên Xô tuyên chiến với phát xít Nhật và nhanh chóng đánh bại đạo quân Quan Đông gồm hơn một triệu quân tinh nhuệ nhất của Nhật. Ngày 15-8-1945, phát xít Đức chính thức đầu hàng Liên Xô và các nước Đồng Minh không điều kiện. Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân cả nước nhất tề đứng lên Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước.

Bọn Nhật ở Côn Đảo cho tàu chở súng đạn ra biển đổ. Chúng phá trạm vô tuyến điện, đập phá tất cả rađiô, không cho ai nghe tin tức nữa. Chuyến tàu ngày 25-8-1945 chở những tên lính Nhật cuối cùng và số tù thân Nhật về đất (trên chuyến tàu ấy còn có 5 đảng viên cộng sản được trả lại tự do). Binh lính và gác dang Pháp cũng được đưa về Sài Gòn để giao lại cho Đồng Minh. Côn Đảo hết Nhật, hết Tây, chỉ còn lại khoảng ba ngàn tù nhân do Lê Văn Trà cùng bọn ma tà cai quản. Một đơn vị linh bảo an được phái ra đảo làm nhiệm vụ giữ trật tự trị an.

Một số binh lính bảo an vốn là những quần chúng yêu nước. Người sĩ quan chỉ huy đơn vị bảo an lại là cơ sở của Xứ ủy Nam Kỳ, được Xứ ủy bố trí ra Côn Đảo để liên lạc và hỗ trợ anh em tù chính trị. Nhờ đó Đảng ủy Côn Đảo nắm chắc tình hình Đức – Nhật bại trận, Đảng ta phát động tổng khởi nghĩa và đã giành chính quyền ở hầu hết các tỉnh từ Bắc chí Nam.

Được biết Xứ ủy Nam kỳ sẽ ra đón tù chính trị ở Côn Đảo về, Đảng ủy Côn Đảo chủ trương đoàn kết các lực lượng tù chính trị trên đảo giành chính quyền bằng phương pháp hòa bình, đồng thời nắm chắc lực lượng bảo an làm hậu thuẫn, khi cần sẽ sử dụng làm áp lực tước vũ khí của bọn gác ngục.

Đảng ủy phân công người đi các banh và các sở tù phổ biến chủ trương cho các cơ sở Đảng. Hầu hết anh em tù chính trị đều nhất trí với chủ trương của Đảng ủy, nhưng có một số đồng chí trẻ ở Banh III cứ yêu cầu bạo động cướp chính quyền, nhất là khi nghe tin bọn Pháp đã nhảy dù xuống nhiều nơi ở Đông Dương thì anh em càng thôi thúc đòi giành chính quyền ngay và tổ chức vượt biển về đánh Pháp.

Đảng ủy cứ người giải thích cho anh em Banh III rằng cách mạng trong nước đã thành công, nhất định Đảng và Chính phủ sẽ đưa tàu ra đón tù chính trị; mỗi một đảng viên còn sống đến hôm nay đều là vốn quý của Đảng mà Đảng bộ Côn Đảo có trách nhiệm phải bảo vệ bằng được, vì vậy cần tránh nôn nóng để khỏi đổ máu vô ích. Ý kiến của Đảng ủy được chấp hành một cách nghiêm túc, nhưng một số đồng chí vẫn ấm ức đến ứa nước mắt.

Thực hiện chủ trương giành chính quyền bằng phương pháp hòa bình, Trung tâm lãnh đạo đã cử một đoàn đại biểu đến gặp Quản đốc Lê Văn Trà yêu cầu:

– Mở cửa trại giam suốt đêm ngày. Tù nhân được tự do đi lại.

– Bãi bỏ hết sự kiểm soát của ma tà.

– Trao trả chính quyền trên đảo cho tù chính trị vì chính quyền trong đất đã về tay Việt Minh.

Lấy lý do là chưa có lệnh của Chính phủ, Trà không chịu bàn giao chính quyền. Tuy nhiên trước áp lực của tù chính trị, hắn buộc phải đồng ý cho tù nhân tự do đi lại ban ngày, ban đêm vẫn phải vào khám, khóa cửa lại; đồng ý tổ chức chính quyền liên hiệp trên đảo, có sự tham gia của tù chính trị; đồng ý tổ chức sửa chữa vô tuyến điện, sưa rađiô để nghe tin tức; sửa canh để đưa đoàn đại biểu về đất liền xin ý kiến của Chính phủ.

Sau mấy phiên họp bàn giữa Quản đốc Lê Văn Trà và đại diện tù chính trị, việc cử đại biểu tham gia bầu cử chính quyền liên hiệp được ấn định một cách rất chênh lệch: Quản đốc là một đại biểu; công chức 3 người một đại biểu; giám thị 5 người một đại biểu; còn tù chính trị thì 50 người một đại biểu; tù thường không được tham gia.

Đảng ủy tăng cường công tác tuyên truyền việc giành chính quyền của Việt Minh ở trong nước và vạch mặt bọn bù nhìn thân Nhật. Nhiều công chức có cảm tình đã bỏ phiếu cho đại biểu tù cộng sản, nhiều ma tà đã từng bị bọn thân Nhật hành hạ cũng bỏ phiếu cho tù cộng sản, vì vậy những người cộng sản đã thắng phiếu. Hội đồng liên hiệp quốc dân Côn Đảo ra đời với phần lớn là tù cộng sản.

Bị lép vế và trơ trẽn trong cuộc bầu cử, Lê Văn Trà và bọn tay sai rút súng đe dọa những người cộng sản, định xóa bỏ kết quả cuộc bầu cử. Tình thế hết sức căng thẳng, nhưng lực lượng bảo an yêu nước đã được bố trí án ngữ tất cả cứa ra vào và cứa sổ phòng bầu cử. Theo hiệu lệnh của đồng chí Phạm Hùng, Bí thư Đảng ủy, anh em đồng loạt lên đạn và chĩa súng vào Lê Văn Trà cùng đồng bọn.

Tình thế được xoay chuyển hẳn, đã đến lúc không thể cưỡng lại nữa, Lê Văn Trà đành hạ súng nộp cho những người cộng sản. Bọn tay chân cũng ngoan ngoãn làn theo hắn. Chính quyền thực tế ở trên đảo đã thuộc về những người cộng sản. Lê Văn Trà vẫn được sử dụng để điều hành công việc hành chính dưới sự chỉ đạo của Đảng ủy Côn Đảo. Đồng chí Lã Vĩnh Lợi, thành viên trong Hội đồng được cử làm đại diện của tù chính trị trực tiếp làm việc với Lê Văn Trà để giải quyết mọi việc.

Đảng ủy quyết định tổ chức lực lượng vũ trang để củng cố thực lực của cách mạng và chiến đấu bảo vệ đảo trong tình huống quân Pháp đổ bộ xâm lược trở lại. Đoàn phòng thủ Côn Đảo ra đời vào những ngày cuối tháng Tám 1945 với khoảng 300 đội viên, do đồng chí phạm Hùng, Bí thư Đảo ủy trực tiếp phụ trách. Ban chỉ huy còn có các đồng chí Phan Trọng Tuệ, Quỳnh Tây (Ngô Ngọc Du), Văn Viên và Thành Ngọc Quản. Vũ khí lúc đầu có vài chục khẩu súng lục tước được của Lê Văn Trà và hơn chục khẩu súng trường “mượn” của anh em bảo an. Anh em công xưởng (Bản Chế) ngày đêm rèn giáo mác, mã tấu để trang bị cho Đoàn phòng thủ. Một số đồng chí đã từng là du kích Bắc Sơn được cử ra huấn luyện quân sự. Anh em bảo an cũng giúp việc huấn luyện. Hàng ngày Đoàn phòng thu luyện tập, đi lại rầm rập trên các khu phố. Khí thế cách mạng bừng bừng, xua tan bầu không khí ảm đạm bao trùm Côn Đảo trong hơn 80 năm qua.

Đồng chí Tôn Đức Thắng cùng với một số anh em thợ giỏi đi làm việc suốt đêm ngày, quyết tâm sửa bằng được chiếc rađiô để nghe tin tức và sửa chiếc canh để liên lạc với đất liền. Tổ thợ máy chế tạo nhiều phụ tùng thay thế, trong vòng một tuần đã đại tu xong chiếc canô bị hư hỏng nặng.

Một buổi sáng đẹp trời, Côn Đảo bừng lên một tin vui: chiếc rađiô đã được sửa xong. Hàng chục mái đầu tù hồi hộp chụm quanh chiếc rađiô đang thu sóng điện. Tất cả lặng đi khi bắt gặp làn sóng điện một đài nước ngoài đang phát lại nội dung bản Tuyên ngôn độc lập mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc tại Quảng trường Ba Đình ngày 2-9-1945 và công bố danh sách Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Tiếng nói của một dân tộc đã thực sự giành được tự do, độc lập như một luồng điện lan truyền trong những người tù Côn Đảo. Những giọt nước mắt nóng bỏng tuôn trào trên gò má sạm nắng của người thợ máy Tôn Đức Thắng.

Đảng ủy Côn Đảo tổ chức ngay một cuộc mít tinh chào lá cờ đỏ sao vàng, mừng nước nhà độc lập, sau đó chia thành nhiều đoàn tuần hành biểu dương lực lượng trên các ngả đường Côn Đáo. Lời thề bảo vệ độc lập tự do đã khắc sâu trong lòng các chiến sĩ Côn Đảo.

Tình huống thực dân Pháp quay trở lại đặt nền thống trị đã được dự kiến với quyết tám chiến đấu đến cùng. Có lần một máy bay B.26 của Pháp sà xuống rất thấp phía mé biển Côn Đảo, lập tức hàng trăm chiến sĩ mang gậy gộc, giáo mác ào ào xông ra chuẩn bị chiến đấu đánh quân đổ bộ với lời thề: “Thà chết, quyết không chịu ở tù lần nữa!”

Đảng ủy chỉ đạo tổ chức các đoàn thể quần chúng như Thanh niên cứu quốc, phụ nữ cứu quốc nhằm giáo dục vận động số công chức, gác ngục và gia đình họ theo đường lối của Mặt trận Việt Minh. Một số em thiếu nhi, con của những công chức tiến bộ đã được Đảng ủy sớm chú ý giáo dục lòng yêu nước, giáo dục thái độ đúng đắn với tù chính trì và tổ chức các em vào Thiếu thi cứu quốc.

Đảng ủy chủ trương dẩy mạnh công tác tuyên truyền và huấn luyện nhằm đào tạo gấp một đội ngũ cán bộ cho Đảng. Ban tuyên huấn Đảo ủy biên soạn chương trình Việt Minh, chương trình quân sự và chính trị cơ bản huấn luyện cho anh em. Rút kinh nghiệm sau nhiều năm đào tạo và hoạt động, Đảng ủy đã chú trọng đào tạo những cán bộ vừa có lý luận, vừa có năng lực hoạt động thực tiễn, biết cách tổ chức và vận động quần chúng. Đó là một bước tiến trong việc huấn luyện và đào tạo cán bộ trong tù.

Đồng chí Lê Văn Lương, Đảo ủy viên được phân công trực tiếp chỉ đạo xuất bản tờ báo Độc Lập để góp phần phổ biến đường lối chính sách của Đảng ta và của Mặt trận Việt Minh. Ban biên tập có các đồng chí Nguyễn Xuân Hoàng, Trịnh Đình Trọng, Nguyễn Văn Vịnh, Nguyễn Mạnh Hoan, Sư Thiện Chiếu… Báo in thạch được khoảng 20 bản. Vì không có giấy khổ lớn nên phải in trên nhiều trang giấy học trò, khổ nhỏ như cuốn tạp chí; trang đầu in hai chữ Độc lập thật to, tiếp theo là bài xã luận nhan đề: Kiên quyết bảo vệ Độc lập – Tự do của Tổ quốc.

Rước chính trị phạm về đất liền

Ngay sau khi giành được chính quyền ở Sài Gòn, Xứ ủy Nam Kỳ triệu tập cuộc họp ngay trong đêm 25-8-1945 để bàn việc tổ chức chính quyền cách mạng. Quyết định đầu tiên của Xứ ủy là phải lập tức giải phóng Nhà tù Côn Đảo và tổ chức đón các chiến sĩ cách mạng ở Côn Đảo trở về. Hai đồng chí Đào Duy Kỳ và Nguyễn Công Trung vừa ở Côn Đảo về trong chuyến tàu ngày 25-8-1945 được giao nhiệm vụ này. Một ủy ban ủng hộ chính trị phạm được thành lập tại trụ sở báo Dân Chúng.

Bọn Pháp ở Sài Gòn đã câu kết với bọn Nhật đang đóng quân chờ giải giáp phá hoại việc tìm kiếm tàu thuyền. Chúng xui bọn Nhật tịch thu mất chiếc tàu Đờ Lanétxăng (De Lanessan) mà anh em công nhân Cảng Sài Gòn đã kéo về sửa chữa để đón tù chính trị. Được sự chỉ đạo trực tiếp của ủy ban hành chánh Nam Bộ và sự giúp đỡ tận tình của chính quyền cách mạng tỉnh Gò Công, ủy ban ủng hộ chính trị phạm đã huy động được chiếc tàu Phú Quốc cùng 32 chiếc ghe bầu chuyên đi biển. Đồng chí Chủ tịch ủy ban hành chánh Nam Bộ Trần Văn Giàu còn ký quyết định huy động 2 chiếc tàu kéo để nhanh chóng đưa đoàn ghe về địa điểm tập kết. Anh em công nhân Cảng Sài Gòn đã làm việc đêm ngày, tu sửa thật tốt con tàu Phú Quốc để sớm ra đón tù chính trị.

Ngày 12-9-1945, hai chiếc tàu kéo rời bến đưa đoàn ghe từ Vàm Láng (Gò Công) về tập kết tại cửa biển Đại Ngãi (Sóc Trăng), nơi thuận gió để giong buồm ra Côn Đảo. Anh Lý Văn Chương, một quần chúng cảm tình, ủy viên ủy ban ủng hộ chính trị phạm được cử phụ trách đoàn ghe. Đồng chí Tương Dân Bảo là đặc phái viên của ủy ban hành chánh Nam bộ ra rước anh em tù chính trị đi trên tàu Phú Quốc. Biết tin có đoàn ghe đi rước chính trị phạm, ủy ban hành chánh tỉnh Mỹ Tho và ủy ban hành chánh huyện Trà Ôn (Cần Thơ) đã mua trên 10 tấn gạo và thực phẩm gửi ra tiếp tế cho các đồng chí ở Côn Đảo.

Được sự hướng dẫn của đồng bào đánh cá vùng này, 5 giờ sáng ngày 16-9-1945, đoàn ghe nhổ neo, căng buồm ra Côn Đảo. Gần trưa, một cơn giông lớn ập đến, sóng gió dữ dội đánh tan đội hình đoàn ghe, có chiếc lạc đến tận cù lao Nam Sa, có chiếc dạt về Cồn Nốc. Anh em thủy thủ phải hạ buồm, lựa theo con sóng mà lái. Một thủy thủ bị cánh buồm gạt phăng xuống biển, sóng cuốn đi mất tích. Trận giông lớn làm lạc mất 7 chiếc ghe và làm các thủy thủ đều say sóng mệt lả nhưng 25 chiếc ghe còn lại đều quyết tâm ra Côn Đảo. 19 giờ ngày 16-9-1945, hai chiếc ghe đi đầu đã cập bãi Cỏ Ống – Côn Đảo. Tàu Phú Quốc cũng đến Cỏ Ống trong đêm ấy. Một số ghe bị dạt về Cồn Nốc nhờ đồng bào cư dân ở đây giúp đỡ đã sửa lại neo buồm và tiếp tục trở ra Côn Đảo trong những ngày sau đó.

Thấy tàu lạ, tổ quan sát ở Cỏ Ống lập tức cử người băng rừng về Côn Đảo báo cáo ngay trong đêm. Đoàn phòng thủ Côn Lôn được lệnh triển khai lực lượng chiến đấu. Suốt đêm hôm ấy Ban chỉ huy lo bố trí lực lượng theo phương án đánh quân đổ bộ trên 3 tuyến phòng thủ. Trong khi đó, tổ quan sát ở Cỏ Ống cử một số chiến sĩ dùng thuyền thúng áp sát tàu để điều tra mới biết là tàu của Chính phủ ra đón tù chính trị.

Tổ quan sát cứ người về ngay Côn Đảo báo cáo lúc rạng sáng ngày 17-9-1945. Đồng chí Tôn Đức Thắng cùng cùng đồng chí Lã Vĩnh Lợi được Đảo ủy cử sang Cỏ Ống đưa đoàn tàu thuyền và phái đoàn của Chính phủ về cầu tàu trong tiếng hò reo vang dậy. Cờ, khẩu hiệu và người chen nhau chật cầu tàu Côn Đảo. Cuộc mít tinh diễn ra ngay tại chỗ, nhiệt liệt chào mừng đoàn đại biểu của Chính phủ. Đồng chí Tưởng Dân Bảo gặp lại những người bạn tù năm xưa, ôm nhau mừng đến rơi nước mắt.

Buổi chiều ngày 17-9-1945, cuộc mít tinh chính thức được tổ chức trọng thể tại sân banh Côn Đảo. Lễ đài được dựng trang nghiêm hướng về phương Bắc. Đồng chí Tưởng Dân Bảo đọc quyết định của ủy ban hành chánh Nam Bộ về việc đón chính trị phạm Côn Đảo và tuyên bố: Từ giờ phút này, Côn Đảo là một mảnh đất hoàn toàn tự do và độc lập. Tham tá Lê Văn Trà nộp ấn tín của nhà ngục Côn Đảo lên vị đại diện của Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Một loạt súng nổ vang cùng những tiếng hò reo như sấm rền trên Côn Đảo giải phóng.

Các đại biểu của Đảo ủy, của Đoàn phòng thủ Côn Lôn, đại diện Thanh niên cứu quốc và Thiếu thi cứu quốc Côn Đảo đã phát biểu trong cuộc mít tinh. Trên 2.000 người dự mít tinh và chia thành nhiều đoàn tuần hành qua cát ngả đường và hò vang các khấu hiệu cách mạng. Những đảng viên người Hoa và những người tù chính trị Campuchia cũng hân hoan hát những bài ca bằng tiếng Trung Hoa và tiếng Thơm.

Trong giây phút thiêng liêng của tự do và độc lập, mọi người đều ngậm ngùi tưởng nhớ đến hàng ngàn người con ưu tú đã hy sinh trong những năm tháng khủng bố ác liệt của kẻ thù. Anh em tù chính trị chia nhau đi viếng mộ và tạc bia cho các đồng chí của mình. Lối chôn tù vô nhân đạo của bọn chúa ngục làm cho việc tìm mộ từng người rất khó khăn. Gió cát đã xóa đi dấu vết riêng biệt của từng ngôi mộ. Hàng ngàn nấm mộ chỉ còn là những mô cát nhấp nhô. Nhiều gò cát bị mưa gió làm xói lở để lộ ra từng mảng xương trắng xám. Đoàn đại biểu của Chính phủ cùng với các thủy thủ đã kính cẩn đặt vòng hoa trên mộ nhà chí sĩ yêu nước Nguyễn An Ninh và mộ đồng chí Lê Hồng Phong. Không ai cầm được nước mắt khi đứng trước hàng ngàn nấm mồ vô danh của nhiều thế hệ, giữa một vùng cát vàng, xương trắng mênh mông.

Được tin Chính phủ ra sắc lệnh xây dựng Quỹ độc lập và tổ chức Tuần lễ vàng (4-9-1945), Đảo ủy đã thành lập Ban vận động quyên góp tiền và vàng đóng góp cho nước nhà. Các đoàn thể Thanh nên cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc cũng tích cực tuyên truyền vận động. Nhiều công chức, ma tà vừa được trở thành công dân của một nước độc lập đã tháo cả nhẫn vàng, dây chuyền ra đóng góp cho cách mạng. Chỉ trong mấy ngày, Ban vận đóng đã thu được một số tiền và vàng trị giá 2.000 đồng (tiền Đông Dương) đem về góp cho Chính phủ.

Đảo ủy lập danh sách toàn bộ tù chính trị để đưa về đất liền. Những người tù chính trị người Trung Quốc, Campuchia, Lào, Thái Lan cùng một số tù tường phạm và công chức đã giác ngộ cũng được bố trí đưa về đất liền. Đảo ủy còn lập một danh sách những đảng viên trung kiên, đã được thử thách trong tù để giới thiệu với Đảng. Anh em thủy thủ tích cực tu sửa thuyền buồm cho chắc chắn.

Rạng sáng 23-9-1945, tàu Phú Quốc cùng 25 chiếc ghe bầu đá nhổ neo đưa 1.800 tù chính trị trở về đất liền. Chiếc canô mà anh em tù chính trị đã chữa lại được mang tên Giải phóng, do chính tay người thợ máy Tôn Đức Thắng lái đưa một số đồng chí trong Ban lãnh đạo trở về. Đảo ủy phân công một đồng chí ở lại lãnh đạo những anh em tù còn chờ chuyến tàu sau. Tháng 9 biển thường nổi giông, đoàn ghe lại bị một trận sóng to gió lớn giữa biển như để thử thách cả đoàn thủy thủ và đoàn tù chính thức trên đường trở về. Chiếc canh Giải phóng bị đánh văng mất một thùng dầu.

Toàn bộ danh sách Đảo ủy bố trí đưa về khoảng 2.300 người. Tàu Phú Quốc chỉ chở được hơn 400, môi ghe chở được từ 40 đến 60 người, chiếc canh chở 13 người. Còn lại khoảng 500 người, tàu Phú Quốc phải ra chuyến nứa mới chở hết. và làm vỡ chiếc la bàn mà đồng chí Tôn Đức Thắng tự chế. Sóng lớn nhồi lắc làm nước cặn trong đáy thùng dầu nổi lên, khiến máy bị chết nhiều lần. Tổ thợ máy vừa lái canh vừa thay nhau xả cặn nước trong máy và chăm sóc các đồng chí say sóng ói mứa. Từ khi vỡ la bàn, đồng chí Tôn Đức Thắng không rời tay lái, nhằm bướng gió mà cắt sóng trở về phía đất liền.

Chiều 23-9-1945, tàu Phú Quốc và những chuyến ghe đầu tiên đã cập bến Đại Ngãi (Sóc Trăng) trong sự tiếp đón nồng nhiệt của Đảng bộ và nhân dân địa phương. Chiếc canô Giải phóng sau nhiều lần trục trặc trên biển đã được đồng chí Tôn Đức Thắng điều khiển chạy vào cửa biển Mỹ Thanh. Bác Tôn là người cầm lái vĩ đại không phải chỉ trên chiếc canh này mà trong suốt 15 năm trong ngục Côn Đảo. Bên cạnh Bác là hai chàng trai trẻ Lê Văn Lương – Phạm Hùng đầu đội án ghém, gan góc và thông minh khiến cả dám gác ngục Tây – ma tà đều kính nể, nhưng với đồng chí mình thì rát đỗi thân thương. Lê Văn Lương nắm chặt tay Phạm Hùng, ngắm nhìn gió biển lướt trên mái tóc bạc bồng bềnh của Bác Tôn trong bình minh của Tự do – Độc lập.

Đồng bào ở các cửa biển được chính quyền cách mạng thông báo trước đã căng cờ, khẩu hiệu đón tù chính trị từ nhiều ngày. Canh còn cách bờ hơn một cây số, ghe xuồng ở trong đất đã lao ra vây quanh đón anh em tù chính trị. Nhiều đồng chí lả đi trên tay đồng bào. Các bà má và các chị phụ nữ không ai cầm được nước mắt.

Đêm hôm ấy được tin từ Sài Gòn báo về, bọn Pháp phản động đã nổ súng đánh phiếm Sài Gòn, mở đầu cuộc xâm lược lần thứ hai. Đồng chí Phạm Hùng và một số đồng chí trong Đảo ủy vội lên xe về ngay Sóc Trăng để gặp Xứ ủy nhận nhiệm vụ. Đồng chí Tôn Đức Thắng cùng hai người thợ máy là Nguyễn Hùng Minh và Nguyễn Hồng Phước cũng lên canô về Cần Thơ ngay trong đêm.

Theo đề nghị của Đảo ủy Côn Đảo, những đồng chí ở Nam Bộ được bố trí trở về quê và được Xứ ủy giới thiệu với chính quyền địa phương để tham gia công tác. Hàng trăm đồng chí quê ở miền Bắc dều tình nguyện ở lại tham gia cuộc kháng chiến theo lời kêu gọi của Xứ ủy và ủy ban hành chánh Nam Bộ.

Đồng chí Tôn Đức Thắng cũng nhận nhiệm vụ ngay, không kịp ghé thăm người vợ yêu quý và hai người con gái lúc ấy đang ở cách Cần Thơ chỉ vài chục cây số. Mười bảy năm ở tù, từng ngày từng giờ đấu tranh chống lại cùm xiềng và đày ải đồng chí hiểu hơn hết giá trị của độc lập, tự do, cần phải bảo vệ bằng “tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải” của mình, như lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Tuyên ngôn Độc lập.

Tàu Phú Quốc trở ra đảo một chuyến nữa đón ngay các đồng chí còn ở lại Côn Đảo. Do tình hình trong đất đang phức tạp, những người tù thường phạm chưa được đón về, nhưng họ được coi như những công dân tự do giống như những người công chức, ma tà trên hòn đảo này. Đồng chí Nguyễn Văn Cừ, đại diện của Việt Minh ra lần này hướng dẫn những người tù thường phạm và công chức, ma tà còn ở lại tổ chức chính quyền trên đảo. lviặc dầu chính quyền mới còn nhiều hạn chế, ủy ban hành chánh Côn Đảo đã được bầu ra theo nguyên tắc phổ thông đầu phiếu thay thế cho bộ máy trị tù của thực dân Pháp trước đây.

Gần 2.000 tù chính trị ở Côn Đảo trở về đã tăng cường một lượng cán bộ lãnh đạo rất to lớn cho Đảng ta. Hàng trăm đồng chí được cử vào cương vị lãnh đạo chủ chốt của Xứ ủy, Khu ủy, Tỉnh ủy, ủy ban hành chánh kháng chiến các cấp và trong lực lượng vũ trang trong hí”ng ngày đầu kháng chiến chống thực dân Pháp ở sam Bộ. Cũng chính những người tù này không đầy 9 năm sau đã cùng với quân và dân ta làm nên chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ chấn động dịa cầu, đóng chiếc đinh cuối cùng vào cỗ quan tài chủ nghĩa thực dân cũ của Pháp ở Đông Dương.

Nguồn: Lịch sử nhà tù Côn Đảo 1862 – 1975

Xem thêm:

Nhà tù Côn Đảo từ 1862 đến 1930

Nhà tù Côn Đảo từ năm 1930 đến trước Chiến tranh Thế giới Thứ Hai (1939)

Nhà tù Côn Đảo từ năm 1930 đến trước Chiến tranh Thế giới Thứ Hai (1939)

Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, nước Pháp bị lôi cuốn vào cuộc chiến tranh. Thực dân Pháp ở Đông Dương mở cuộc tấn công vào Đảng Cộng sản và phong trào quần chúng; đồng thời chúng vơ vét nhân tài, vật lực ở Đông Dương ném vào cuộc chiến tranh đế quốc. Đời sống các tầng lớp nhân dân ta lâm vào cảnh cùng cực. Tình thế cách mạng cũng xuất hiện tại Nhà tù Côn Đảo từ năm 1930 đến trước Chiến tranh Thế giới Thứ Hai (1939).

Chi bộ khám Chỉ Tồn Banh I (1930 -1934)

Ngày 9-2-1929, Quốc dân đảng tổ chức ám sát tên trùm mộ phu Badanh tại Hà Nội. Thực dân Pháp điên cuồng khủng bố, bắt hàng trăm người yêu nước và cách mạng. Tháng 7 năm 1929, theo lệnh của toàn quyền Pátkiê (Pièrre Pasquier), các phiên toà đại hình được mở cùng một thời gian ở hơn 20 tỉnh và thành phố Việt Nam. Hàng trăm người bị kết án và đày ra Côn Đảo, trong đó có một số hội viên Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí Hội. Đây là những chiến sĩ cộng sản đầu tiên trên Côn Đảo.

Ngày 10-2-1930 cuộc khởi nghĩa Yên Bái của Việt Nam Quốc dân đảng nổ ra và bị thực dân Pháp dìm trong biển máu. Nguyễn Thái Học và một số lãnh tụ Việt Nam Quốc dân đảng bị xử tử, hầu hết số đảng viên còn lại bị bắt tù. Chuyến tàu Cơlốt Sáp (Claude Chappe) ngày 18-6-1930 rời cảng Hải Phòng chở hơn 200 đảng viên Việt Nam Quốc dân đảng và gần 40 đảng viên cộng sản vừa bị bắt đày ra Côn Đảo.

Tại cửa biển Vũng Tàu, thực dân Pháp dồn tù từ tàu Cơlốt Sáp qua tàu Ácmăng Rút sô (Hardmand Rousseaux) vừa chở đoàn tù từ Khám Lớn (Sài CTòN) đến để đưa cùng một chuyến ra Côn Đảo. Trong lúc chuyển tàu đoàn tù cộng sản đã phất cao lá cờ đỏ búa liềm và hô to các khẩu hiệu:

– Đả đảo đế quốc Pháp!

– Phản đối bắn giết, tù đày !

– Đáng Cộng sản Việt Nam muôn năm!

Hình ảnh lá cờ đỏ búa liềm tung bay trên biển Vũng Tàu và âm vang của những khẩu hiệu đã báo hiệu một thời kỳ đấu tranh cách mạng mới ở nhà tù Côn Đảo.

Cuối năm 1930 thực dân Pháp đưa thêm mấy chuyến tù ra Côn Đảo, nâng con số tù nhân ở đây lên 1992 người. Tù chính trị lúc này mới có khoảng hơn 300 người mà phần đông là Việt Nam Quốc dân đảng bị cấm cố trong Banh II. Hơn 1.600 tù nhân còn lại tập trung ở Banh I và các sở tù khổ sai. Nhiều đảng viên cộng sản bị kết án khổ sai cũng bị giam chung với tù thường phạm ở Banh I…

Lớp người cộng sản đầu tiên bị đày ra Côn Đảo còn gặp một số sĩ phu yêu nước thuộc các phong trào Đông Du, Đông kinh nghĩa thục, phong trào chống thuế ở Trung Kỳ và một vài nghĩa quân của các cuộc khởi nghĩa Hương Khê, Yên Thế, Duy Tân… còn sống sót sau nhiều năm bị đày ải ở đây.

Nhà tù Côn Đảo là nơi tụ hội của những người yêu nước và những người cách mạng Việt Nam sau mỗi lần thực dân Pháp khủng bố ác liệt. Theo Niên giám thống kê Đông Dương, từ năm 1930 đến năm 1933, thực dân Pháp đã bắt giam 216.532 người. Riêng ở Bắc Kỳ trong 2 năm 1930-1931 chúng đã mở 21 phiên tòa đại hình xử nhiều vụ với 64 án tử hình, 114 án khổ sai chung thân và 430 án lưu đày biệt xứ. Nhiều người trong số đó đã lần lượt bị đày ra Côn Đảo.

Mặc dù mỗi năm có đến hàng trăm người tù chết nhưng con số tù nhân ở Côn Đảo vẫn không ngừng tăng lên:

Năm 1931: 2.145 người

Năm 1932: 2.276 người

Năm 1933: 2.483 người

Năm 1934: 2.818 người1.

Phần lớn số tù nhân tăng lên trong thời kỳ này là những đảng viên cộng sản và quần chúng yêu nước bị thực dân Pháp bắt sau cao trào cách mạng 1930-1931. Dưới thời tên chúa ngục khát máu Buviê (Bouvier, 1927-1934) nhà ngục Côn Đảo thật ghê rợn và ảm đạm.

Tháng 11 năm 1930, một trận bão lớn ập đến Côn Đảo, trại giam Sở Lưới sập làm 75 người tù chết thê thảm; Banh I, Banh II và nhà cửa trên đảo đều bay hết ngói. Sau trận bão, tù nhân được huy động đi sửa chữa ngay nhà cửa cho binh lính và gác ngục, còn họ thì phải sống cảnh “màn trời chiếu đất” trong mấy tháng trời. Ngày phơi nắng, đêm phơi sương và phải chịu những trận mưa bất thường ập đến nhiều người tù mòn mỏi, suy kiệt rồi mang bệnh mà chết. Năm 1930, Nhà tù Côn Đảo đã vùi xác 311 người tù, tỷ lệ chết là 15,6%, cao nhất trong các nhà tù ở Đông Dương.

Vừa ra đời và phất cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, lật đổ ách thực dân, những người cộng sản Việt Nam đã phải đương đầu với bộ máy đàn áp khổng lồ: tòa án phát xít và nhà tù nổi tiếng tàn bạo ở Đông Dương. Tên thực dân khét tiếng chống cộng Pátkiê khi nhận chức toàn quyền Đông Dương đã tuyên bố: Không diệt hết cộng sản không về.

Không thể chém đầu hàng loạt được vì nền thống trị thực dân cần phải lừa bịp về chính trị, vì vậy nhà tù là công cụ khủng bố chủ yếu của chúng. Không giết được hàng loạt ngay một lúc thì giết dần, giết mòn. Nhà tù là nơi tập trung đày ải làm tiêu mòn ý chí chiến đấu và tiêu diệt lực lượng cách mạng.

Năm 1931, Nhà tù Côn Đảo có 2.146 tù nhân thì có 209 người đã chết, tức là cứ đày 10 người tù ở Côn Đảo là mỗi năm chúng giết được một người. Với tốc độ giết người như vậy, sau 10 năm đày ải, bọn thực dân có thể giết sạch một lớp tù. Nhiều người đã chết khi chưa được nửa án. Lớp tù nhân của cao trào cách mạng 1930-1931 bị đặt trước hai tình huống: hoặc là chịu chết dần mòn trong lao tù, hoặc là đấu tranh đòi cải thiện chế độ nhà tù, giành lấy sự sống. Những người cộng sản đã thảo luận ngay phương châm tổ chức và đấu tranh chống chế độ khủng bố, đọa đày. Cuộc thảo luận kéo dài vì Côn Đảo không giống bất cứ nhà tù nào ở trong đất liền.

Ở Hỏa Lò (Hà Nội) hay Khám Lớn (Sài Gòn), tù nhân tuyệt thực ngày hôm trước là hôm sau chấn động cả thành phố, dư luận quần chúng bên ngoài lên tiếng ủng hộ. Ở một nơi heo hút như ngục Sơn La, trong vòng 8 tháng đày đọa, 43 tù nhân bị giết hại (1933) đã làm xôn xao dư luận. Để dập tắt phong trào đấu tranh ở nhà tù Sơn La và bưng bít ngay dư luận, tên toàn quyền Pátkiê đã ra lệnh đày những người còn sống sót ra Côn Đảo. Bọn gác ngục trong đất liền lại được dịp đe dọa tù nhân: “Ra Côn Đảo tha hồ mà đấu tranh, ở ngoài ấy có sóng biển ủng hộ chúng mày!”.

Cùng thời gian ấy, năm 1933 tại Nhà tù Côn Đảo đã có 85 người chết; trong vòng 4 năm, từ 1930 đến 1933 thực dân Pháp đã giết hại 708 tù nhân tại nhà ngục này, nhưng dư luận bên ngoài không hề biết. Các nhà tù ở đất liền đều gần gũi và có sự phối hợp hoạt động với các tổ chức cách mạng và phong trào cách mạng của quần chúng, với dư luận tiến bộ, còn Côn Đảo là một hòn đảo biệt lập.

Giữa biển khơi mênh mông, Côn Đảo không có dân cư, chỉ có tù nhân, cai ngục và sự đọa đày. Đó là một nhà tù “lý tưởng” mà bọn thực dân đã sớm chọn để có thể khủng bố những người chống đối chúng một cách man rợ nhất, bất chấp cả dư luận và pháp luật. Tất cả các yêu sách của tù nhân đều được trả lời bằng roi vọt và những hình phạt khắc nghiệt. Các cuộc bạo động đều bị đàn áp bằng súng máy và lưỡi lê.

Cuộc đàn áp đẫm máu khám tù chung thân Banh I năm 1918 và không khí khủng bố, chết chóc ở Côn Đảo những năm 1930 làm không ít người tù ngao ngán. Lớp cộng sản đầu tiên ra Côn Đảo còn gặp những người tù cũ bị đày đọa ở đây đã trên 30 năm. Có người đã ngoài 70 tuổi còn bị đày ra Côn Đảo như cụ Nguyễn Thiện Kế, em ruột người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Nguyễn Thiện Thuật. Có người bị đày ra khi tóc còn xanh cho đến hơn 70 tuổi vẫn chưa được về như cụ Lãnh Đạt, một tướng của Phan Đình Phùng.

Đày ra Côn Đảo là không còn hy vọng trở về. Trong tình hình đó có một số ít người cầu an, dao động, nhưng phần lớn số đảng viên cộng sản đều vững vàng và nung nấu ý chí cách mạng. Tổ chức và đấu tranh là vũ khí sắc bén của người cộng sản. Sống là tranh đấu. Ở nhà ngục Côn Đảo muốn sống càng phải tranh đấu.

Vấn đề thành lập chi bộ Đảng làm hạt nhân lãnh đạo trong nhà tù được những người cộng sản thảo luận sôi nổi. Nhiều vấn đề rất mới nảy sinh trong các cuộc thảo luận. Ở Côn Đảo có tổ chức chi bộ đảng được không? Chi bộ trong nhà tù hoạt động như thế nào? Ai công nhận và chỉ đạo hoạt động của chi bộ? Tiêu chuẩn để công nhận đảng viên trong nhà tù ra sao? Có ý kiến cho rằng tổ chức chi bộ trong một nhà tù hà khắc nhất định sẽ bị địch khủng bố, như vậy sẽ không bảo vệ được cán bộ. Có ý kiến cho rằng ở Côn Đảo không có quần chúng, không có phong trào cách mạng nên không thể tổ chức và đấu tranh thắng lợi được.

Vấn đề tiêu chuẩn đảng viên được thảo luận rất kỹ. Không thể tránh khỏi những đảng viên sai phạm về nguyên tắc hoạt động bí mật, sai phạm khi bị bắt hoặc sai phạm trong tù. Những sai phạm ấy chưa được kiểm điểm và xử lý; chưa được xác định tính chất, mức độ và kỷ luật… Vậy thì xét công nhận đảng viên như thế nào? Ngay cả những người không sai phạm cũng đưa ra ý kiến: Tôi vẫn là đảng viên, chưa hề bị kỷ luật khai trừ, vậy lấy tư cách gì để kết nạp tôi vào Đảng?

Sau nhiều lần thảo luận, mặc dù có những vấn đề chưa đủ căn cứ để giải đáp, song nhiều ý kiến đã thống nhất rằng: Bất cứ ở đâu và trong hoàn cảnh nào người cộng sản cũng phải không ngừng hoạt động cách mạng; nơi nào có người cộng sản là ở đó cần có tổ chức Đảng để giáo dục đảng viên, giác ngộ quần chúng và lãnh đạo đấu tranh; vào tù không phải là nằm im chờ đợi hay bó tay chịu chết; ngay ở Côn Đảo cũng phải tiếp tục cuộc đấu tranh cách mạng và cần phải có tổ chức Đảng làm hạt nhân lãnh đạo.

Chi bộ đầu tiên ở Nhà tù Côn Đảo ra đời gắn liền với hoạt động của đồng chí Nguyễn Hỡi, nguyên ủy viên Thường vụ Ban Chấp hành Trung ương lâm thời Đảng Cộng sản Việt Nam, Bí thư Tỉnh ủy Nam Định. Ngay khi mới ra đảo, bị giam ở Banh II, Nguyễn Hỡi đã bàn bạc với một số đồng chí gần gũi rằng cần phải thành lập ngay một tổ chức hạt nhân cộng sản để lãnh đạo trong tù. Cuối năm 1931, khi bọn chúa ngục chuyển những người tù chính trị mang án khổ sai và án tù về Banh I thì nhóm hạt nhân được hình thành do Nguyễn Hỡi đứng đầu.

Banh I là điển hình của chế độ khổ sai giết tù. Xây chưa xong hai mố cầu Ma Thiên Lãnh, bọn chúa ngục đã giết hại 356 người tù. Xây cầu tàu Côn Đảo trong nhiều năm chúng đã vùi xác gần một ngàn người. Hầu như mỗi mảnh đất, gốc cây, tảng đá ở Côn Đảo đều khắc sâu nỗi cực nhọc và thấm máu của những người tù khổ sai. Banh I là hiện thân của “địa ngục trần gian”, những công việc khổ sai như xay lúa, đốn củi, kéo gỗ, kè đá, mò san hô, dọn tàu… còn rùng rợn hơn cả cái chết.

Banh I là điển hình của những hình phạt man rợ: đòn roi, còng, xiềng, xà lim, hầm xay lúa, cấm cố biệt lập v.v… Có những lúc để chia rẽ tù, bọn gác ngục đã lựa cá khô còn tốt phát cho tù chính trị Banh II, cá khô mục thối phát cho tù khổ sai Banh I. Trong lúc tù chính trị ở Banh II được nhận tiền và quà của gia đình thì tù khổ sai ở Banh I chỉ được nhận tối đa mỗi tháng một đồng. Bất cứ lúc nào bọn gác ngục cũng có thể đánh đập bắt họ “đền tội với xã hội. Những người cộng sản chỉ có một “tội” yêu nước và đấu tranh cho độc lập tự do, bị kết án khổ sai cũng phải chịu chung sự đối xứ dã man như vậy.

Khổ cực và uất hận chất chồng, tù nhân Banh I đã nhiều lần vùng lên chống lại bằng nhiều cách: giết bọn cặp rằng lưu manh, giết những tên gác ngục hung ác, tự tử để phản đối hoặc nổi dậy phá ngục. Họ thà chết còn hơn chịu cảnh ngược đãi, đọa đày, song những cuộc đấu tranh như vậy chỉ làm cho bọn chúa ngục thêm bạo ngược, còn phần lớn tù nhân thì kéo dài tình trạng bế tắc và tuyệt vọng.

Một bộ phận lưu manh loại “anh chị” tiếp tục cuộc đời lưu manh trong tù, kết bè đảng với nhau để áp bức những người tù yếu thế. Chúng trở thành một loại công cụ đắc lực của bọn chúa ngục để đày đọa đến cùng cực người tù, từ việc cưỡng bức khổ sai đến cả lúc ăn, ngủ và nghỉ. Nhiều tên cặp rằng lưu manh gian ác không kém gì gác ngục như Cai Nhất (kíp đốn gỗ), Tư Nhỏ (kíp san hô), Bảy Tốt (hầm xay lúa)…

Trong sự đày đọa khốn cùng, những người cộng sản Banh I phải quyết định lấy vận mệnh, hoặc là chịu chết mỏi mòn, hoặc là đấu tranh để sống trở về tiếp tục hoạt động cách mạng. Song muốn thay dù một con cá khô mục thối, muốn bớt dù chỉ một thanh củi, một viên đá, một tảng san hô là phải chống lại cả một chế độ khổ sai giết tù, là phải chống chọi cả một bộ máy khủng bố, từ tên chúa đảo đến đám gác ngục và bọn cặp rằng tay sai. Đó chính là cuộc đấu tranh cách mạng trong tù, đòi hỏi những người cộng sản phải được tổ chức thành đội ngũ chặt chẽ, có khả năng tập hợp quần chúng tù thường và có phương châm, hình thức đấu tranh thích hợp.

Chi bộ Đảng ở Côn Đảo ra đời vào khoảng đầu năm 1932 tại khám Chỉ Tồn Banh I, lúc đầu có chừng 20 đảng viên, đồng chí Nguyễn Hỡi làm bí thơ, chi ủy có các đồng chí Tôn Đức Thắng, Tống Phúc Chiếu, Tạ tuyên, Tống Văn Trân… Đồng chí Phan Đình Khải (Lê Đức Thọ) khi bị đày sang Banh I cũng được bổ sung vào chi ủy. Chi bộ xác định những nhiệm vụ chủ yếu là:

– Lãnh đạo đấu tranh trong tù.

– Giáo dục, bồi dưỡng lý luận cho nhau.

– Tuyên truyền giác ngộ binh lính, giám thị.

– Liên hệ với Đảng ở đất liền và tổ chức trốn.

Hoạt động trong tù, chi bộ đặt lên hàng đầu lòng trung thành với Đảng, xem như tiêu chuẩn quan trọng nhất của đảng viên. Bất cứ ai giữ cương vị nào trong Đảng, khi bị bắt phải giừ vững khí tiết, vào tù không dao động cầu an, không ngần ngại đấu tranh mới được tổ chức vào chi bộ. Đảng viên phải tán thành việc tổ chức Đảng ở trong tù, phải tham gia hoạt động trong tù, vận động quần chúng tù thường, tuyên truyền binh lính, gác ngục và đi đầu trong đấu tranh.

Chi bộ trong tù không quy định đảng phí, ai có bao nhiêu tiền đều góp cả dùng chung. Tiền dùng để mua đồ cứu tế mua dầu đèn, sách báo để học tập và mua sắm các phương tiện để vượt đảo. Mặc dù chưa được Đảng bộ cấp trên công nhận, chi ủy vẫn có uy tín tuyệt đối trong chi bộ cũng như trong toàn thể tù chính trị.

Suốt thời kỳ khủng bố trắng của thực dân Pháp, các cơ sở Đảng hầu hết bị tan vỡ, một phần lớn đảng viên bị bắt. Các cơ quan Trung ương, Xứ ủy, Tỉnh ủy cũng phải lập đi lập lại nhiều lần. Những cơ sở Đảng còn hoạt động được là nhờ lòng trung thành với sự nghiệp cách mạng, nhờ tính năng động cách mạng và sáng tạo của đội ngũ cán bộ, đảng viên.

Banh I thường xuyên có trên dưới 1.000 tù nhân, là trung tâm khổ sai của Nhà tù Côn Đảo. Sở Chỉ Tồn có đến 500 tù nhân là lực lượng khổ sai tập trung đông nhất. Từ cổng Banh I nhìn vào, bên phải là dãy khám 1-2-3-4-5 giam tù làm bồi bếp, bản chế, vệ sinh (Sở tẩy), thợ hồ và một vài sở khác. Sở Chỉ Tồn chiếm toàn bộ dãy khám 6-7-8-9-10 bên trái. Vừa là một trung tâm khổ sai cực nhọc, Chỉ Tồn vừa là một trung tâm tiếp nhận và phân bổ tù nhân. Hầu hết tù khổ sai về Banh I. đều phải trải qua một thời gian làm khổ sai ở Chỉ Tồn, sau đó mới phân về các sở tù khác.

Chỉ Tồn những năm 1930 cũng là nơi tập trung nhiều đảng viên cộng sản ở Banh I. Ở đó đảng viên gần gũi với số đông tù thường phạm và có điều kiện tiếp xúc với binh lính, gác dang, ma tà cho nên anh em có dịp tuyên truyền, vận động và giác ngộ họ. Địa bàn khổ sai rộng và sự luân chuyển tù giữa Chỉ Tồn và các sở tù khác giúp chi bộ có điều kiện nắm tình hình và chỉ đạo các kíp tù khổ sai.

Chi bộ vận động cho một số đảng viên được ra làm ở các sở ngoài. Một số đồng chí biết nghề được nhận vào làm ở Nhà Thương, Nhà Đèn, Ban Chế. Một số người biết tiếng pháp được bố trí làm bồi bếp và thư ký các công sở. Một số khác ra các sở tù khổ sai bên ngoài. Đảng viên của chi bộ đi đến đâu là phát triển cơ sở Đảng ở đó.

Sau một thời gian, các cơ sở Đảng lần lượt được thành lập ở khám 1, khám 2, khám 3, khám 4, Nhà Đèn, An Hải, An Hội, Bến Đầm, Sở Muối, Đá Trắng, Cỏ Ống… Chi bộ Chỉ Tồn là trung tâm chỉ đạo, có vai trò như một Đảng ủy. Mặc dù thường bị xáo trộn, chi bộ Chỉ Tồn vẫn là nơi tập trung nhiều đồng chí có trình độ lãnh đạo, đảm nhiệm được vai trò trung tâm chỉ đạo.

Hội tù nhân

Giáo dục giác ngộ tù thường phạm, tổ chức và lãnh đạo họ đấu tranh là một nhiệm vụ cấp bách của chi bộ. Bằng phẩm chất, tơ cách của mình, những người cộng sản đã từng bước cảm hóa tù thường phạm. Không bao giờ giành ăn, giành mặc, tù cộng sản còn giúp đỡ thường phạm những lúc cần.

Sau trận bão tháng 11 năm 1930, tù nhân đau yếu rất nhiều, các đồng chí Nguyễn Hỡi, Tôn Đức Thắng, Tống Văn Trân đã chỉ đạo tổ chức tương tế trong tù để giúp đỡ lẫn nhau. Hội cứu tế Banh I lần đầu tổ chức được khoảng 100 người tù, mỗi người góp quỹ một xu để mua thuốc bệnh, dầu cù là, đường, sữa, đậu xanh… dùng vào việc cứu tế.

Ở Côn Đảo, ốm đau là nỗi khốn cùng của người tù. Không ăn được, không có thuốc uống mà vẫn phải đi làm khổ sai, đuối sức không làm được là nhừ đòn với gác ngục. Vậy mà ít người dám khai bệnh và đi khám ở nhà thương vì những thầy thuốc tay sai của thực dân thường chỉ xem qua loa rồi ghi hai chữ N.M. (non malade: không ốm) hoặc C.M (consunation motivée: ốm vờ) là bị đánh đập và bị phạt xà lim.

Từ khi có Hội cứu tế, lần đầu tiên trên hòn đảo tù, những tù nhân ốm đau được săn sóc. Từng viên thuốc bệnh, từng giọt dầu xoa và bàn tay chăm sóc ân cần của những người cộng sản đều có sức cảm hóa sâu sắc đối với những người tù đau ốm. Ngay cả số tù lưu manh quen giành giật miếng cơm, manh áo trong tù cũng được những người cộng sản giúp đỡ khi cần thiết, cũng được thương như thương một con người. Những tên lưu manh loại “anh chị” dần dần tỏ thái độ kính nể những người cộng sản.

Bằng hình thức cứu tế thích hợp và những quan hệ quần chúng tốt, những người cộng sản đã cảm hóa và tập hợp một số đông tù thường phạm, từng bước đưa họ vào cuộc đấu tranh đòi cải thiện chế độ lao tù. Công tác vận động binh lính, gác ngục cũng sớm được chú trọng. Kíp tù làm ở Sở Ruộng gây được thiện cảm với tốp lính đi áp giải. Kíp tù quét dọn trong trại lính cũng vận động được một số binh linh là đảng viên Đảng xã hội Pháp mua giúp sách báo tiến bộ.

Một số gác dang được cảm hóa đã bớt hung hãn hơn, có những người như Alếchdăng (Alexandre) hay Simatămbi (Simatamby) không bao giờ đánh tù. Các chú ma tà1 số 4, số 5, số 10 được giác ngộ đã giúp nhiều việc đắc lực cho chi bộ. Kíp dọn tàu tích cực liên hệ với thủy thủ trên tàu để đặt đường dây liên lạc với đất liền.

Qua các thủy thủ có cảm tình và những cơ sở của Đảng ta trên các chuyến tàu thường ghé Côn Đảo, chi bộ đã liên lạc được với một số cơ sở Đảng ở đất liền. Tài liệu sách báo của Đảng được chuyển ra Côn Đảo, giấu Trong các bao thóc, giỏ cá đưa thẳng về nhà kho Banh I và Banh II. Một số lính Pháp có cảm tình cũng mua giúp sách báo tiến bộ. Các đồng chí ở Nhà Thương, Nhà Đèn và kíp dọn tàu là những đầu mối liên lạc trực tiếp với binh lính và thủy thủ, tiếp nhận sách báo cho chi bộ.

Nhà Thương, Nhà Đèn còn là hai đầu mối hên lạc giữa chi bộ Chỉ Tồn và các cơ sở bên ngoài. Tin tức, tài liệu và ý kiến chỉ đạo của chi bộ được chuyển qua Nhà Thương đến Nhà Đèn. Các sở Chuồng Bò, An Hải, An Hội, Cỏ ống, Sở Muối, Đá Trắng, Bến Đầm… mỗi lần về nhận lương thực, thực phẩm và mua hàng ở tiệm tạp hóa đều ghé cơ sở Nhà Đèn nhận tài liệu và báo cáo tình hình về chi bộ Chỉ Tồn.

Gia đình chú ma tà số 5 cũng là một đầu mối liên lạc của chi bộ. Bà cụ Ba là người phúc hậu, ghét Tây và thương anh em tù cách mạng. Cô Bảy, em chú ma tà số 5 giữ tiền quỹ cho chi bộ và mua giúp những thứ cần thiết2. Tiệm tạp hóa của cô là nơi đi lại của các đồng chí trong chi bộ. Chi bộ còn đặt mua báo chí ở Sài Gòn gửi nhà cô Bảy. Các đồng chí phụ trách giao thông đến đọc và lấy tin tức. Bà cụ và cô Bảy vừa bán hàng vừa canh gác bảo vệ anh em. Tình thương và sự thông minh của hai mẹ con bà cụ đã nhiều lần cứu thoát các đồng chí ta khói nanh vuốt của bọn gác ngục3.

Giao thông liên lạc giữa các khám trong Banh I và tù Banh I qua Banh II chủ yếu dựa vào Nhà bếp và Sở tẩy, mỗi khi chia cơm và quét dọn vệ sinh, các đồng chí phụ trách giao thông lại có dịp chuyển tài liệu cho từng khám. Các đồng chí ở Sở tẩy hằng ngày quét dọn vệ sinh còn chuyển tài liệu cho Banh II bằng cách ném qua tường hoặc tuồn qua lỗ cống thông giữa hai banh. Kíp Sở tẩy ở Banh II nhận tài liệu và thông tin cho Banh I cũng bằng con đường ấy.

Các đồng chí Lê Đức Thọ ở Nhà thương, Tô Thúc Rịch ở Nhà đèn, Tôn Đức Thắng, Tống Văn Trân ở Sở tẩy, đồng chí Thiệt ở nhà kho và nhiều đồng chí ở Nhà bếp đã tích cực góp phần bảo đảm mạch máu giao thông của chi bộ. Có lần đồng chí Hồng và đồng chí Hổ do lộ đường dây, bị đánh đập dã man và phạt hầm nhưng không ai hé răng khai báo. Các đồng chí Lý Hồng Nhật và Lang Kiều (thầy thuốc Nam) có những đóng góp tích cực trong công tác cứu tế tù nhân3.

Cải tạo chế độ Hầm xay lúa

Khoảng năm 1933, bọn gác dang phát hiện được đồng chí Tôn Đức Thắng liên hệ với tù chính trị Banh II và phạt giam đồng chí vào Hầm xay lúa. Hầm xay lúa vừa là một hình thức khổ sai để tận dụng lao động của tù nhân, vừa được cấu tạo một cách đặc biệt để đày đọa người tù và trớ thành một hình phạt khủng khiếp, địch gọi là “khu trừng giới” (quatier diciplinaire).

Trực tiếp điều hành trong Hầm xay lúa là một cặp rằng1 chính và 4 cặp rằng phụ do xếp banh chỉ định trong số tù lưu manh loại “anh chị”. Bọn này tập hợp hàng chục tên lưu manh đàn em để phục dịch cơm nước và đấm bóp cho chúng. Cả bọn cấu kết với nhau trút tất cả những công việc khổ sai nặng nhọc lên đầu những người tù khác.

Từ 5 giờ sáng tới 17 giờ chiều, Hầm xay lúa chật chội, ầm ĩ, bụi bặm, oi bức và ngột ngạt. Hơn 100 người tù bị xiềng xích, 200 bao thóc chất đống, 5 cối xay và 2 quạt gió đồ sộ chen chúc nhau trong một căn hầm rộng chừng 150 mét vuông. Quạt gió thổi ù ù, cối xay quay ầm ầm; tiếng xích sắt loảng xoảng lê dưới chân người tù, tiếng thớt cối nặng nhọc nghiến vào nhau chen lẫn tiếng roi quật đen đét lên những tấm lưng trần và những tiếng rít chửi độc địa của bầy cặp rằng lưu manh hòa thành một thứ âm thanh rùng rợn của Hầm xay lúa.

Khác với các sở tù khổ sai, bọn lưu manh trong Hầm xay lúa được toàn quyền hành hạ người tù, chúng hung dữ như một bày quỷ sứ. Bọn gác ngục chỉ đứng ngoài song sắt để chứng kiến lòng trung thành của đám tù tay sai đã được chúng kích động bản tính lưu manh. Bị áp bức đến cùng cực, tù nhân Hầm xay lúa trở nên hung bạo, thỉnh thoảng họ lại đập chết những tên cặp rằng hung ác.

Đồng chí Tôn Đức Thắng vào Hầm xay lúa được ít hôm thì cặp rằng Bảy Tốt bị hai người tù thường phạm đập vỡ sọ bằng một khúc gỗ lim, âm mưu dùng tay bọn tù lưu manh để sát hại đồng chí, xếp banh chỉ định ngay Tôn Đức Thắng làm cặp rằng chính. Hiểu được ý đồ thâm độc này, một số đồng chí cộng sản cùng bị đày ở Hầm xay lúa lúc ấy bàn với Tôn Đức Thắng nên nhân dịp này nắm quyền lực để cải tạo chế độ Hầm xay lúa.

Hâm xay lúa – Nơi lao dịch của các chiến sĩ tù cộng sản

Lần đầu tiên những công việc ở Hầm xay lúa được tổ chức lại. Tất cả mọi người đều làm việc. Những người yếu được bố trí vào kíp sàng gạo và đóng bao, người khỏe thì xay và khuân vác thóc. Kíp đứng cối nặng nhọc nhất được bố trí thêm người, thay nhau người làm người nghỉ. Thấy có một số tù nhân ngồi nghỉ, tên gác dang coi Hầm xay lúa chực xông vào đánh thì Tôn Đức Thắng ôn tồn bảo hắn: “Đủ gạo thì thôi, đánh đập có ích gì “Nói vậy nhưng chẳng bao giờ đủ gạo. Cặp rằng Tôn Đức Thắng không bắt tù xay nhiều thóc. Có lần tên xếp banh đích thân đến quở trách, đồng chí Tôn Đức Thắng đã trả lời hắn: “Tôi có thể chỉ huy cả một đội quân Lê dương2 nhưng tôi không thể điều khiển tù nhân xay lúa theo ý các ông được”.

Đồng chí Tôn Đức Thắng khi trước làm thợ máy trong Hải quân Pháp, năm 1919 đã từng kéo lá cờ cách mạng trên biển Hắc Hải bảo vệ nước Nga Xô Viết, bọn gác ngục Pháp đều biết tiếng, ngay cả đám tù lưu manh cũng phải kiêng nể. Những người tù thường phạm đã nhiều lần bị phạt Hầm xay lúa thì hết sức ngạc nhiên. Lần đầu tiên họ thấy một ông cặp rằng không hề đánh tù mà ôn tồn chỉ bảo cho từng người cách làm việc, cách cư xử với nhau. Bọn gác ngục Pháp thì rất hậm hực vì công việc đã không chạy mà tù nhân lại đoàn kết với nhau.

Nhóm cộng sản trong Hầm xay lúa tích cực giáo dục, cảm hóa tù thường. Hội cứu tế tù nhân được tổ chức trong Hầm xay lúa. Những người ốm đau được chăm sóc chu đáo. Hội tù tổ chức cạo gió xoa bóp cho nhau, san sẻ nỗi mệt nhọc trong ngày. Buổi trưa, khi bọn gác ngục về hết, Hội tù xúc gạo nấu cơm ăn thêm để bảo đảm sức khỏe. Buổi tối, Hội tù tổ chức học văn hóa, nói chuyện truyền thống, giáo dục lòng yêu nước cho tù thường. Không khí đoàn kết, học tập và giúp đỡ lẫn nhau dần dần thay thế cho sự thù hằn, chia rẽ. Nhiều người tù thường phạm rất ham học văn hóa. Anh Dừ, tù án lưu (relégué) chưa biết chữ nào, nhờ học mấy tháng ở Hầm xay lúa mà viết được thư về cho vợ làm cả nhà hết sức ngạc nhiên. Đến khi nhận được thư vợ gửi ra, anh cảm động đến phát khóc.

Nhiều người tù lưu manh cảm phục những người cộng sản mà bớt hung hãn hơn. Có người giác ngộ, sau về tham gia kháng chiến. Tình hình được cải thiện trong Hầm xay lúa làm bọn gác dang không vừa lòng. Tên xếp banh quyết định thay cặp rằng chính nhưng vẫn chỉ định Tôn Đức Thắng và Tô Hiệu làm cặp rằng phụ. Hết hạn phạt, Tôn Đức Thắng trở về Sở tẩy- Có tên gác dang ngạc nhiên hỏi: “Mêcanixiêng3 còn sống đấy hả? Tưởng chết rồi chứ?”

Nhiều cặp rằng Hầm xay lúa đã bị tù nhân đập chết trước khi mãn hạn phạt, nhưng bọn thực dân không thể hiểu được rằng những người cộng sản đang từng bước cải tạo “địa ngục trần gian” này.

Tổ chức đấu tranh, giành quyền sống

Sau khi thành lập chi bộ, những người cộng sản ở Côn Đảo tiếp tục thảo luận vấn đề đấu tranh trong tù.

Một số người cho rằng ở Côn Đảo không thể đấu tranh bằng hình thức tuyệt thực, lãn công, bãi công được mà chỉ có thể bạo động cướp chính quyền. Quan điểm này được viết thành tài liệu và đưa ra thảo luận rộng rãi, song nhiều ý kiến kiên quyết phản đối quan điểm trên.

Đồng chí Nguyễn Hỡi viết nhiều bài trên báo Tiến Lên khẳng định rằng: ở Côn Đảo không thể có động cướp chính quyền được mà chỉ có thể tập hợp lực lượng, lãnh đạo đấu tranh bằng các hình thức lãn công, bãi công, tuyệt thực đòi cải thiện chế độ lao tù. Quan điểm này được số đông tù cộng sản tán thành và trở thành phương hướng chỉ đạo của chi bộ.

Giữa năm 1933, gần 100 tù cộng sản từ Khám Lớn (Sài Gòn) bị đày ra Côn Đảo sau vụ án 121 đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương chấn động dư luận. Cuối năm 1933, thực dân Pháp đày 200 tù chính trị ở Sơn La và Hỏa Lò (Hà Nội) ra Côn Đảo. Nhà tù Côn Đảo trở thành nơi tập trung đày ải một phần lớn cán bộ, đảng viên và các đồng chí lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương lúc đó.

Chi bộ có thêm nhiều cán bộ lãnh đạo xuất sắc như Ngô Gia Tự, Phạm Hùng, Nguyễn Công Thương (Lê Văn Lương), Lê Quang Sung, Nguyễn Chí Diễu, Trần Quang Tặng… Ngô Gia Tự tham gia ngay cuộc tranh luận về vấn đề đấu tranh trong tù, đồng chí khẳng định: “Phải đấu tranh giành lấy quyền sống, không thể để cho bọn chúa ngục muốn làm gì thì làm!”.

Qua thực tiễn tổ chức và đấu tranh ở các nhà tù Sơn La, Hỏa Lò (Hà Hội) và Khám Lớn (Sài Gòn), với sự đóng góp của nhiều cán bộ có trình độ lý luận, cuộc thảo luận đã xác định rõ mục tiêu đấu tranh trong tù, một loại hình đấu tranh mới mẻ và đặc biệt đối với những người cách mạng Việt Nam. Đấu tranh trong tù được xác định là một bộ phận trong toàn bộ cuộc đấu tranh cách mạng nhằm chống chế độ lao tù hà khắc, bảo vệ sinh mạng, duy trì tinh thần chiến đấu và rèn luyện, đào tạo đội ngũ cán bộ cho Đảng.

Cuộc thảo luận còn đi đến kết luận rằng các chi bộ ở Côn Đảo phải thống nhất trong một tổ chức Đảng có tính chất toàn đảo Trung tâm chỉ đạo vẫn ở khám Chỉ Tồn. Đồng chí Ngô Gia Tự được cử làm bí thơ và thể hiện vai trò lãnh đạo xuất sắc Nhiệm vụ cụ thể của Đảng bộ được xác định rõ là:

– Lãnh đạo tương tế.

– Lãnh đạo đấu tranh.

– Lãnh đạo học tập và tự học tập

– Tổng kết kinh nghiệm đấu tranh cách mạng, biên soạn và dịch thuật tài liệu cho Đảng.

– Tổ chức trốn (tiếng lóng lúc ấy gọi là “đi câu”).

Qua thư từ gửi về đất liền, đảng bộ đã nối được liên lạc với Xứ ủy Nam Kỳ. Các đồng chí mãn án trở về được chi bộ giới thiệu và giao nhiệm vụ liên lạc với Xứ ủy báo cáo sự ra đời và hoạt động của chi bộ nhà tù Côn Đảo, đề nghị Đảng công nhận và cung cấp sách báo, tài liệu để huấn luyện cho cán bộ, đảng viên. Chi bộ còn đề nghị Đảng phát động một phong trào đấu tranh dòi ân xá tù chính trị và vận động quần chúng gửi tiền và quà ra tiếp tế cho tù chính trị ở Côn Đảo. Việc liên lạc với đất liền đã gắn bó những hoạt động của tù chính trị ở Côn Đảo với phong trào cách mạng ở Đông Dương lúc đó.

Lớp tù chính trị ở Sơn La, Hỏa Lò (Hà Hội) và Khám Lớn (Sài Gòn) ra đã tăng thêm tinh thần và lực lượng cho tù chính trị Côn Đảo. Chi bộ Chỉ Tồn tích cực củng cố Hội tù nhân và chuẩn bị mọi mặt cho các cuộc đấu tranh. Sau nhiều lần thảo luận ở các khám và các sở tù mùa hè năm 1934 một cuộc Hội nghị đại biểu tù nhân dã được triệu tập tại một động cát phía sau sở Chuồng Bò, đại biểu các kíp tù khổ sai Banh I và các sở tù khổ sai, thay mặt cho hơn 300 hội viên đã quyết định thành lập Hội tù nhân thống nhất.

Do được chuẩn bị chu đáo và bí mật, các đại biểu đã thảo luận trong hai tiếng đồng hồ, giải quyết xong các vấn đề cơ bản của Hội tù. Mặc dù số đông hội viên là tù cộng sản, tôn chỉ, mục đích của Hội tù nhân vẫn thể hiện tính chất quần chúng rộng rãi:

– Giúp đỡ nhau trong lúc đau yếu và trong việc làm (khổ sai)

– Đấu tranh đòi cải thiện sinh hoạt và giảm nhẹ khổ sai.

– Tổ chức học tập văn hóa.

Một Ban lãnh đạo chung toàn đảo được thành lập gồm các đồng chí Nguyễn Hỡi, Ngô Gia Tự, Trần Quang Tặng…

Thực tế hoạt động sau này, Hội tù nhân dưới sự lãnh đạo trực tiếp của chi bộ Đảng đã tổ chức nhiều cuộc đấu tranh có tính chất chính trị và mở các lớp học lý luận cho cán bộ, đảng viên và thu hút nhiều quần chúng, tù thường tham gia. Mục đích, tôn chỉ của Hội tù nhân được xác định ngay từ đầu có sức thuyết phục đối với quần chúng, tù thường phạm và cả những người tù thuộc các đảng phái khác. Nhiều người tù thường phạm đã được giác ngộ và được kết nạp vào Hội tù nhân. Phần lớn họ là những người lao động bị bần cùng hóa đến mức phải phạm tội. Một số khác vốn là người lao động bị bắt oan, hoặc là những nông dân đã phản kháng lại sự áp bức của bọn phong kiến, địa chủ1.

Những cuộc đấu tranh đầu tiên đòi giảm nhẹ khổ sai đã nổ ra ở khám Chỉ Tồn. Chi ủy đã thảo luận kỹ với Hội tù nhân về mức khổ sai hợp lý cho từng kíp việc rồi giao cho Ban tranh đấu chỉ đạo đấu tranh.

Ở kíp vận chuyển, bọn chúa ngục bắt 5 người phải đẩy một xe bò lớn chất đầy củi, gạch. Đường xa ba, bốn cây số mà mỗi ngày phải đi 5 chuyến. Nhiều đoạn đường dốc và cát sỏi tù nhân phải bắt bánh nhích từng bước dưới nắng rát và roi vọt. Đi chậm là đòn, thiếu chuyến là phạt hầm, xiềng. Ban lãnh đạo quyết định chỉ đạo đấu tranh đòi 7 người đi một xe, mỗi ngày chỉ đi 3 chuyến (sáng 2 chuyến, chiều một chuyến), Ban tranh đấu chịu trách nhiệm chỉ đạo các kíp tù kiên quyết đấu tranh đòi thực hiện bằng được.

Giữa năm 1934, kíp xe củi từ An Hải về Lò Than đấu tranh đòi 7 người đi một xe. Tên gác dang Luyđôvích Đờ Lít (Ludowic de Lys) và bọn ma tà vung roi đánh túi bụi. Cả kíp tù bỏ việc vây quanh xe. Chấp hành kỷ luật đấu tranh không ai rời vị trí. Giằng co hàng giờ đồng hồ, sau chúng phải chịu để 7 người đẩy một xe. Đến đoạn đường dốc bọn gác ngục đánh trả thù, cả kíp tù lại bỏ xe hô khẩu hiệu phản đối. Cuộc đấu tranh do các đồng chí trong chi ủy như Ngô Gia Tự, Trần Quang Tặng, Phạm Hùng, Lê Văn Lương… trực tiếp chỉ đạo. Lần ấy ai cũng chuẩn bị tinh thần chịu phạt hầm, xiềng nhưng không ai việc gì.

Kíp xe gạch từ Lò Gạch về nhà thương cùi (hủi) đấu tranh đòi 7 người đẩy một xe, cả kíp bị phạt xiềng trong khám 6-7. Kíp xe thóc từ cầu tàu về Banh II cũng đòi 7 người đẩy một xe. Ban lãnh đạo chỉ đạo người cầm càng, định ra từng chặng nghỉ giải lao, định tốc độ đi… sao cho vừa đúng hai chuyến là hết buổi sáng.

Cuộc đấu tranh diễn ra ngay trước mũi tên chúa đảo Buviê, bọn gác ngục đánh tù như điên như dại. Hôm ấy xếp Banh I phải dành riêng khám 10 để nhốt những người bị thương. Các cuộc đấu tranh đều được chi ủy chỉ đạo chặt chẽ, giao nhiệm vụ đến tận từng người, kiên quyết đấu tranh nhưng tuyệt đối không manh động để địch kiếm cớ đàn áp.

Trong đoàn tù Sơn La ra Côn Đảo, cuối năm 1933 có nhiều người bị tê phù và sốt rét nặng mà vẫn buộc phải đi làm khổ sai. Bọn cặp rằng lưu manh còn tác oai tác quái trong các kíp tù, hành hạ những người ốm yếu một cách tàn nhẫn vì không làm nổi việc. Có lần chúng đánh anh Tăng Văn Thiều chết ngất khiến tù nhân hết sức phẫn nộ. Ít lâu sau, tên Tư Nho lại đánh đồng chí Nguyễn Ngọc Cư trọng thương. Chi ủy quyết định trừng trị bọn cặp rằng lưu manh. Các đồng chí Ngô Gia Tự, Bảy Cùi, Phạm Hùng, Lê Văn Lương, Vũ Duy Cương… trực tiếp thực hiện quyết định này. Tên Tư Nhỏ bị đánh một trận nhừ tử.

Do tổ chức chặt chẽ và biết cách đối đáp nên không ai việc gì. Tư Nhỏ bị phạt hầm tối. Anh em cử Ngô Gia Tự làm cặp rằng khám Chỉ Tồn. Các khám khác và các sở tù cũng lần lượt lật đổ chế độ cặp rằng tay sai, bầu những cặp rằng cộng sản. Kíp Nhà bếp cử đồng chí Đào Gia Lựu làm cặp rằng lo việc cải thiện đời sống cho tù nhân.

Các cuộc đấu tranh đói giảm nhẹ khổ sai vẫn liên tiếp nổ ra. Kíp đập đá đòi giảm định mức từ 0,3 m3 xuống 0,2 mét khối. Kíp dọn tàu rất vất vả, anh em tổ chức thành 2 ca, luân phiên nhau vừa làm, vừa nghỉ. Mặc dù đã được cả gác dang và ma tà trông coi đồng ý, nhưng đến khi tên Xếp chánh Cơrítsơchiani (Cristiani) đến kiểm tra là hắn vung gậy bổ tới tấp xuống đầu những người tù đang ngồi nghỉ, bất kể đám gác ngục phân bua thế nào. Đồng chí Nguyễn Chí Diễu bị phạt 90 ngày hầm tối, còng cả hai chân và phải ăn cơm nhạt, uống nước lã 10 ngày.

Một lần tàu chở thóc ra đảo, các bao thóc trộn lẫn nhiều sỏi và đất, anh em kíp dọn tàu phát hiện và yêu cầu nhà kho không nhận. Đốc tờ Nhã, một bác sĩ có lương tâm đến kiểm tra cũng xác nhận là thóc không thể ăn được. Chúa đảo Buviê đã được chủ thầu hối lộ nên trả lời rằng từ trước đến nay vẫn như vậy. Tên chủ thầu gian giảo nói với đốc tờ Nhã: ông là người Việt Nam, tôi cũng là người Việt Nam, sao ông làm khó dễ cho tôi vậy?.

Trước mặt chúa đảo Buviê, đốc tờ Nhã đã trả lời thẳng thắn với chủ thầu: : Thế những người tù đây có phải là người Việt Nam không. Nếu ai trộn sỏi đất vào thóc như vậy cho ông ăn, ông có ăn được không? Buviê giận tái mặt, nhưng trước sự đoàn kết đấu tranh của tù nhân và thái độ cương quyết của đốc tờ Nhã, một thành viên trong Ban tiếp nhận, hắn buộc phải cho tàu chở thóc về Sài Gòn.

Đốc tờ Nhã có cảm tình đặc biệt với tù cộng sản. Thời gian làm bác sĩ ở đảo (1933-1934) ông cấp cho anh em tù nhiều thuốc bổ và thuốc bệnh. Có lúc ông ghi đơn thuốc và chế độ ăn cho tù nhân có cả tim gan lợn, rau xanh, đường sữa… và kiên quyết yêu cầu xếp banh phải thực hiện đúng chế độ đối với người bệnh. ông còn yêu cầu chúa đảo cung cấp mỗi tuần 10 kg tim gan lợn cho tù nhân đau ốm.

Kíp đốn củi, kíp kéo gỗ cũng tích cực đấu tranh đòi hạ mức khổ sai. Kíp lấy san hô đòi tự tổ chức công việc của mình. Bọn gác dang buộc phải đồng ý. Hội tù nhân vận động anh em đoàn kết tương trợ nhau, người khỏe kèm người yếu, người biết làm hướng dẫn người chưa biết làm.

Cách tổ chức của những người cộng sản đã làm cho công việc lấy san hô bớt rùng rợn hơn xưa. Ngày nào kíp san hô cũng lấy đủ số lượng trước giờ quy định, không ai bị đánh đập nữa. Thời gian chờ nước lên để vào bờ, anh em bắt cá, cua cải thiện đời sống. Tù thường phạm rất phục những người cộng sản, họ thường nói: “Xem đống san hô cộng sản làm là biết tài của cộng sản”. Không riêng kíp san hô, ở các kíp tù khổ sai khác tù thường phạm cũng phục tài tổ chức và tinh thần đấu tranh của tù cộng sản. Tù thường phạm tham gia đấu tranh ngày càng nhiều.

Tổ chức và hoạt động của tù chính trị ở Hòn Cau Ngay từ năm 1930, khi vấn đề thành lập chi bộ trong tù mới được đưa ra thảo luận thì đã có một số tù cộng sản bị đày ra Hòn Cau.

Cách thị trấn Côn Đảo 12 km về phía đông, Hòn Cau rộng 1,8 km2. Ba mặt Hòn Cau là vách đá, nơi làm tổ của loài chim yến, phía nam Hòn Cau là thung lũng đất tốt có vườn cây trái xanh tươi. Bãi cát sát mép biển viền chân thung lũng một màu trắng mịn. Đó là nơi cơ trú và sinh sôi của các loài vích và đồi mồi. Từ thuở Nguyễn Ánh ra Côn Đảo tị nạn đã có một số người dân sinh cư lập nghiệp trong thung lũng Hòn Cau.

Vùng đất ấy mang tên xóm Bà Thiết (Võ Thị Thiết), người có công đầu trong việc khai khẩn và tạo dựng. Xóm cổ còn để lại dấu vết đậm nét trên những con đường ngang dọc lát đá và giếng nước cổ xưa, trong khu vườn cây trái lâu đời gồm các loại dừa, cau, xoài, mãng cầu xanh tốt. Khi thực dân Pháp thiết lập Nhà ngục Côn Đảo thì Hòn Cau được tổ chức thành một sở tù để khai thác các nguồn lợi trên đảo này. Dân xóm Bà Thiết bị trục xuất về đất liền.

Khu trại giam Hòn Cau nằm ở trên một dải cát tương đối bằng phẳng ở nửa phía tây thung lũng. Trại giam Hòn Cau gồm 5 gian nhà lợp tranh rộng chừng 6 mét, dài khoảng 20 mét, chỉ có một cửa ra vào, xung quanh bưng kín bằng gỗ ván. Trước mặt nhà giam, chỉ cách vài thước là nhà ăn của tù nhân chạy suốt dãy nhà giam, cũng lợp tranh nhưng xung quanh để trống. Phía trước nhà ăn là một cái sân rộng. Qua sân là một vườn mãng cầu, xa hơn là bãi cát ven biển dài chừng 700 mét. Phía tây trại giam là bàn giấy của tên đội ma tà, còn phía đông trại giam là Nhà bếp, nhà kho và chuồng heo.

Hòn Cau vừa là một sở tù khổ sai, vừa là hòn đảo biệt lập để đày tù. Tuy vậy, bọn chúa ngục không có điều kiện thiết lập một chế độ đày ải quá khắc nghiệt. Buổi sáng, tên đội tập trung tù nhân trước sân để giao công việc, mấy tên ma tà trông coi tù làm và canh gác đề phòng tù trốn. Buổi tối chúng lại bắt tù tập trung trước sân để điểm danh vào khám.

Hằng tháng, thuyền ở Côn Đảo chở lương thực ra Hòn Cau rồi chở hoa quả và thực phẩm về. Mỗi khi có tù trốn, tù ốm hay hoa quả chín nhiều, tên đội lại cho đốt một, hai hoặc ba đống lửa ở mỏm đá phía tây Hòn Cau báo hiệu cho bọn gác ngục ở thị trấn Côn Đảo ra giải quyết. Đến mùa chim yến làm tổ, chúa đảo đưa một kíp tù nhân qua lấy tổ yến về nộp cho hắn.

Hòn Cau từng là nơi đày đọa nhiều thế hệ tù nhân yêu nước. Từ năm 1929, trại giam Hòn Cau có thêm những người tù chính trị cấm cố án nặng thuộc các tổ chức Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí Hội, Quốc dân đảng và một số người chống Pháp thuộc các xu hướng chính trị khác. Tù Quốc dân đảng ở Hòn Cau một số có tư tưởng chống cộng quyết liệt như Nhượng Tống, Đội Sơn, Đội Luyện…

Ngay từ khi bị giam chung ở Hỏa Lò họ đã xuyên tạc chủ nghĩa cộng sản là “tam vô” và ra tờ báo Con đường cách mạng chống lại chủ trương của những người cộng sản. Bị những người cộng sản phê phán tư tưởng tư sản lỗi thời, đường lối cách mạng không triệt để và tính chất manh động thì phái Quốc dân đảng cực đoan vô cùng căm tức, tìm mọi cơ hội trả thù. Vừa bị đày ra Hòn Cau, lợi dụng số lượng đông hơn, họ viết “tối hậu thư” buộc những người cộng sản đầu hàng (?!).

Mặc dầu lúc đầu mới có khoảng năm, sáu người, nhóm cộng sản ở Hòn Cau vẫn kiên quyết bác bỏ tối hậu thư của Quốc dân đảng. Anh em phê phán chủ nghĩa Tam Dân, tranh thủ những người yêu nước chân chính trong hàng ngũ Quốc dân đảng và nêu khẩu hiệu “Liên hiệp đấu tranh”, đòi được tự làm nhà để ở (không ở trong trại giam), đòi phải sử dụng lao động tù nhân vào những việc nhằm cải thiện đời sống người tù và đòi không được nộp thịt vích cho chúa ngục trong lúc Hòn Cau đang thiếu thực phẩm.

Những người yêu nước chân chính trong hàng ngũ Quốc dân đảng và cả những người trung lập đều ủng hộ chủ trương của tù cộng sản. Bọn cực đoan bị cô lập. Tên đội ma tà cai quản ở đây buộc phải chấp nhận các yêu sách của tù nhân. Những người tù cộng sản dựng nhà riêng ở phía đông trại giam, gần ngôi mộ bà Thiết. Tù Quốc dân đảng cũng làm nhà ra ở phía tây trại giam, còn tù thường phạm thì ở lại trong trại.

Khoảng cuối năm 1930, đồng chí Phạm Văn Đồng cùng một số tù chính trị bị đày sang Hòn Cau, “xóm cộng sản” tăng lên gần 20 người. Hầu hết những người cộng sản đều nhất trí rằng: đã là người cộng sản thì ở đâu cũng phải sinh hoạt trong một tổ chức, thống nhất với nhau về tơ tưởng, hành động và sinh hoạt. Anh em tập trung tất cả tiền và quà gia đình gửi ra để dùng chung, tổ chức trồng rau, mì (sắn) và đan lưới đánh cá cải thiện. Một số đồng chí được phân công phụ trách các công tác “ngoại giao”1, tổ chức học tập và cải thiện đời sống.

Tháng 9 năm 1931, nhiều ngồi tù chính trị cấm cố án nặng (trên 10 năm) bị đày tiếp ra Hòn Cau, đưa số tù cộng sản ở đây lên gần 30 người. Đồng chí Phạm Văn Đồng đã tổ chức một cuộc họp toàn thể anh em tù cộng sản để trao đổi tình hình và củng cố tổ chức.

Công việc khổ sai ở Hòn Cau có phần nhẹ nhàng hơn các sở tù khác. Tranh thủ được thời gian và sự dễ dãi của bọn ma tà, nhóm cộng sản tích cực tổ chức học tập. Nhiều đồng chí trước đây là thợ mỏ chưa biết chữ nào, nhờ được hướng dẫn đã đọc thông viết thạo. Người đã có học ít nhiều thì học thêm các môn văn hóa và ngoại ngữ. Mỗi môn học được hướng dẫn vài buổi mỗi tuần, còn chủ yếu là cá nhân tự học, vậy mà học được rất nhiều. Môn ngoại ngữ có người đạt được yêu cầu: đọc nói và viết. Những người giỏi ngoại ngữ tự nghiên cứu sách lý luận bằng tiếng Pháp. Đồng chí Phạm Văn Đồng lược dịch cuốn Kinh tế chính trị học của Lapiđuýt (Lapidus) rồi giảng cho anh em.

Các buổi tối, anh em cộng sản thường sinh hoạt, khi thì quây quần quanh đống lửa nhỏ để thảo luận những vấn đề chính trị, có khi là nghe giới thiệu về những tác phẩm văn học ưu tú trên thế giới hoặc nghe đồng chí Phạm Văn Đồng trình bày những bài học về Cách mạng tháng Mười (1917). Dịp kỷ niệm Cách mạng tháng Mười Nga năm 1931, những người tù cộng sản đã đưa lên “sân khấu” Hòn Cau một màn kịch tự soạn theo cuốn Mười ngày rung chuyển thế giới của Giôn Rít. Hình ảnh đất nước Lênin trong những ngày sôi sục cách mạng đã làm sống lại những bài học của cuộc Cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại, làm say mê cả người diễn và người xem.

Quá trình họe tập, sinh hoạt và thái độ đúng mực của những người cộng sản có ảnh hưởng tốt đến số đông tù nhân ở Hòn Cau. Trong nội bộ tù Việt Nam Quốc dân đảng ở đây diễn ra một sự phân hóa sâu sắc, bắt đầu từ khi cuộc khởi nghĩa Yên Bái thất bại. Việc truyền bá chủ nghĩa Mác-lênin vào Việt Nam và sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam với cương lĩnh cách mạng triệt để đã làm cho nhiều đảng viên Việt Nam Quốc dân đảng nhận rõ sự mơ hồ của chủ nghĩa Tam Dân và tính chất không triệt để trong tôn chỉ, mục đích của Quốc dân đảng. Nhiều cuộc tranh luận gay gắt đã nổ ra. Phái cực đoan đứng đầu là Đội Sơn và Nhượng Tống ra sức báo vệ chủ nghĩa quốc gia thuần túy. Phái tả đại diện là Tương Dân Bảo, Nguyễn Phương Thảo (Nguyễn Bình) đã nghiêng hẳn về phía chủ nghĩa cộng sản. Phái giữa mà đại diện là Phạm Tuấn Tài, Trần Huy Liệu thì say mê lý tương của chủ nghĩa cộng sản nhưng lại không nỡ để cho Quốc dân đảng chết. Họ muốn dung hòa các chủ nghĩa để đem lại một chủ nghĩa mới cho Việt Nam Quốc dân đảng.

Những xung đột về tư tưởng diễn ra dưới mọi hình thức trong nội bộ Việt Nam Quốc dân đảng ở Hòn Cau dã dẫn đến một vài cuộc ẩu đả lẫn nhau. Phạm Tuấn Tài, một sáng lập viên của Việt Nam Quốc dân đảng phải dứng ra dàn xếp. Một tiểu ban giải thích chủ nghĩa của Quốc dân đảng được thành lập và đưa ra lời giải thích: “Trước làm cách mạng dân tộc, sau làm cách mạng thế giới có nghĩa là trừ bỏ những áp bức về chính trị, kinh tế và xã hội (cách mạng) để mưu hạnh phúc cho người Việt Nam (cách mạng dân tộc) và người thế giới (cách mạng thế giới)2.

Bản giải thích này không thuyết phục được ai. Các cuộc xung đột nội bộ vẫn tiếp tục xảy ra. Một số lãnh tụ Quốc dân đảng chủ trương giải quyết mâu thuẫn trên bằng cách tổ chức vượt ngục về đất liền để cải tổ Việt Nam Quốc dân đảng, đổi tên và xây dựng chủ nghĩa mới cho đảng. Cuộc vượt ngục được khởi sự vào đầu năm 1932, cuối mùa gió chướng3. Gió đã yếu và thổi không đều nên bè quanh quẩn ở Hòn Cau, không thoát đi được. Sáng ra bọn gác ngục ở Hòn Cau phát hiện và nổi hiệu lửa cho canô ở Côn Đảo ra bắt lại. Những người cộng sản chưa kịp tổ chức vượt ngục cũng bị đưa về Banh II, chỉ có vài người tù cũ được để lại trông coi vườn cây trái.

Tổ chức và hoạt dộng của tù chính trị Banh II

Banh II được cấu trúc một kiểu như Banh I nhưng được dành riêng để đày ải tù chính trị với chế độ khác biệt hẳn. Tù nhân Banh II bị cấm cố trong khám, mỗi ngày chỉ được ra ngoài hai lần, mỗi lần chưa đến mười phút để nuốt vội miếng cơm hẩm đầy sạn và thóc. Vào cấm cố vài tháng là ghẻ lở đầy người, mòn mỏi đi vì thiếu ánh sáng, khí trời và dinh dưỡng. Thêm vào đó là chế độ ăn uống tồi tệ, nhiều người bị kiết lỵ nặng rồi chết. Năm 1931, Banh II có hơn 300 tù chính trị thì có 30 người chết vì bệnh tật. Tháng 3 năm 1932, Thanh tra thuộc địa ra Côn Đảo đã nhận xét: “Chế độ phát lưu (déportation) hiểu và thực hiện như thế này thì nặng hơn chế độ khổ sai”.

Đáng lẽ người bị án phát lưu được sinh sống tự do như dân thường trên đảo, được giúp đỡ làm nhà riêng, được đưa vợ con ra nếu muốn, được tự do mua sách báo, học tập và nghiên cứu, biên soạn chỉ trừ việc xuất bản phổ biến và đi ra khỏi đảo1. Thế nhưng bất chấp cả luật pháp, bọn thực dân đã thi hành một chính sách đày đọa độc tài và phát xít. Mỗi lần tù nhân đấu tranh đòi quyền lợi của tù chính trị thì bọn chúng đều trả lời thẳng thừng: Không xử tử được tụi bay thì chúng tao phải làm cho tụi bay mục xương trong tù. Nếu như bọn chúa ngục giết tù nhân Banh I bằng khổ sai thì chúng giết tù Banh II bằng cấm cố.

Banh II từ đầu năm 1930 là nơi tập trung nhiều tù chính trị thuộc các tổ chức cách mạng như Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí Hội, Tân Việt cách mạng đảng, Việt Nam Quốc dân đảng, Đảng cộng sản và các tổ chức quần chúng nói trên; có cả một số người yêu nước dưới ảnh hưởng của Nguyễn An Ninh. Nếu như yêu cầu cấp bách đối với Banh I là phải đấu tranh chống chế độ khổ sai giết tù thì yêu cầu khách quan đặt ra cho những người cộng sản ở Banh II là đoàn kết các xu hướng chính trị, đấu tranh đòi cải thiện đời sống, đòi thực hiện chế độ tù chính trị, bảo vệ sinh mạng cán bộ, và tổ chức học tập văn hóa, lý luận, đào tạo rèn luyện cán bộ cho Đảng.

Cuộc thảo luận về vấn dề thành lập chi bộ cộng sản ở Banh II chưa đi đến nhất trí, tù chính trị Banh II tổ chức Ban lãnh đạo dưới hình thức Ban trật tự ở các khám và Ban trật tự chung toàn Banh II. Người trong các ban đó do tù chính trị cứ ra và đấu tranh buộc xếp banh công nhận. Ban trật tự điều khiển toàn bộ hoạt động của tù nhân và giao dịch với xếp banh, gác ngục. Ban lãnh đạo chăm lo công tác cứu tế tù nhân, chăm sóc những người tù đau yếu, bệnh tật… lúc này không ít người tù chưa tin rằng ở Côn Đảo có thể tổ chức và đấu tranh thắng lợi được. Ban lãnh đạo chủ trương đưa khẩu hiệu đấu tranh từ thấp đến cao, kiên trì đấu tranh, giành kết quả thiết thực ban đầu.

Sau trận bão cuối năm 1930, Banh II mới được lợp tạm bằng tranh sơ sài, mưa dột nước ngập trong khám. Ban lãnh đạo yêu cầu lợp lại, xếp banh đồng ý cho đưa tranh tre vào, bắt tù Banh II lợp. Năm sau vẫn dột, chúng cho đưa ngói vào thay. Ban lãnh đạo tiếp tục yêu cầu cho tù được ra sân chơi, được nạo vét giếng, được tự nấu ăn, được trồng rau cải thiện, được nhận thư từ, sách báo…

Những yêu sách như vậy còn thấp hơn nhiều so với chế độ tù chính trị mà luật pháp thực dân đã ghi nhận, nhưng mỗi lần đưa kiến nghị là đại biểu tù nhân bị phạt xà lim, lại phải đấu tranh tập thể, bãi thực, hò la phản đối.

Chuyến tù từ Hòn Cau về đầu năm 1932 và các chuyến tù chính trị ở Khám Lớn (Sài Gòn), Sơn La, Hỏa Lò (Hà Hội) liên tiếp ra Côn Đảo trong những năm 1932-1933 đã đưa vào Banh II nhiều đồng chí có trình độ lý luận. Ban lãnh đạo ở các khám và Ban lãnh đạo chung được củng cố, các đồng chí Phạm Hữu Lầu, Lương Khánh Thiện, Nguyễn Văn Cừ, Hoàng Quốc Việt, Phạm Văn Đồng… đã có nhiều đóng góp trong quá trình tổ chức và lãnh đạo tù nhân Banh II.

Sau nhiều lần đấu tranh, bọn cầm quyền ở Côn Đảo buộc phải để cho tù nhân được tổ chức các hoạt động văn hóa, văn nghệ và học tập chính trị, lý luận. Công tác văn hóa, nghệ thuật trong tù vừa là một nhu cầu thưởng thức nghệ thuật, làm phấn chấn tinh thần, vừa có tác dụng giáo dục tốt, giúp cho người tù sống qua những ngày đen tối, đơn điệu và nặng nề trong ngục thất.

Tù chính trị Banh II đã biên soạn và trình diễn các vở kịch Trưng Nữ Vương, Quang Trung, Đề Thám… để giáo dục truyền thống yêu nước chống ngoại xâm của dân tộc. Tết âm lịch năm 1933, tù chính trị Banh II diễn vở Người bệnh tưởng của Môlie (Molière), tạo được không khí vui tươi, phấn khởi. Anh em tù chính trị Quốc dân đảng cũng đóng góp tích cực vào việc dàn dựng và thưởng thức.

Tết năm 1933 “gánh hát” của Nguyễn Văn Nguyễn ở Sở rẫy An Hải đã trình diễn vở Tứ đổ tường phê phán các tật xấu của xã hội như uống rượu, trai gái, đánh bạc, hút thuốc phiện. Vở tuồng được chuyển thể thành cải lương hợp với thị hiếu nghệ thuật của đồng bào miền Nam, khăng định những tội lỗi xấu xa đó là do xã hội đương thời đẻ ra. Vở hát có tác dụng giáo dục con người và tố cáo xã hội cũ sâu sắc, được đông đảo tù thường và ma tà cùng vợ con họ hoan nghênh ‘ nhiệt liệt. Từ đó, cứ gặp tù cộng sản là họ đề nghị cho xem hát và tỏ ý sẵn sàng giúp mọi phương tiện để diễn kịch.

Tù chính trị Banh II có trong tay nhiều tác phẩm có giá trị của các nhà văn cổ điển Pháp. Những người tù có chung một mối đồng cảm nghệ thuật cùng nhau nghiên cứu và thảo luận những tinh hoa văn hóa của nhân loại. Nhiều đảng viên Quốc dân đảng đã sốt sắng tham gia với anh em cộng sản để đọc, dịch, dàn dựng, biểu diễn và thưởng thức các vở kịch của Môlie và kịch cổ điển Pháp. Nhiều người từng bi quan, bế tắc đã tìm thấy ý nghĩa mới của những ngày tháng ở tù. Họ bắt đầu say mê học tập, nghiên cứu, sống lạc quan, sống có ý nghĩa..

Cuốn sách “Mười ngày rung chuyển thế giới” của nhà văn tiến bộ Mỹ Giôn Rít viết về cuộc Cách mạng tháng Mười Nga được tù chính trị Banh II dịch và chuyền tay nhau đọc. Một số đồng chí được phân công chuyên dịch các tác phẩm: “Xi măng của Gơlátcốp (Gladkov), “Suốt Thép của Xêraphimôvích (Séraflmovitch), giới thiệu về những thành tựu của nền văn học Xô viết và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô.

Các vở kịch lúc đầu được biểu diễn bí mật trong các khám. Một số gác dang biết và tò mò đứng xem. Nhiều người làm gác dang ở nhà ngục này hàng chục năm, đến nay mới được tiếp xúc với văn hóa, nghệ thuật. Lần đầu tiên họ được xem những vở hài kịch của Môlie và những vở kịch cổ điển khác do chính những người tù diễn bằng tiếng Pháp. Họ đề nghị tù chính trị đưa ra diễn công khai ớ sân Banh II cho tất cả cùng xem. Được xếp banh đồng ý, anh em tù chính trị đã trình diễn công khai những vở kịch có giá trị của văn học Pháp.

Có những vở kịch được dàn dựng công phu, với trang phục đúng kiểu phương Tây thế kỷ XVII, từ quần áo mùa đông, giày mũ, râu tóc cho đến súng ống, kèn đồng… Nguyên liệu chủ yếu là những mảnh bao bố mà anh em Nhà bếp lén đem cho, được những bàn tay người tù cắt may thành y phục, phông màn lộng lẫy. Người thợ may Phương Hải, nhạc sĩ Đinh Nhu và gần chục thợ mộc, thợ giày, họa sĩ sốt sắng chuẩn bị suốt đêm ngày. Có đến cả trăm tù nhân tham gia vào một vở kịch từ khi luyện tập cho đến lúc biểu diễn. Nhiều người không được sắm vai cũng xin được đóng góp vào việc dựng sân khấu, kéo phông màn…

Gác ngục Pháp đưa cả vợ con vào xem rất đông. Họ trầm trồ khen các vai hóa trang rất giống, giọng Tây, giọng đầm rất đạt, biểu hiện tinh tế được cả tiếng địa phương nhiều vùng nước Pháp. Các vở kịch không chỉ thành công trong lĩnh vực nghệ thuật mà còn là một thắng lợi về mặt ngoại giao. Nhiều gác ngục Pháp tỏ thái độ kính nể những người tù cộng sản có văn hóa, có nhân cách và hiểu biết sâu rộng. Họ bớt đánh tù và xưng hô cũng bớt phần thô tục. Có gác ngục Pháp đã phát biểu với tù cộng sản: “Bây giờ chúng tôi với hiểu các anh là những người tài giỏi và không có đầu óc dị chủng”. Hoạt động văn hóa nghệ thuật đã góp phần cảm hóa, tranh thủ nhiều gác dang, ma tà, tạo điều kiện thuận lợi cho những cuộc đấu tranh quyết liệt sắp tới.

Phối hợp với phong trào đấu tranh trong nước và quốc tế

Trong thời gian này nhiều cơ sở Đảng trong nước đã được phục hồi. Đảng ta tích cực lãnh dạo cuộc đấu tranh chống khủng bố trắng của thực dân Pháp. Báo chí bí mật và truyền đơn của Đảng kịch liệt lên án chính sách khủng bố dã man của thực dân Pháp và hiệu triệu quần chúng đấu tranh đòi chấm dứt khủng bố, đòi ân xá toàn bộ tù chính trị và xóa bỏ các tòa án quân phiệt ở Đông Dương.

Phong trào đấu tranh ở trong nước cũng bắt đầu khôi phục. Trong hai năm 1933 và 1934 đã có 76 cuộc đấu tranh của công nhân và nông dân. Quốc tế cộng sản trong những năm 1930-1935 đã động viên tất cả các Đảng cộng sản ở Tây Âu lúc đó, và đặc biệt lưu ý Đảng cộng sản Pháp, tìm mọi cách giúp đỡ cách mạng Đông Dương trong lúc gặp khó khăn. Quốc tế cộng sản đã trực tiếp chỉ đạo việc thành lập ủy ban bảo vệ cách mạng Dông Dương (Le Commité de défense de l’indochine) do các nhà trí thức nổi tiếng đứng đầu như Pôn Lănggiơvanh (Paul Langevin), Hăng ri Bác buýt (Hen ri Barbusse), Rômanh Rôlăng (Romain Ronand)…

Ủy ban đã tổ chức quyên góp tiền, tổ chức hội chợ bán các mặt hàng tiêu dùng và mỹ nghệ đê lấy tiền gửi cho tù chính trị ở Côn Đảo và Đông Dương. Các đồng chí lãnh đạo các Đảng cộng sản mỗi lần đến làm việc ở cơ quan Quốc tế cộng sản đều được thông báo tình hình khủng bố trắng của thực dân Pháp, nhận sự chỉ đạo của Quốc tế cộng sản về vấn đề bảo vệ cách mạng Đông Dương. Quốc tế cứu tế đo (S.R.I: Secours Rouge Intemational) dưới sự chỉ đạo của Quốc tế cộng sản đã vận động các luật sư nổi tiếng biện hộ cho mững người cộng sản Việt Nam tại các phiên tòa đại hình ở Đông Dương.

Với tinh thần quốc tế vô sản cao cả, Đảng cộng sản Pháp đã quan tâm đặc biệt đến tình hình cách mạng đông Dương. Tại Đại hội toàn thể lần thứ 11 của Ban Chấp hành Quốc tế cộng sản (1931), đại biểu của Đảng cộng sản Pháp đã nghiêm khắc tự phê bình những thiếu sót của Đảng trong việc ủng hộ cách mạng Đông Dương và có thái độ kiên quyết sứa chữa.

Từ năm 1931 đến năm 1933, đồng chí Trê (Maurice Thorez) đã đọc nhiều bản báo cáo nổi tiếng tại Quốc hội Pháp lên án những hành động tàn ác, dã man của chính quyền thực dân đối với cách mạng Đông Dương và đòi ân xá toàn thể tù chính trị. Theo sáng kiến của Đảng cộng sản Pháp, một ủy ban đòi ân xá chính trị phạm Đông Dương được thành lập ở Paris ngày 9-3-1933 gồm những nhà hoạt động văn hóa xã hội nổi tiếng ở Pháp như Phơranxi Giuốcđanh, Hăng ri Bác buýt, Rômanh Rôlăng, ăngđơrê Viôlít (Andrée vionis), San lây Be (Chaney Bert)… do Pôn Lănggiơvanh đứng đầu. Ngày.5-7-1933, Uy ban đã gửi thư cho Bộ trưởng Bộ thuộc địa Pháp phản đối bản án xử ngày 7-5-1933 tại phiên tòa đại hình đặc biệt ở Sài Gòn và việc đày 89 tù nhân đi Côn Đảo.

Do phong trào đấu tranh chống khủng bố cách mạng Đông Dương đang dâng cao ở Pháp, Chính phủ Pháp phải cử Pôn Rây nô (Paul Reynaud) sang kinh lý Đông Dương cuối năm 1931. Được Đảng cộng sản Pháp vận động, nữ văn sĩ Ăngđơrê Viôlít đã đi cùng đoàn điều tra sang Đông Dương.

Những điều tai nghe mắt thấy trong chuyến đi đã giúp bà viết thiên phóng sự Dông Dương kêu cứu (L’indochine S.O.S) làm chấn động dư luận tiến bộ ở Pháp và toàn thế giới lúc đó. Đảng cộng sản Pháp đã cử các đồng chí Vayăng Cutuyriê (Vailant Couturier), Gabơnen Pê ri (Gabriel Péri), nghị sĩ cộng sản cùng một số nhà báo tiến bộ sang điều tra tình hình Đông Dương.

Đầu năm 1934, phái đoàn Cứu tế đỏ do Gabơrien Pê ri dẫn đầu đã sang Đông Dương. Mặc dù chính quyền thực dân tìm mòi cách ngăn trở, phái đoàn vẫn nắm được tình hình và đề ra nhiều yêu sách cấp thiết đòi cải thiện điều kiện sinh hoạt của chính trị phạm trong các nhà tù ở Đông Dương, nhất là ở Côn Đảo. Phái đoàn còn đòi Chính phủ thuộc địa phải toàn xá tù chính trị và giải quyết các yêu sách của công nhân, nông dân và nhân dân lao động Đông Dương.

Sau khi về nước, đoàn đã tổ chức nhiều cuộc họp báo cáo tình hình ở Đông Dương trước quần chúng nhân dân Pháp. Trong gần một năm, Đảng cộng sản Pháp đã tổ chức 98 cuộc mít tinh, mở một chiến dịch khắp nước Pháp vận động đòi toàn xá chính trị phạm ở Đông Dương, trong đó có nhiều nhà hoạt động xã hội có danh tiếng như Hăng ri Bác buýt, Rômanh Rôlăng, Pôn Ănggiơvanh…

Những tin tức về phong trào đấu tranh của tù nhân Côn Đảo đăng trên báo chí công khai lúc đó được Đảng cộng sản Pháp đưa ra chất vấn ngay tại nghị viện làm cho chính quyền thực dân vô cùng lúng túng. Sự quan tâm sâu sắc của Quốc tế cộng sản, sự ủng hộ chứa chan tinh thần quốc tế vô sản của Đảng cộng sản và nhân dân tiến bộ Pháp là niềm cổ vũ lớn lao đối với cuộc đấu tranh của nhân dân ta và của toàn thể tù chính trị ở Đông Dương.

Bị vạch mặt trước dư luận, chính quyền thực dân Đông Dương phải cử thanh tra ra đảo nghiên cứu biện pháp đối phó. Đại biểu tù nhân đã nhiều lần gửi kiến nghị cho Thanh tra thuộc địa và Toàn quyền Đông Dương yêu cầu cải thiện chế độ nhà tù; không được đánh đập, ngược đãi tù nhân; giảm nhẹ mức khổ sai và thực hiện chế độ tù chính trị.

Tháng 8 năm 1934, nhân một bữa bọn chúa ngục cho tù nhân ăn cá khô hấp chưa chín, dòi bò lổm ngổm trong khay cá, tù chính trị Banh II đã tuyệt thực để phản đối, khẩu hiệu đấu tranh là:

– Không ăn khô mục.

– Để tù Banh II tự nấu cơm, nấu nước.

– Tù nhân được ra sân chơi 2 giờ một ngày, được tắm 2 lần một tuần.

– Tù nhân được tự do gửi và nhận thư từ, bưu kiện.

Banh I cũng phối hợp đấu tranh, tuyệt thực một ngày. Nhiều bản yêu sách của Banh I và các sở tù được gửi lên Quản đốc đòi:

– Không được cho tù ăn khô mục. Bữa ăn phải có rau xanh.

– Mỗi tuần được 2 lần ăn thịt.

– Giảm nhẹ khổ sai.

– Ốm đau được nghỉ và cho thuốc đúng bệnh.

– Không được đánh đập, ngược đãi tù nhân.

Cuộc tuyệt thực của tù chính trị Côn Đảo kéo dài 8 ngày. Thống đốc Nam Kỳ Pagie (Pagès) phải tức tốc đáp thủy phi cơ ra đảo. Nhận được điện báo trước, Quản đốc Buviê lập tức ra lệnh phát lương thực thêm cho tù nhân; cho giấu biệt tất cả roi mây, hèo gậy xuống cống rãnh; cho quét vôi tường Nhà Thương và đưa ngay 35 bệnh nhân bị sốt rét vàng vọt và gãy chân, gãy tay vì khổ sai giấu kín trong khám 6 Banh I.

Tên thày thuốc Châu đón tiếp Pagie tại Nhà Thương bằng một bài diễn văn đọc thuộc lòng: “Bệnh nhân không đông, bệnh nhân được chăm sóc tốt, bệnh nhân được ăn thịt, uống sữa…”. Pagie đến Banh I đúng lúc tù nhân đang xếp hàng ăn cơm trưa. Đồng chí Phạm Hùng lập tức bước ra tố cáo chế độ nhà ngục và đòi cải thiện đời sống tù nhân. Quản đốc Buviê tức điên người. Phải lúc khác thì hắn đã đánh tơi bời trả thù bằng những hình phạt nặng nhất.

Pagie còn được hướng dẫn thăm Nhà bếp, Banh II, Nhà Đèn, Chuồng Bò và một số nơi trên đảo. Thống đốc Nam Kỳ đi đến đâu cũng bị tù nhân ra tố cáo. Đống hèo gậy mà bọn gác dang đã giấu kỹ dưới cống ngầm cũng bị tù nhân lôi ra làm Buviê hết đường chối cãi. Đã đến lúc không thể bưng bít được những tội ác ở nhà ngục Côn Đao, trước xu thế cách mạng đang dâng lên ở Đông Dương và ở Pháp. Thống đốc Nam Kỳ phải giải quyết nhiều yêu sách cho tù nhân. Mỗi tuần tù nhân được ăn hai bữa thịt, mỗi bữa 50 gam; tù chính trị ở Banh II mỗi ngày được ra sân chơi 6 tiếng đồng hồ ; tù nhân được nhận thư và bưu kiện của gia đình.

Tù chính trị Banh II được tự nấu ăn, được dọn vệ sinh, được trồng rau cải thiện, được đọc sách và nhận sách. Ngoài việc làm bếp và dọn vệ sinh, tù Banh II còn được ra làm các việc nhẹ nhàng trong sân trại giam như đập đá dăm, may quần áo.

Thoát khỏi chế độ cấm cố, làm việc được tự do hưởng ánh nắng và khí trời, sức khỏe của tù nhân khá hẳn lên. Ban trật tự sắp xếp mọi người vào các công việc phù hợp với sức khỏe. Ra làm việc được lãnh tiền công để góp quỹ cứu tế và mua sách vở học tập, lại có điều kiện liên hệ chặt chẽ với Banh I.

Việc tiếp nhận sách báo, tin tức và học tập văn hóa, nghiên cứu lý luận được đẩy mạnh hơn trước. Ban đời sống tích cực chỉ đạo việc cải thiện đời sống cho tù nhân. Kíp làm bếp đã tổ chức làm cối giã gạo, bảo quản thực phẩm, nấu ăn vệ sinh, trồng rau, nuôi gà, vịt…

Đời sống của tù nhân khá hơn rõ rệt. Chế độ khổ sai cũng bớt phần hà khắc. Nhiều yêu sách đòi giảm nhẹ mức khổ sai của Banh và các sở tù được mặc nhiên thừa nhận. Sự đoàn kết đấu tranh của tù nhân Côn Đảo dưới sự lãnh đạo của các tổ chức cộng sản trong những năm 1930-1934 đã tạo thành sức mạnh to lớn, hòa nhịp với phong trào cách mạng ở trong nước và trên thế giới ngăn chặn bàn tay khủng bố của kẻ thù. Tỷ lệ tù nhân chết giảm xuống 3% năm 1934 và 1,7% năm 1935.

Khi những người cộng sản nên khẩu hiệu “Một tuần được ăn thịt hai lần” thì những người tù thường phạm hầu như không tin rằng có thể đấu tranh được. Có tên ma tà đã tuyên bố thẳng: “Nhà tao đã ba đời làm gác ngục ở đây mà chưa bao giờ thấy tù được quá 2 lần trong một năm. Chúng này có mà đòi ngôi sao trên trời”.

Phải đến khi các yêu sách được giải quyết thì tù thường phạm mới thật sự tin tưởng và kính phục những người cộng sản. Tuy vậy, bọn chúa ngục Côn Đảo vẫn tìm mọi cách để cúp phạt, bớt xén từng gam thịt, từng lạng gạo, tăng thêm định mức lao động khổ sai… Tù nhân lại phải tố cáo và đấu tranh đòi lại.

Hơn bất cứ nơi nào, những người cộng sản ở Côn Đảo thấm thía một chân lý: Muốn sống phải tranh đấu. Thắng lợi giành được trong những năm 1930-1934 đã tạo điều kiện cho bước phát triển mới của phong trào đấu tranh ở Côn Đảo trong những năm sắp tới.

Trường học chủ nghĩa cộng sản và đấu tranh cách mạng

Học tập và vươn lên là truyền thống của những người cộng sản. Tù chính trị ở Banh II không phải đi làm khổ sai nên anh em sớm có điều kiện tổ chức học tập Từ năm 1931, bằng trí nhớ của mình, đồng chí Nguyễn Văn Cừ đã chép lại bản Luận cương chính trị (10-1930) của Đảng ta để huấn luyện cho anh em.

Mùa hè năm 1932, nhóm tù cộng sản ở Hòn Cau bị đưa về banh II, tiếp tục duy trì việc học văn hóa và nghiên cứu lý luận. Năm 1933, các chuyến tù ở Khám Lớn (Sài Gòn) và Sơn La, Hỏa Lò (Hà Nội) đã đưa ra Côn Đảo nhiều cán bộ có trình độ lý luận. Trên cơ sở những thắng lợi giành được trong các cuộc đấu tranh, Ban lãnh đạo Banh II chủ trương biến nhà tù đế quốc thành trường học cách mạng.

Nhờ sự giúp đỡ của binh lính, thủy thủ và những công chức tiến bộ ở Bưu Điện, Nhà Thương, Nhà Đèn, những người tù cộng sản ở Côn Đảo đã mua được nhiều tác phẩm lý luận như Tuyên ngôn của Dảng cộng sản, Chống Đuy rinh, nhiều tập của bộ Tư bản của Mác và Ăng ghen, cùng những tác phẩm của Lênin được Nhà xuất bản Xã hội của Đảng cộng sản Pháp xuất bản lúc đó.

Sách báo được những người tù khổ sai Banh I bí mật tiếp nhận rồi chuyển vào Banh II qua những cơ sở ở Nhà bếp, Sở tẩy và những ma tà có cảm tình. Khi bọn thực dân buộc phải công nhận cho tù chính trị được đọc sách và nhận sách thì gia đình và các đồng chí trong đất hến cũng gửi ra nhiều sách, báo, làm phong phú thêm “tủ sách” của tù chính trị Côn Đảo.

Ban lãnh đạo Banh II tổ chức đóng lại bìa sách và chép ra thành nhiều bản để sử dụng, còn bản gốc được bảo quản rất kỹ trong các “tủ sách” bí mật trong khám. Ban lãnh đạo tổ chức tóm tắt, lược dịch nhiều tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác như: Tuyên ngôn của Đảng cộng sản, Tư bản, Chống Đuy rinh, Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệt phê phán, Làm gì, Bệnh ấu trĩ tả khuynh trong phong trào cộng sản, Hai sách lược của Đảng xã hội dân chủ, Nguyên lý của chủ nghĩa Lênin, Những vấn đề của chủ nghĩa Lênin, v. v…

Các cuốn sách Những vấn đề cơ bản của chủ nghĩa Mác của Pơlêkhanốp, Kinh tế chính trị học của Lapiđuýt cũng được dịch ra và biên soạn thành chương trình học tập cho các đối tượng có trình độ khác nhau. Ban lãnh đạo còn tổ chức một bộ phận chuyên sao các tài liệu ra nhiều bản để phục vụ các lớp học và gửi cho chi bộ Banh I, gửi về đất liền.

Lớp học chính trị nghiên cứu Chính cương, Sách lược vắn tắt và Luận cương chính trị của Đảng ta. Các vấn đề cơ bản như Yêu cầu khách quan của xã hội Việt Nam, tính chất và nhiệm vụ cách mạng, động lực chủ yếu của cách mạng và sách lược đấu tranh được tù chính trị dành nhiều thời gian thảo luận. Đồng chí Ngô Gia Tự lúc còn ở Banh II đã góp nhiều ý kiến, bàn sâu thêm những vấn đề trong bản Luận cương chính trị về việc đánh giá vai trò của giai cấp tư sản và giai cấp địa chủ ở nước ta, về sách lược phân hóa kẻ thù, tranh thủ bạn đồng minh, dù chi là tạm thời và cô lập kẻ thù nguy hiểm trước mắt.

Hai lớp triết học và kinh tế chính trị học chương trình B (trung cấp) thu hút đông đảo cán bộ đảng viên ở Banh II. Một số đồng chí có trình độ lý luận, đã qua các lớp huấn luyện của đồng chí Nguyễn Ái Quốc ở Quảng Châu hoặc tốt nghiệp Đại học Phương Đông ở Liên Xô về được chỉ định làm giảng viên. Từng bài học đều được giảng viên nghiên cứu kỹ rồi trình bày trước lớp. Các đề mục và nội dung chính được viết trên nề khám bằng những mẩu san hô hoặc gạch non.

Sau mỗi bài giảng, anh em lại thảo luận sôi nổi trong từng nhóm và thảo luận chung trong lớp. Những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản khoa học đã soi sáng con đường cách mạng Việt Nam và củng cố niềm tin vững chắc vào sự nghiệp giải phóng dân tộc cho những người cộng sản.

Người tù án 5 năm, 10 năm tin có ngày về ráng học để phục vụ cách mạng. Người tù án chung thân lưu đày cũng tin tưởng vào sự thành công cửa cách mạng mà học tập. Ngay cả những người không nghĩ đến ngày về cũng say mê học tập để hiểu thêm lẽ sống, để sống lạc quan, thêm sức mạnh đấu tranh với quân thù.

Lớp A (chương trình cao cấp) dành cho các đồng chí có trình độ văn hóa, lý luận và ngoại ngữ, trong đó có các đồng chí Nguyễn Văn Cừ, Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng… Lớp học này không có giảng viên, mọi người cùng nhau nghiên cứu các tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin. Mỗi đồng chí đọc kỹ một tác phẩm rồi trình bày nội dung chủ yếu cho anh em nghe, sau đó mới trình bày kỹ từng chương, từng đoạn, giải nghĩa từng câu, từng ý, trên cơ sở đó mà thảo luận. Những vấn đề về bạo lực cách mạng và chuyên chính vô sản được thảo luận rất sôi nổi. Mỗi bài học còn được liên hệ với quá trình vận động cách mạng ở Việt Nam và rút ra những kinh nghiệm bổ ích.

Nội dung chương trình học tập và những vấn đề lý luận cơ bản được phản ánh trên tạp chí ý hiến chung xuất bản hàng tháng ở khám 3. Báo được viết trên giấy học trò khổ 13×19 cm, môi số đều có phần tin tức, bình luận, xã hội và nghiên cứu lý luận. Báo được bí mật chuyền tay dưới dạng những bức thư gửi cho nhau để phục vụ việc học tập và nghiên cứu lý luận.

Khám 5 ra tờ báo Người tù đỏ có tính chất phổ cập, khổ 9 x 13 cm. Báo ra hàng tuần, đưa tin tức tình hình, phát động đấu tranh và giáo dục chủ nghĩa Mác – Lênin dưới dạng những câu hỏi và trả lời. Đồng chí Nguyễn Văn Cừ vừa là chủ bút, vừa là cây bút chính của tờ báo. Đồng chí còn là cây bút lý luận sắc sảo, thường xuyên viết cho báo ý kiến chung. Tù chính trị ở Banh I và Banh II đều tích cực viết báo. Báo Người tù đỏ phù hợp với trình độ của nhiều người nên nhận được khá nhiều bài.

Sách báo thường được giấu trên mái nhà. Buổi tối, anh em công kênh nhau leo lên đưa sách xuống đọc dưới ngọn đèn nhỏ được che chụp kín trong góc khám. Sách báo ngày càng nhiều và có những cuốn sách kinh điển rất dày không thể giấu trên mái nhà được nữa, Ban lãnh đạo tổ chức đào hầm bí mật trên đầu tường và trong góc khám để giấu, gọi là CQBM (cơ quan bí mật). Mỗi lần đưa sách ra đọc là phải bố trí bảo vệ chặt chẽ, đề phòng bọn gác dang đi tuần và những kẻ xấu phát hiện. Cũng có lần bọn gác dang ập vào khám xét bất ngờ, tịch thu nhiều sách, báo, tài liệu. Mãi đến cuối năm 1934 bọn thực dân mới thừa nhận chế độ tù chính trị và cho tù nhân đọc sách, nhưng không cho đọc báo, sau này mới cho đọc trong một thời gian.

Tù chính trì ở Banh II còn thảo luận nhiều vấn đề thuộc các lĩnh vực chính trị, kinh tế, triết học, lịch sử, thời sự và văn học nghệ thuật. Cuối năm 1933 có cuộc thảo luận về vụ án Đimitơrốp (Dimitrov). Những người cộng sản Việt Nam trong nhà ngục Côn Đảo vô cùng phẫn nộ trước hành động cơ hội thỏa hiệp của Quốc tế II và lo lắng cho phong trào cộng sản Đức.

Thái độ hiên ngang và bản cáo trạng đanh thép mà Đimitơrốp đẽ kết tội bọn phát xít trước tòa án Lai xích (Leipzig) là niềm cổ vũ lớn đối với những người cộng sản Việt Nam, đồng thời củng cố thêm lòng tin vào sự tất thắng của chủ nghĩa cộng sản.

Năm 1934, có cuộc tranh luận vấn đề Liên Xô vào Hội quốc liên (tiền thân Liên hợp quốc). Lúc đầu có ý kiến cho rằng Liên Xô và Hội quốc liên sẽ bị thiểu số, rằng Lênin khi còn sống đã từng vạch mặt Hội quốc liên… song nhiều ý kiến khác phân tích tình hình lúc này chủ nghĩa đế quốc đã đi vào con đường phát xít hóa, mâu thuẫn nội bộ chúng tăng lên, vì vậy cần phải lợi dụng diễn đàn này để tuyên truyền chính nghĩa, cô lập bọn hiếu chiến, lập mặt trận rộng rãi đấu tranh cho hòa bình, chống chiến tranh và bảo vệ các nước nhỏ yếu.

Cuộc tranh luận sôi nổi và kéo dài, sau cùng hầu hết đều tán thành việc Liên Xô vào Hội quốc liên. Các vấn đề chính trị, triết học được thảo luận hằng ngày, vấn đề gì chưa hiểu rõ thì dừng lại đọc thêm tài liệu và nghiên cứu sách kinh điển của chủ nghĩa Mác, cố gắng nắm bản chất của vấn đề rồi liên hệ với tình hình thế giới, liên hệ với truyền thống dân tộc Việt Nam và rút ra những bài học kinh nghiệm.

Những vấn đề lý luận được anh em để nhiều thì giờ tranh luận. Đồng chí Nguyễn Văn Cừ và đồng chí Lê Duẩn thường có những ý kiến phân tích sâu và xác đáng, có sức thuyết phục đối với anh em. Đồng chí Mười Cúc (Nguyễn Văn Linh) cũng là một tấm gương tiêu biểu về tinh thần học tập, phấn đấu vươn lên của tù chính trị ở Côn Đảo. Khi vào tù, đồng chí mới 16 tuổi, nhờ say mê học tập, trong vòng ba tháng, đồng chí đã tham gia dịch thuật các tác phẩm lý luận dưới sự hướng dẫn của các đồng chí Phạm Văn Đồng, Nguyễn Kim Cương. Nhiều đồng chí đã trưởng thành về lý luận Mác – Lênin ngay trong nhà tù đế quốc và sau này trở thành những người lãnh đạo xuất sắc của Đảng ta.

Ban lãnh đạo Banh II còn tổ chức học tập các môn văn hóa như: lịch sử, địa lý, văn hóa nghệ thuật và ngoại ngữ (tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Trung Quốc). Giờ tắm nắng, tù chính trị đem tấm bản đồ thế giới vẽ to bằng chiếc chiếu treo trên gốc cây bàng, rồi ngồi quây quanh nghe các “giáo sư” giảng giải.

Bài học về đất nước Liên Xô và Cách mạng tháng Mười được giảng viên trình bày rất kỹ và được học viên tiếp thu một cách hào hứng, say mê. Lãnh thổ Liên Xô rộng lớn dược tô màu đỏ nổi bật trên bản đồ. Có tên gác dang khó chịu giật xuống làm rách tấm bản đồ. Tù nhân phản đối kịch liệt. Hôm sau, một tấm bản đồ mới vẽ lại được treo lên, thủ đô Mạc Tư Khoa được đánh dấu bằng hình một trái tim đỏ chói. Tên gác dang giở giọng châm biếm:

– Chỉ còn một chấm đỏ thế thôi à ?

Anh em kiêu hãnh trả lời:

– Phải! Một chấn đỏ nhưng nó sẽ lan rộng khắp.

Các đồng khí giỏi ngoại ngữ đã đọc và thảo luận sôi nổi các tác phẩm văn học có ở Banh II lúc đó, từ các tác phẩm văn học nổi tiếng của Coócnây (Comeine), Miôlie (Molière), Vinh (Alfred de Vighy), Huy gô (Victor Hu go), Muyxê (Alfred de Musset), Do la (émile Zola), Phơrăng (Anatole France), Rôlăng (Romain Ronand), Bác buýt (Hen ri Barbusse)… cho đến các tác phẩm văn học Việt Nam lúc đó như Đoạn tuyệt của Nhất Linh, Cô Tư Thung của Nguyễn Công Hoan, thơ của Xuân Diệu, Huy Cận, Thế Lữ, v.v… Anh em tù chính trị rất chú ý đến phong trào Thơ mới. Trân trọng sự sáng tạo nghệ thuật của Thơ mới là ở chỗ các nhà thơ lúc ấy đã đi vào chủ nghĩa lãng mạn tiểu tư sản trong lúc đang cần có chủ nghĩa lãng mạn cách mạng.

Đấu tranh tư tưởng với Việt Nam Quốc dân đảng

Việc học tập văn hóa, lý luận và thưởng thức nghệ thuật ở Côn Đảo ngày càng lôi cuốn nhiều anh em Quốc dân đảng tham gia. Mặc dù các lãnh tụ cực đoan ra sức tuyên truyền xuyên tạc chủ nghĩa cộng sản nhưng phần lớn đảng viên và quần chúng Quốc dân đảng đều nhận thấy những người cộng sản sống có tổ chức, có tình thương và có ý chí học tập, vươn lên, phấn đấu cho lý tưởng cách mạng.

Ngay từ khi chưa hiểu chủ nghĩa cộng sản, họ đã cảm phục nhân cách của những người cộng sản. Sách báo mác xít và quá trình học tập, thảo luận ở Banh II có sức thuyết phục những người yêu nước chân chính trong hàng ngũ Quốc dân đang hơn là nội dung nghèo nàn của chủ nghĩa Tam Dân và tôn chỉ mục đích mập mờ của Việt Nam Quốc dân đảng. Nhiều người đã nghiêng hẳn về lập trường vô sản như các anh Tưởng Dân Bảo, Nguyễn Phương Thảo, Nguyễn Đức Chính, Trần Huy Liệu… Các anh Tố Chấn, Tô Hiệu ở Banh I đã sớm giác ngộ, đứng vào hàng ngũ của những người cộng sản và tích cực tham gia hoạt động, đấu tranh.

Thấy quần chúng ngả theo cộng sản ngày càng nhiều, những thủ lĩnh Quốc dân đảng cực đoan vu cáo những người cộng sản làm tan rã hàng ngũ của họ và coi “Cộng sản là kẻ thù số 1, đế quốc là kẻ thù số 2” (!) Tên Đội Sơn, trùm Quốc dân đảng đã có lần bộc lộ tâm địa của hắn qua lá thư gửi riêng cho chúa đảo Buviê: “Tôi rất đồng tình với ngài rằng bọn cộng sản còn nguy hiểm hơn cả bênh dịch hạch”.

Nhóm Quốc dân đảng cực đoan chống cộng ra mặt. Khi những người cộng sản nêu khẩu hiệu đấu tranh đòi cải thiện đời sống thì họ xuyên tạc: “Tưởng làm cách mạng thế nào chừ chỉ biết đòi ăn thôi à (?!) Tù chính trị Banh II phát động học tập thì họ khiêu khích: “Tù chung thân, học để xuống nghĩa địa khỏi lạc đường à (?!). Tù chính trị Banh I đấu tranh đòi giảm nhẹ khổ sai họ cũng phản đối: “Đấu tranh nó còn bắt làm nhiều, càng chết”. Mỗi lần Ban lãnh đạo tù chính trị vận động quần chúng đấu tranh thì họ làm ầm lên cốt để báo cho bọn gác ngục biết.

Đối với họ vào tù là “tiêu ma sự nghiệp’, cốt sao được yên thân. Họ ra tờ báo Tiêu sầu để tự an ủi và chống lại chủ trương của những người cộng sản. Từ sau thất bại của cuộc khởi nghĩa Yên Bái (2-1930), một bộ phận Quốc dân đảng đã chuyển hẳn sang chủ nghĩa quốc gia cải lương. Một số lãnh tụ cực đoan đã đi vào con đường chống cộng quyết liệt làm tay sai cho thực dân Pháp.

Bọn Tâm Cụt âm mưu ám sát Tôn Đức Thắng, một đồng chí trung kiên có uy tín ở Banh I. Còn Đội Sơn, Đội Lãng thì tổ chức ám sát các đồng chí Phạm Văn Đồng, Hoàng Quốc Việt và một số người có vai trò lãnh đạo ở Banh II. Tù chính trị cộng sản phải lập các đội tự vệ để theo dõi hành động của bọn này và bảo vệ các đồng chí. Mưu sát cá nhân không thành, bọn trùm Quốc dân đảng ở Banh II chuẩn bị gây chiến với những người cộng sản, nhưng quần chúng của họ không ủng hộ. Những người cộng sản nắm được tình hình và tích cực chuẩn bị đối phó Bọn Quốc dân đảng cực đoan bị vạch mặt và bị cô lập, chúng đành xin phép xếp banh cho ra ở riêng một dãy, hy vọng sẽ tách được quần chúng ra khỏi ảnh hưởng của chủ nghĩa cộng sản.

Cuối năm 1934, xếp Banh II đồng ý cho tù Quốc dân đảng ra ở riêng từ khám 6 đến khám 10, còn tù cộng sản vẫn ở từ khám 1 đến khám 5, giữa hai dãy khám có hàng rào dây thép gai. Một số đảng viên Quốc dân đảng giác ngộ chủ nghĩa Mác-lênin đã chuyển sang ở chung với những người cộng sản. Ban lãnh đạo Banh II cũng bí mật gợi ý trước cho một số người đã giác ngộ ở lại trong hàng ngũ Quốc dân đảng để tiếp tục giáo dục, cảm hóa những anh em khác.

Người cộng sản Trần Xuân Độ đã cùng với Tưởng Dân Bảo, Nguyễn Đức Chính1, Nguyễn Văn Xuân tổ chức một lớp học văn hóa mà thực chất là học chủ nghĩa Mác-lênin. Anh em học các môn lịch sử, thời sự, ngoại ngứ, bình luận văn học, nghệ thuật và bí mật nghiên cứu sách báo mác xít. Những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-lênin được thảo luận một cách khéo léo dưới dạng phê phán những xu hướng tư tưởng trước Mác, phê phán các quan điểm duy tâm, các quan điểm nghệ thuật vị nghệ thuật lúc đó. Các cuộc thảo luận còn hướng tới chỗ khẳng định niềm tin vào con người với những học thuyết khoa học có khả năng cải tạo được xã hội. Tờ báo Delfray (Đằng sau ngọn triều giận giữ) làm nhiệm vụ hướng dẫn, thảo luận, nghiên cứu các vấn đề của chủ nghĩa Mác-lênin.

Lớp học lúc đầu có khoảng 10 người, sau tăng lên 100. Chủ nghĩa Mác-lênin đã soi sáng trí tuệ và tâm hồn của một số người yêu nước mà lâu nay họ mới chỉ hiếu một cách mơ hồ về chủ nghĩa Tam Dân. Nhiều người đã dứt khoát đứng hẳn về lập trường của những người cộng sản.

Trong nhiều bức thư gửi cho anh em, bè bạn ở đất liền, mặc dù bị chế độ kiểm duyệt rất gắt gao, Nguyễn Đức Chính cũng hé ra những dòng tâm sự về sự lựa chọn ấy. Bức thư ngày 28-8-1936 gửi cho người em ruột ở Hà Nội có đoạn khẳng định: “Anh vui sướng lắm, nhất là ngày anh ra khỏi được chỗ xung đột của hai quan niệm: Duy tâm và Duy vật, của hai tư tưởng Quốc gia và Xã hội. Ra khỏi không phải là đứng lên trên hẳn những cái đó rồi nhìn cả hai bên bằng con mắt chán nản, hoặc hoài nghi, hoặc khinh bỉ đâu. Ra khỏi là chọn lấy một trong hai cái bất tương dung ấy” 1.

Bọn trùm Quốc dân đảng cực đoan hết sức lo sợ sự tan rã không thể tránh khỏi của Việt Nam Quốc dân đảng. Họ chủ trương “củng cố nội bộ bằng cách gây chiến với bên ngoài”, tổ chức đánh một số đồng chí cộng sản có uy tín với quần chúng Quốc dân đảng và khủng bố những quần chúng của họ đã giác ngộ cộng sản. Thấy bọn cực đoan ráo riết chuẩn bị, anh em quần chúng Quốc dân đảng kiên quyết phản đối, làm thất bại âm mưu của bọn này.

Gác dang Pháp vào xét các khám Quốc dân đảng thu được nhiều gậy gộc và sắt nhọn. Không sử dụng được bạo lực, bọn cực đoan quay lại phá lớp học bằng mọi cách. Mấy tên tay chân được gài vào lớp học nêu ra lý lẽ: không bao giờ người Quốc dân đảng lại đi học chủ nghĩa Mác-lênin. Anh em kiên quyết bác bỏ với lý luận rằng: “Những người cộng sản theo chủ nghĩa Mác-lênin vẫn nghiên cứu chủ nghĩa Tam Dân và các chủ nghĩa khác, tại sao cấm người Quốc dân đảng nghiên cứu chủ nghĩa Mác-lênin. Đuối lý bọn này tìm cách lấy cắp những tài liệu học tập lý luận mác xít của anh em trong khám, nhưng không gì ngăn được những người yêu nước chân chính đến với chủ nghĩa Mác-lênin.

Bất lực, bọn phản động đi vào con đường khủng bố nội bộ. Chúng kết án tử hình 4 người: Tưởng Dân Bảo, Trần Xuân Độ2, Nguyễn Đức Chính và Nguyễn Văn Xuân về tội “đưa chủ nghĩa cộng sản vào lung lạc, làm tan rã nội bộ” rồi giao cho tên Đội Lãng thì hành. Đội Lãng đã dùng dao sắc bất ngờ cắt cổ anh Tưởng Dân Bảo. Hành động giết người của y bị phát hiện, mọi người la lên làm y hoảng hồn. Nghĩ rằng anh Bao đã chết, y chạy đi tìm 3 người còn lại nhưng trong cơn hoảng loạn, y đã cầm dao đâm vào cổ tự tử. Đội Lãng bị đốc tờ Nhã bỏ cho chết luôn, còn Tưởng Dân Bảo được ông cứu sống.

Tối hôm ấy, bọn cực đoan do tên Lý Khái cầm đầu tổ chức mặc niệm Đội Lãng nhằm tiếp tục khủng bố những người yêu nước chân chính, song đội ngũ những người yêu nước chân chính trong hàng ngũ Việt Nam Quốc dân đảng đã đoàn kết lại, khẳng định một cách dứt khoát lập trường của mình. Cả một số trí thức nho học trong Quốc dân đảng trước đây vẫn giữ thái độ ôn hòa nay cũng lên tiếng phản đối bọn cực đoan. Cuộc mặc niệm Đội Lãng thất bại thảm hại.

Lớp học chủ nghĩa Mác-lênin trong hàng ngũ Quốc dân đảng vẫn tiếp tục. Riêng Phạm Tuấn Tài3, thời gian ở Côn Đảo đã nghiên cứu nhiều tác phẩm lý luận của Mác-ăngghen và Lêmn. Với cương vị một người sáng lập ra Quốc dân đảng, anh rất trăn trở, cứ mấy tháng lại đưa ra mặt dự thảo cương lĩnh mới của Quốc dân đảng, cái sau tiến bộ hơn cái trước và ngày càng xích gần đến chủ nghĩa Mác-Lênin. Khi được ân xá, anh đã tâm tình với những người còn ở lại: “Quốc dân đảng đã quá thời rồi, các anh em còn chân chính cách mạng nên đi theo con đường cộng sản”.

Nếu như cuộc khởi nghĩa Yên Bái đã kết thúc vai trò của Việt Nam Quốc dân Đảng thì trường học cộng sản trong Nhà tù Côn Đảo đã mở ra con đường cho những người yêu nước chân chính trong hàng ngũ Quốc dân đảng. Nhiều người đã gia nhập hàng ngũ cộng sản khi hiểu rằng chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được đất nước khỏi ách thực dân.

Tổ chức vượt ngục, cung cấp cán bộ về cho Đảng

Bị đày ải trên một hòn đảo giữa biển khơi, cách đất liền hàng trăm cây số nhưng ý chí vượt đảo về đất liền tiếp tục hoạt động cách mạng luôn thôi thúc những người tù chính trị. Mùa gió chướng hàng năm thổi vào đất liền là mùa tù nhân trốn lên núi đóng bè, kết buồm vượt đảo. Gió chướng ở Côn Đảo từng đợt thường mạnh đến cấp 7, cấp 8. Gặp khi gió mạnh thổi đều thì chỉ một ngày một đêm là bè có thể dạt vào đất liền.

Những, người tù thường phạm đã từng vượt đảo thành công nhiều lần truyền cho nhau kinh nghiệm thá bè, đón chiều gió chướng và lái theo hướng tây bắc để bè dạt vào bờ biển Tây Nam Bộ, không để cho gió thổi dạt sang tận bên Xiêm.

Trong lúc đi làm khổ sai, những người tù đã nhắm sẵn những vạt rừng kín đáo gần biển, chọn trước những cây gỗ búng (một loại gỗ nổi) có thể đóng bè, bớt từng phần cơm ít ỏi trong các bữa ăn để phơi khô làm lương thực dự trữ. Họ phải chuẩn bị cả thùng thiếc để đựng nước ngọt, các dụng cụ để đóng bè như dao, búa, cưa, đinh… Bọn gác ngục kiểm soát rất chặt và phạt rất nặng khi phát hiện được người tàng trữ những đồ “quốc cấm” có thể dùng để vượt đảo, nhưng tù nhân vẫn có thể xoay xở và mua được nếu có tiền.

Một bè gỗ ghép vội bằng dây rừng, một túi cơm khô và vài lít nước ngọt để vượt hàng trăm cây số trên biển là một việc đầy nguy hiểm. Thế mà trước khi vượt biển, họ còn phải vượt qua một hệ thống canh phòng chặt chẽ của gác dang, ma tà, lính canh và cả một đội rờsẹc (recherche)1 chuyên truy lùng và săn đuổi tù trốn.

Sở Rờsẹcl thường xuyên có trên dưới một trăm tên, được tuyển chọn trong đám tù lưu manh, dưới quyền chỉ huy của một tên gác dang Pháp thuộc loại gian ác làm chủ sở. Bọn này được mang sắc phục riêng, được trang bị mã tấu và chó săn, được hưởng nhiều đặc quyền đặc lợi và trở thành tay sai đắc lực cho bọn chúa ngục.

Lực lượng rờsẹc được chia làm hai toán: Toán nằm bãi và Toán Chỉ Tồn. Toán Chỉ Tồn chia nhau theo dõi các kíp tù khổ sai của Sở Chỉ Tồn, phát hiện các âm mưu vượt ngục và tổ chức săn duỗi, truy tìm khi có tin báo tù trốn. Toán nằm bãi rải ra canh gác tất cả các bãi biển ở Côn Đảo. Chúng theo dõi từng dấu chân trên cát, từng loại cây gỗ nhẹ trên rừng mà tù nhân thường chặt đóng bè, phát hiện được dấu hiệu tù trốn là lập tức phi báo về trụ sở.

Những người tù vượt ngục không may rơi vào tay bọn này là bị chúng đánh đập hết sức dã man. Chính tên chủ sở đến chỉ huy cuộc tra tấn, khai thác cách tổ chức vượt ngục, nơi mua bán, cất giữ các dụng cụ vượt đảo và những người có liên quan. Sau khi đã hành hạ người tù nhiều lần đến chết đi sống lại, chủ Sở rờsẹc mới cho trả họ về banh để xếp banh và chúa ngục đày đọa họ vào các “địa ngục” Hầm đá, Hầm xay lúa và Sở Củi – chuồng bò. Nhưng ngay cả cái chết và những hình phạt man rợ nhất cũng không ngăn dược các cuộc vượt đảo cửa tù nhân.

Theo báo cáo của Thanh tra thuộc địa, từ năm 1930 đến năm 1935 đã có 3.664 lượt tù Côn Đảo vượt ngục. Hơn 3.000 người bị bắt lại và chịu những hình phạt khắc nghiệt nhất, còn 444 người đã thoát được ra biển. Chắc chắn rằng trong hơn 400 người thoát được ra biển ấy đã có nhiều người bị chết chìm trong biển cả, chỉ có một số ít do may mắn mà về được đến đất liền. Một vài tốp tù thường phạm đã phải quay trở lại vì bị nhiều đàn cá mập săn đuổi quanh bè.

Mùa gió chướng năm 1930, biết người tù yêu nước Bửu Đình đang tìm cách vượt ngục, Quản đốc Buviê cho đày Bửu Đình ra Hòn Tre. Một thân một mình với hai bàn tay trắng trên một hòn đảo chỉ có cây và đá, thế mà Bửu Đình cũng về được đến đất liền. Trước khi về còn để lại 4 câu thơ châm biếm gửi chúa đảo Buviê2. Một năm sau thực dân Pháp bắt được Bửu Đình và lại đày ra Côn Đảo. Buviê đày Bửu Đình một lần nữa ra Hòn Tre. Thế rồi một tốp tù thường vượt ngục đã ghé Hòn Tre và cho Bửu Đình cùng về.

Biết bao thử thách hiểm nghèo đặt trước một cuộc vượt ngục của tù Côn Đảo. Họ có thể bị mạng lưới truy tầm bắt lại và hành hạ; có thể bị giông bão nhận chìm hoặc gặp sóng lớn và nước xoáy đánh vỡ bè, làm mồi cho cá mập; có thể mất phương hướng và gió lặng để bè lênh đênh trên biển, hết nước ngọt, hết lương thực ăn…

Nhiều cảnh thương tâm dã xảy ra trên biển. Dù có quyết tâm cao, chuẩn bị chu đáo đến đâu, thành công trong vượt đảo vẫn là rất hiếm, sự may mắn trở thành yếu tố quyết định cho thắng lợi của các cuộc vượt đảo, nhưng tất cả sự đe dọa và trừng phạt ấy đều không ngăn nổi ý chí vượt ngục của người tù. Nhà tù Côn Đảo đã là hình phạt tận cùng rồi, chẳng còn gì đáng sợ hơn nữa.

Nhờ gần gũi tù thường phạm, những người cộng sản có điều kiện nghiên cửu kỹ cách thức vượt ngục. Từ khi chi bộ cộng sản được thành lập (1932), chủ trương vượt ngục được xác định và được chuẩn bị một cách tích cực. Các đồng chí ở Nhà bếp, nhà kho tích trữ cơm khô; các đồng chí ở Nhà Thương tìm cách kiếm thuốc chống nôn, dầu xoa, thuốc bệnh; anh em ở Bản Chế lén sản xuất các loại cưa, dao, đục, đinh sắt; bộ phận làm ở Nhà Đèn gửi mua thêm lương thực, thực phẩm và thùng thiếc để đựng nước uống. Đến khi có sáng kiến đóng thuyền, anh em gửi mua tôn, dầu hắc, vải bạt, búa, đinh, v.v…

Chi bộ lập Quỹ giải phóng để quyên góp tiền ủng hộ các cuộc vượt ngục và lựa chọn những đồng chí có năng lực lãnh đạo đưa về tăng cường cán bộ cho Đảng. Những đồng chí án nặng từ chung thân khổ sai đến 20 năm khổ sai được chú ý chọn trước. Nhiều đồng chí khác đang làm khổ sai, có điều kiện vượt ngục cũng được giúp đỡ tiền bạc, lương thực, thuốc men và dụng cụ. Nhà Đèn và nhà chú ma tà số 5 thường là nơi cất giấu các phương tiện để cung cấp cho các tốp vượt ngục.

Mùa gió chướng năm 1932, Lương Văn Tụy cùng một số đồng chí vượt đảo bị vỡ bè hy sinh trên biển. Nhiều tốp cộng sản vượt ngục đã bị bắt lại, giam trong xà lim và hầm xay lúa. Năm 1933, anh em rút kinh nghiệm tổ chức đóng thuyền. Các đồng chí Nguyễn Hỡi, Tống Phúc Chiếu… được chỉ định đi chuyến ấy. Thuyền được đóng trên một sườn núi phía Lò Vôi. Đồng chí Nguyễn Hỡi đã trốn lên núi, phát cây mở đường để khiêng thuyền xuống. Thuyền được hạ ở mũi Tàu Bể
1
[/color][/sup], vừa ra được hơn một trăm thước thì bị một con sóng lớn đánh chìm thuyền. Nguyễn Hời đuối sức bị sóng cuốn đi. Hai đồng chí bơi vào bờ thì không thấy Nguyễn Hời, đồng chí Tống Phúc Chiều bơi ra tìm lần nữa và bị sóng cuốn đi luôn…

Trở về tiếp tục hoạt động cách mạng luôn luôn là mềm khát vọng của những người tù cộng sản. Những tổn thất đau đớn không làm nhụt ý chí vượt ngục của họ. Chi bộ rút kinh nghiệm các cuộc vượt ngục, kiên trì phương án đóng thuyền. Năm 1934, tổ chức Đảng và Hội tù nhân ở các kíp tù khổ sai đã được củng cố. Những người cộng sản đã giành được quyền điều khiển công việc trong nhiều kíp tù khổ sai, do đó có thuận lợi hơn trong việc tổ chức vượt đảo. Một số tù thường phạm có kinh nghiệm đóng thuyền và đi biển được giác ngộ và lựa chọn tăng cường cho các chuyến vượt ngục sắp tới. Những người biết đóng thuyền được vận động cho ra làm ở các sở tù bên ngoài, nơi bộ máy trị tù lỏng lẻo hơn cả. Một số đồng chí được chi bộ trách nhiệm chỉ đạo việc bí mật đóng thuyền. Chi bộ định ngày khởi hành và lựa chọn, chỉ định từng người trở về trong mỗi chuyến vượt ngục.

Cuối năm 1934, chi bộ tổ chức cho Ngô Gia Tự, Tô Chấn, Lê Quang Sung và nhiều đồng chí có năng lực lãnh đạo vượt đảo. Chuyến đi được chuẩn bị công phu. Thuyền đóng bằng gỗ búng, rộng rãi và chắc chắn, hạ thủy vào một đêm nhiều sao, biển êm, gió nhẹ. Ai cũng hy vọng thành công nhưng trông đợi hết ngày này qua ngày khác vẫn không nhận được một tin tức gì.

Từ tháng 4-1934 đến tháng 4-1935, chi bộ tổ chức được hai chuyến vượt đảo thành công. Chuyến đầu gồm các đồng chí: Tống Văn Trân, Vũ Công Phụ, Tạo Gồng, Toán, Kim, Xuyến và 2 người tù thường (4-1934). Anh em tổ chức đón thuyền ở Đá Trắng. Khi hạ thủy, thuyền bị rò, anh em phải khắc phục ngay và chặt thêm cây bó vào 2 bên mạn cho sóng khỏi lật thuyền. Sau 3 ngày 3 đêm, thuyền đã cặp vào Bến Tre, vùng quê của đồng chí Tạo Gồng. Các đồng chí liên lạc được ngay với Đảng, một số đồng chí được bổ sung vào cơ quan Xứ ủy Nam Kỳ.

Tiếp sau đó, chuyến vượt ngục của các đồng chí Tạ Uyên, Nguyễn Hữu Tiến, Phạm Hồng Thám, Trần Quang Tặng… ngày 8-4-1935 cũng thành công, thuyền cập vào bờ biển Tây Nam Bộ. Các đồng chí cũng bắt liên lạc ngay với Đảng và lao vào công tác, góp phần khôi phục và củng cố Xứ ủy Nam Kỳ. Các đồng chí Tạ Uyên, Tống Văn Trân sau trở thành những cán bộ lãnh đạo chủ chốt của Xứ ủy, là những người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ (23-11-1940) và đã hy sinh anh dũng.

Các đồng chí ở Côn Đảo trở về đã báo cáo cụ thể với Xứ ủy Nam Kỳ về sự ra đời và hoạt động của chi bộ cộng sản ở Nhà tù Côn Đảo; báo cáo những ý kiến của chi ủy Côn Đảo về tình hình tư tưởng, chủ trương hoạt động cửa những người cộng sán ở Nhà tù Côn Đảo và đề nghị với Đảng có ý kiến chỉ đạo, phối hợp đấu tranh chống chính sách khủng bố của thực dân Pháp, đòi ân xá toàn bộ tù chính trị…

Theo Điều lệ mới mà Đại hội lần thứ nhất của Đảng ta họp ở Ma Cao (1935) đã bổ sung, chi bộ cộng sản ở Nhà tù Côn Đảo được công nhận là một Chi bộ đặc biệt dưới sự chỉ đạo của Xứ ủy Nam Kỳ.

Trong những năm 1934-1935, một số đồng chí án nhẹ, mãn án tù Côn Đảo trở về đều được chi bộ giao nhiệm vụ bắt liên lạc với Đảng, nhờ đó mà giừ được liên lạc với đất liến. Các đồng chí vượt ngục và mãn hạn trở về đều tìn gặp Xứ ủy Nam Kỳ và liên lạc ra Côn Đảo.

Cuối năm 1934 đồng chí Nguyễn Văn Nguyễn từ Nhà tù Côn Đảo trở về đã viết một loạt bài phóng sự về chế độ tù đày vô cùng dã man ở nhà tù này, đăng liên tục trên báo La Lutte (Tranh Đấu) từ tháng 10 năm 1934 đến tháng 12 năm 1935. Lần đầu tiên những tội ác cực kỳ man rợ của thực dân Pháp ở Nhà tù Côn Đảo từ nhiều năm được bưng bít đã bị vạch trần ngay tại Đông Dương, làm xôn xao cả dư luận tiến bộ ở Pháp và trên thế giới.

Mở rộng Mặt trận đấu tranh

Qua thư từ và cơ sở của Đảng trên các chuyến tàu hàng tháng ra Côn Đảo, Chi bộ đặc biệt đã cung cấp những tin tức mới nhất về đất liền. Những hành động tàn ác của bọn gác ngục Pháp và phong trào đấu tranh của tù nhân ở Côn Đảo được đăng ngay lên báo La Lutte (Tranh Đấu), kèm theo cả những yêu sách đấu tranh và lời kêu gọi của tù nhân Côn Đảo đã làm cho dư luận trong nước hết sức xúc động và phẫn nộ. Đảng ta đã tích cực chỉ đạo phong trào đấu tranh đòi ân xá tù chính trị và vận động quần chúng quyên góp tiền, thuốc men, thực phẩm… gửi ra ủng hộ tù chính trị ở Côn Đảo.

Để đối phó với dư luận tiến bộ, chính quyền thực dân Đông Dương cho tên chúa đảo hung bạo Buviê về Pháp nghỉ và điều Cơrêmadi (Crémazy) ra thay. Cơrêmadi đã già đời trong nghề mật thám ở Đông Dương, nói sõi tiếng Việt, thành thạo nhiều thủ đoạn mua chuộc, lừa mị. Tết dương lịch năm 1935, trong lúc Cơrêmadi cùng binh lính và gác dang Pháp linh đình tiệc rượu thì hắn lại “ra ân” cho tù nhân một con bò già đang bị bệnh. Được biết con bò bị sưng gan, ruột và phổi đầy mủ, toàn thể tù nhân đã đồng tâm phản đối không ăn. Cuộc tẩy chay vạch mặt thủ đoạn lừa mị đê tiện của Cơrêmadi đã mở đầu một thời kỳ đấu tranh đồng loạt và quyết liệt trên đảo.

Ngày 12-2-1935, tàu Méclanh (Merlin) chở ra Côn Đảo 150 giỏ cá khô1 trong đó có 100 giỏ cá thối, lúc nhúc dòi. Đó là thứ cá phế thải mà bọn thầu cơm tù đã mua tranh của chủ thầu phân bón với giá rẻ mạt. Tù nhân Banh I và Banh II đều phản đối, kiên quyết không nhận. Đốc tờ Nhã đến kiểm tra cũng xác nhận là không thể ăn được và yêu cầu loại bỏ số cá thối đó. Quản đốc, Cơrêmadi phải hứa với tù chính trị Banh II là sẽ trả lại cho nhà thầu 100 giỏ cá thối. Nói vậy nhưng hắn lại đem phát cho các sở tù khổ sai. Được sự chi đạo thống nhất của chi ủy, các sở tù Đá Trắng, Sở Tiêu, Sớ Củi – Chuồng Bò… đều phán đối không nhận cá thối, buộc bọn chúa ngục phải đem đồ làm phân bón.

Chuyến tàu tiếp theo chở ra 150 giỏ cá khô, 50 giỏ cá tốt được phân phát cho bọn gác ngục, còn 100 giỏ cá thối chúng lại đem cưỡng phát cho các sở tù bất chấp sự phán đối của tù nhân. Chi bộ đặc biệt quyết định phát động một đợt đấu tranh rộng lớn trên toàn đảo chống việc cho tù nhân ăn cá khô mục thối.

Ngày 1-3-1935, kíp đốn cây ở Bãi Bàng đấu tranh không nhận cá thối, hai mươi người bị trả về Banh I, chịu phạt xiềng và ăn cơm nhạt, uống nước lã. Ngày 2-3-1935, năm mươi tù nhân ở Bản Chế và Sở tẩy phản bói cá thối cũng bị phạt xiềng trong khám 6-7. Buổi chiều hôm ấy hàng trăm tù nhân sở Chỉ Tồn tuyệt thực phản đối lệnh phạt đối với 70 tù nhân trong khám 6-7. Tên Xếp chánh Cơrítsơchiani hăm dọa: “Súng của tao sẽ trả lời yêu sách của tụi bay”.

Ngày 3-3-1935, Thống đốc Nam Kỳ ra lệnh cấm cố tất cả những người tù cộng sản đang làm khổ sai ở Banh I. Quản đốc Cơrêmadi trực tiếp đôn đốc việc cùm xiềng và cấm cố tù nhân. Một trăm hai mươi người tù cộng sản bị đánh đập dã man, bị xiềng và cấm cố trong khám 6-7. Chi ủy họp cấp tốc, quyết định tổ chức tuyệt thực để chặn bàn tay khủng bố của kẻ thù. Đại biểu tù nhân khám 6-7 tuyên bố với xếp banh nhịn ăn, nhịn uống, đòi tháo xiềng, xóa bỏ cấm cố, đòi chấm dứt việc cho tù nhân ăn khô mục và đòi không được đánh đập, ngược đãi tù nhân.

Nhịn ăn và nhịn uống cùng một lúc là một hình thức đấu tranh quá cao, trong khi các nơi chưa kịp phối hợp đấu tranh hưởng ứng và tương quan lực lượng chưa thuận lợi, nên sau 3 ngày đêm, khám 6-7 chủ trương kết thúc cuộc tuyệt thực.

Mặc dù phần lớn các đồng chí lãnh đạo của chi bộ bị cấm cố, phong trào đấu tranh chống ăn cá khô mục vẫn phát triển mạnh. Tùy theo tình hình của từng nơi mà các sở tù nêu thêm nhiều khẩu hiệu cụ thể. Kíp san hô đòi được tắm rửa sau mỗi ngày làm việc; Hầm xay lúa đòi bỏ xiềng xích; kíp xe bò tiếp tục nêu khẩu hiệu: “mỗi xe 7 người”. Những sở có đông tù chính trị thì nêu thêm khẩu hiệu: “Chế độ chính trị cho tù chính trị”, “Tù chính trị phải được đọc sách báo”, v.v… Chi bộ tích cực chuẩn bị cho một cuộc đấu tranh tuyệt thực lớn trên quy mô toàn đảo, kết hợp với các hình thức bãi công, đưa yêu sách.

Khoảng giữa năm 1935, sau 2 chuyến vượt ngục thành công của tù cộng sản, Quản đốc Cơrêmadi đưa vào cấm cố toàn bộ tù cộng sản đang làm khổ sai ở các sở ngoài. Hơn 100 người bị giam vào khám 8 và khám 9, một số ít ở khám 10 chung với tù Quốc dân đảng. Khám 6-7 tập trung nhiều đồng chí có trình độ, trở thành trung tâm lãnh đạo lúc đó.

Tin Đảng ta công nhận chi bộ cộng sản ở Nhà tù Côn Đảo là một Chi bộ đặc biệt trực thuộc Xứ ủy Nam Kỳ đã đem đến cho các đảng viên niềm phấn khởi và tin tưởng ngay giữa lúc ở trong cấm cố, xích xiềng. Chi ủy được cung cố lại gồm các đồng chí Hồ Văn Long, Phạm Hùng, Nguyễn Công Thương (tức Lê Văn Lương)… Tờ báo Người tù đỏ ở Banh II được chuyển về Banh I xuất bản ở khám 6-7 với cái tên Tiến Lên là cơ quan thông tin và tranh đấu của chi bộ.

Chi bộ khẩn trương chuẩn bị cho cuộc đấu tranh sắp tới. Một số đảng viên còn lọt lại ở các sở tù bên ngoài là nòng cốt chỉ đạo phong trào đấu tranh của tù thường phạm ở những nơi này, đồng thời giữ vững liên lạc với đất liền. Ngày 18-5-1935, khám 6-7 mở đầu đợt đấu tranh đòi xóa bỏ cấm cố, đòi gỡ bỏ các tấm tôn che trên cửa sổ1, đòi cải thiện đời sống và không được đánh đập, ngược đãi tù nhân.

Banh II phối hợp đấu tranh, đưa yêu sách đòi cải thiện đời sống, đòi đảm bảo các quyền lợi của tù chính trị. Cùng thời gian này tên gác ngục Căng tanh (can tin) coi kíp đốn củi đã hành hung đánh chết 2 tù nhân. Toàn thể tù nhân Sở Củi – Chuồng Bò và nhiều sở tù khác bỏ việc tổ chức thành từng đoàn kéo về bàn giấy Xếp chánh đưa yêu sách:

– Phản đối Căng tanh giết người.

– Phản đối đánh đập và xiềng xích.

– Phải giảm nhẹ khổ sai.

– Cho tù ăn đủ chế độ và được tắm giặt.

– Chế độ chính trị cho tù chính trị.

– Phản đối chế độ cấm cố khám 6, 7.

Một bản yêu sách chung của tù nhân Côn Đảo được thảo ra gửi Quản đốc:

– Cấm chỉ đối xử dã man, đánh đập, ngược đãi tù nhân.

– Bớt giờ làm việc trong ngày..

– Mỗi năm phát ít nhất 3 bộ quần áo, 3 chiếc chiếu2.

– Ban đêm phải thắp đèn trong các khám.

– Ăn uống phải được cải thiện, không được cho tù ăn khô mục thối.

– Mỗi tháng cho ăn 2 lần thịt bò.

– Cho một chuyên viên điều trị bệnh lao phổi vì 75% tù nhân đã mắc bệnh lao phổi.

– Tù chung thân phát lưu được quyền sinh sống tự do ở ngoài các “banh”.

Do được chuẩn bị chu đáo và đưa tin trước về đất liền, báo La Lutte đã đưa tin ngay khi cuộc tuyệt thực nổ ra làm cho bọn thực dân Đông Dương vô cùng lúng túng. Bọn chúa ngục Côn Đảo tìm mọi cách dụ dỗ những người tuyệt thực. Buổi sáng chúng pha sữa nóng đem đến, buổi trưa và buổi chiều chúng lại đưa cơm nóng và thịt vích xào rất thơm vào tận trong khám. Bọn gác ngục hạ giọng năn nỉ anh em ăn cơm, còn yêu sách thì chúng chỉ hứa quanh co là sẽ nghiên cứu giải quyết. Khám 8-9 lập tức tuyên bố tuyệt thực hưởng ứng khám 6-7. Các sở tù khổ sai cũng lần lượt bỏ việc kéo về hưởng ứng như một cuộc tồng đình công, bãi thực. Bọn chúa ngục vô cùng lúng túng nhưng chúng vẫn ngoan cố chưa chịu chấp nhận yêu sách. Chi ủy chỉ đạo anh em kiên trì đấu tranh, quyết giành lấy một thắng lợi, dù nhỏ.

Cuộc tuyệt thực kéo dài đến ngày thứ 9. Hai người hấp hối phải đưa đi cấp cứu, nhưng vẫn tiếp tục tuyệt thực tại Nhà Thương. Đồng chí Nguyễn Hữu Tiêm kiệt sức hy sinh…

Đến lúc ấy Quản đốc Carêmadi mới buộc phải chấp nhận yêu sách. Hắn tuyên bố sẽ không đánh đập tù nhân, không cho tù ăn cá khô mục thối, cho gỡ các tấm tôn che trên cửa sổ, cho tù nhân 2 khám cấm cố ra chơi mỗi ngày một giờ ở sân sau khám. Tù cộng sản ở Banh I được “hưởng” chế độ “nửa chính trị”, được mua đồ dùng ở căng tin mỗi tuần một lần, được nhận thư và quà của gia đình gửi mỗi tháng một lần, được đọc sách nhưng không được đọc báo.

Cuộc tuyệt thực kết thúc thắng lợi. Đồng chí Mai Ngọc Can đang cấp cứu tại Nhà Thương chưa biết kết quả nên tuyệt thực thêm một ngày nữa.

Ngay sau khi cuộc tuyệt thực thắng lợi, nhiều đồng chí còn mệt lả vẫn lao vào công việc. Tờ báo Tiến lên ra ngay một số tường thuật cuộc tuyệt thực và tổng kết kinh nghiệm đấu tranh. Hưởng ứng cuộc vận động của chi uy, trên một trăm bản hồi ký viết về cuộc tuyệt thực 9 ngày đã được gửi về Ban biên tập để đăng trên các số báo Tiến lên tiếp theo3. các đồng chí trong chi ủy thường làm việc suốt đêm để viết báo cáo và tài liệu gửi về Xứ ủy Nam Kỳ.

Năm 1935, phong trào cách mạng trong nước đã được phục hồi, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ nhất của Đảng ta họp ở Ma Cao (3-1935) đã khôi phục hệ thống tổ chức Đảng từ Trung ương đến các cơ sở trong cả nước. Phong trào đấu tranh của nhân dân lao động Pháp cũng đang phát triển mạnh nhưng bọn phản động thuộc địa vẫn ráo riết chống lại phong trào cách mạng. Năm 1935, chúng lựa những người tù thuộc loại “cứng đầu” ở Trung Kỳ đày luôn ba chuyến ra Côn Đảo. Khu cấm cố Banh I trở thành nơi “tụ hội” của những người cộng sản Việt Nam ở khắp ba miền Bắc – Trung – Nam.

Đấu tranh đòi Tổng đại xá tù chính trị

Theo sáng kiến của Đảng cộng sản Pháp, tháng 5 năm 1935, tại Pa ri đã tổ chức một hội nghị chống phát xít với sự tham gia của Đảng cộng sản, Đảng xã hội, Đảng xã hội Pháp cấp tiến, Tổng công đoàn, Tổng liên đoàn lao động thống nhất và các đoàn thể quần chúng của các đảng phái nói trên. Hội nghị đã quyết định thành lập Mặt trận nhân dân chống phát xít và chiến tranh.

Tháng 1 năm 1936, Mặt trận nhân dân công bố cương lĩnh tranh cử của mình. Bản cương lĩnh đặt lên trên hàng đầu khẩu hiệu Đại xá (Amlistie général) trong đó có vấn đề ân xá tù chính trị ở Đông Dương. Cuộc vận động thành lập Mặt trận dân chủ của Đảng cộng sản Đông Dương cũng phát triển sôi nổi. Toàn quyền Đông Dương xoa dịu dư luận bàng cách ân xá 6 tù chính trị ở Côn Đảo (1-1936) và sau đó giảm án cho 15 người khác, phần lớn từ án chung thân xuống 20 năm cấm cố; một vài người được giảm xuống 15 năm.

Nắm được tình hình trong nước và trên thế giới đang có bước phát triển lớn, Chi bộ đặc biệt Banh I và Ban lãnh đạo Banh II đã động viên anh em ra sức học tập nâng cao trình độ để có dịp trở về hoạt động được nhiều hơn cho Đảng.

Tết âm lịch năm 1936, đại biểu tù nhân khu cấm cố Banh I gửi kiến nghị lên Quản đốc đòi được mở cửa khám, được đi lại tự do trong banh vui chơi 3 ngày Tết. Cơrêmadi phải chấp nhận. Chi bộ đặc biệt chỉ đạo tổ chức vui Tết cho anh em phấn khởi, nhằm bồi dưỡng ý chí chiến đấu. Bản hịch Banh I trình bày vở kịch Tết của ai và vở tuồng Xã hội đồi bại được khán giả tù và ma tà hoan nghênh nhiệt liệt.

Bọn phản động thuộc địa vẫn ráo riết chống lại phong trào cách mạng đang dâng cao. Đầu năm 1936, tên bạo chúa Buviê được điều từ Pháp sang nhận lại chức Quản đốc Nhà tù Côn Đảo. Buviê ra lệnh tước hết những quyền lợi mà tù nhân đã giành được trong các cuộc đấu tranh dưới thời Quản đốc Cơrêmadi (1935). Bọn gác dang được lệnh đàn áp thẳng tay.

Một buổi, tù nhân Sở Chi Tồn (lúc này hầu hết là tù thường phạm) làm khổ sai về sớm hơn thường ngày. Xếp Banh I cho gác dang chặn tù ngay trước cổng banh đánh đập tàn nhẫn, hơn trăm người tù thường phạm quằn quại dưới ngọn roi tàn bạo. Tiếng kêu la của họ thảm thiết và uất hận. Lập tức hàng trăm người tù cộng sản trong khu cấm cố Banh I bật dậy hò la phản đối:

– Đả đảo khủng bố!

– Đả đảo Buviê!

Tù chính trị ở Banh II cũng phẫn nộ thét vang các khẩu hiệu phản đối bằng tiếng Pháp:

– Đả đảo thực dân Pháp!

– Đả đảo Buviê!

– Đả đảo Cơrítsơchiani!.

Buviê giận tím mặt, hắn ra lệnh khủng bố thẳng tay. Bọn gác dang bỏ đám tù thường phạm, mở kho khiêng gần chục cần xé mây cà vông2 vào các khám tù Cộng sản. Thế rồi mỗi tên rút một, hai khúc mây xông vào quật thẳng cánh lên đầu tù nhân. Đánh đến nát khúc mây, chúng lại rút khúc khác đánh tiếp. Chúng đánh từ cửa khám cho đến khi dồn hết tù nhân vào trong góc khám. Nhiều tên mỏi tay ngồi thở hồng hộc rồi xông vào đánh nữa. Đánh nát hết mấy cần xé mây cà vông, cả bọn mới mệt mỏi và lặng lẽ kéo nhau ra.

Anh em tù nhân lập hàng rào từ cửa khám đỡ đòn cho nhau. Cuối cùng tất cả bị dồn vào góc tường, chồng chất lên nhau thành một đống. Lớp thanh niên trẻ nằm trên cùng, da thịt rách nát, vết roi mây nổi lằn bầm tím cả người. Khi bọn quỷ sứ rút ra rồi, cả khám tù lặng đi, xác roi mây dập nát ngổn ngang trong khám. Anh em tù ngồi dậy, tất cả ngó nhau cùng cười. Máu của những anh em trẻ còn nhuộm thành vệt đỏ trên mái tóc điểm bạc của đồng chí Tôn Đức Thắng. Nhiều đồng chí bị đánh nát cả lưng, hàng tháng trời không nằm được, phải ngồi dựa vào nhau.

Chi bộ đặc biệt quyết định phát động một phong trào đấu tranh mạnh mẽ chống chế độ tàn bạo của tên Quản đốc Buviê và đòi đại xá tù chính trị. Hai tờ báo ý kiến chung và Tiến lên tích cực vận động cho cuộc đấu tranh sắp tới. Đối với tù thường phạm, chi bộ vận động nêu các khẩu hiệu:

– Đòi được ân xá.

– Đòi không được đánh đập, ngược đãi tù nhân.

– Đòi cải thiện bữa ăn hàng ngày, bỏ cá khô mục.

Riêng tù chính trị nêu các yêu sách:

– Thả hết tù chính trị. Trong lúc chưa thả thì thi hành ngay chế độ tù chính trị, đưa toàn bộ tù chính trị về đất liền để cho gia đình được thăm hỏi.

– Bãi bỏ cấm cố, bỏ xiềng chân tay.

– Cải thiện bữa ăn hằng ngày, không ăn khô mục.

Hình thức đấu tranh là đưa yêu sách, nếu địch khủng bố thì sẽ bãi thực, hò la phản đối; các sở tù khổ sai sẽ phối hợp đấu tranh bằng cách bỏ việc. Toàn đảo lập ủy ban tranh đấu, mỗi banh lập một Ban tranh đấu, các khám đều tổ chức các đội tự vệ để chống khủng bố.

Ngày 18-3-1936, đồng chí Phạm Hùng đưa yêu sách của tù nhân Banh I cho Quản đốc. Buviê xổ ngay một tràng chửi rủa thô tục rồi ra lệnh cho tay chân: “Đánh thắng cánh. Nhốt hầm. Đấy chính là quyền lợi của chúng nó ở được hưởng ở Côn Lôn”.

Bọn gác dang rút những khúc mây cà vông xông vào khám 6-7 đánh túi bụi và bắt đồng chí Phạm Hùng giam xuống xà lim. Đội tự vệ khám 6-7 câu tay thành hàng rào chắn trước cửa khám đỡ đòn và bảo vệ cho các đồng chí ở phía trong. Tất cả tù nhân Banh I dồn ra các của khám thét vang:

– Đả đao Buviê! Đả đảo khủng bố!

– Đả đảo chế độ cấm cố!

– Phải thả hết tù chính trị!

Anh em Banh II cũng đổ ra các cửa lớn, leo lên các cửa sổ hô khẩu hiệu “đả đảo”, “phản đối” vang cả đảo. Quản đốc Buviê trực tiếp chỉ huy cuộc đàn áp. Bọn gác dang xông vào đánh hết đám này đến đám khác. Tù nhân Khâu (số tù 5930) bị đánh chết ngay tại chỗ. Hàng trăm người bị thương ở đầu, gãy tay, phải đưa ra nhà thương băng bó rồi giam riêng ở khám 10. Số tù nhân Việt Nam Quốc dân đảng ở khám 10 không dám đấu tranh, sợ bị khủng bố lây đã xin với xếp banh cho chuyển qua khám khác.

Tù nhân Banh I tuyên bố tuyệt thực phản đối khủng bố và đòi các quyền lợi chính đáng đã ghi trong yêu sách. Cuộc tuyệt thực kéo dài 9 ngày ở các khám tù cấm cố, 6 ngày ở một số khám tù khổ sai. Các sở tù đều nghỉ việc để hưởng ứng.

Cuộc đàn áp đẫm máu của Buviê sau đó đã được báo Le Lutte đưa tin và bị dư luận tiến bộ công phẫn lên án. Thống đốc Nam Kỳ buộc phải chỉ thị cho Quản đốc Côn Đảo cải thiện chế độ nhà tù, không được để cho dư luận coi bọn chúng như bọn người buôn nô lệ châu Phi. Buviê đành phải chấp nhận phần lớn yêu sách của tù nhân. Riêng yêu sách đòi ân xá tù chính trị hắn hứa sẽ chuyển lên Thống đốc Nam Kỳ và Toàn quyền Đông Dương.

Được tin Mặt trận nhân dân Pháp giành thắng lợi lớn trong cuộc bầu cử Quốc hội Pháp ngày 3-5-1936. Chi bộ đặc biệt quyết định tiến thêm một bước nữa. Ngày 28-5-1936, chi ủy thảo yêu sách gửi Thống đốc Nam Kỳ, Bộ trưởng Bộ thuộc địa và Thủ tướng Pháp đòi đại xá tù chính trị. Ngày 11-6-1936, một cuộc bãi thực, lãn công lại nổ ra trên toàn đảo để nhắc lại các yêu sách ngày 28-5-1936 đòi tổng đại xá.

Cuộc vận động thành lập Mặt trận dân chủ Đông Dương của Đảng ta cũng phát triển rầm rộ, hàng chục vạn tờ truyền đơn xuất hiện trong cả nước. Qua báo chí tiến bộ, Đảng ta đã đưa ra 12 yêu cầu tự do dân chủ trong đó có vấn đề tự do cho tù chính trị.

Tháng 6-1936, Chính phủ phái tả của Mặt trận nhân dân lên cầm quyền ở Pháp do Lông Bơ lum (Lon Blum), lãnh tụ Đảng xã hội làm Thủ tướng và Mariuýt Mu tê (Marius Moutet), đảng viên Đảng xã hội làm Bộ trưởng Bộ thuộc địa. Ra đời trong lúc phong trào nhân dân đấu tranh chống phát xít lên cao, Chính phủ Pháp buộc phải thi hành một số quyền lợi cho quần chúng lao động ở trong nước và các thuộc địa theo cương lĩnh của Mặt trận nhân dân Pháp. Ngày 14-7-1936, thực dân Pháp tập trung hơn 90 tù chính trị ở Côn Đảo về khám 10 Banh I, chuẩn bị đưa về Sài Gòn đòi ân xá.

Giữa lúc đó Chi bộ đặc biệt nhận được bản báo cáo của đồng chí Manuinxki (Manouinsky) tại Đại hội của Đảng bộ thành phố Lêningrát về những vấn đề cơ bản của Đại hội lần thứ 7 Quốc tế cộng sản cùng tạp chí Thư tín quốc tế, cơ quan thông tin của Quốc tế cộng sản.

Bản báo cáo của đồng chí Manuinxki đã phân tích sâu sắc bản chất và nguy cơ của chủ nghĩa phát xít, đề ra mục tiêu trước mắt của giai cấp vô sản, không phai lựa chọn giữa nền chuyên chính vô sản và dân chủ tư sản mà phải lựa chọn giữa nền dân chủ tư sản hay chủ nghĩa phát xít; nhiệm vụ cấp bách của giai cấp vô sản lúc này là phải tập hợp mọi tầng lớp nhân dân, không phân biệt giai cấp, tôn giáo, xu hướng chính trị, để lập Mặt trận nhân dân rộng rãi, đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít và chiến tranh, đòi tự do, cơm áo, hòa bình.

Ngay đêm 14-7-1936, Chi bộ đặc biệt phổ biến ngay nội dung nghị quyết Đại hội lần thứ 7 Quốc tế cộng sản đến khám tù chính trị chuẩn bị được ân xá. Chi bộ còn truyền đạt cho Banh II và tổ chức cho toàn thể đảng viên ở Banh I học tập, nghiên cứu nội dung, nghị quyết mới nhất của Quốc tế cộng sản đối với phong trào cách mạng thế giới.

Trong vòng 4 tháng cuối năm 1936 đã có hơn 500 tù chính trị ở Côn Đảo được trả lại tự do trong đó có đến một nửa là đảng viên cộng sản, chiếm khoảng 50% số tù chính trị ở được ân xá lúc đó1. Lớp đảng viên cộng sản ở tù ra, nhất là số đảng viên từ Côn Đảo trớ về là một nguồn cán bộ quý của Đảng. So với 6 năm trước, khi Đảng ta ra đời, hàng trăm đảng viên từ Nhà tù Côn Đảo về đã trưởng thành về lý luận, dày dạn trong đấu tranh cách mạng và nắm được sự chỉ đạo mới nhất của Quốc tế cộng sản đối với phong trào cách mạng thế giới.

Mặc dù nhiều đồng chí mang bệnh nặng sau những năm bị đày ải và bị đánh đập tàn nhẫn ở Côn Đảo, nhiều đồng chí bị tan nát gia đình bởi sự khủng bố đê hèn của chính quyền thực dân, tuyệt đại bộ phận tù cộng sản được trả lại tự do đều lao vào hoạt động.

Quá trình học tập, nghiên cứu lý luận Mác-lênin trong nhà tù đã củng cố lập trường giai cấp và lòng tin vững chắc vào thắng lợi của lý tưởng cách mạng. Những cuộc đấu tranh một mất một còn chống chế độ đày ải man rợ trong tù đã tôi luyện ý chí và bản lĩnh cách mạng cho những người cộng sản. Vì thế mà chính sách của kẻ thù không tiêu diệt được những người cộng san mà trái lại, họ trở nên “cứng như sắt, vững như đồng”.

Đội ngũ cán bộ này đã tăng cường cả về số lượng và chất lượng lãnh đạo cho Đảng ta, vừa đúng lúc Đảng ta nắm được thời cơ, phát động cao trào Mặt trận dân chủ Đông Dương sâu rộng, hiếm có ở một nước thuộc địa. Trong khi đó thì hàng trăm đáng viên Việt Nam Quốc dân đảng cùng về một lượt chi có vài người tiếp tục hoạt động cách mạng trở lại. Đó là những người đã chuyển hẳn sang hàng ngũ cộng sản, còn tuyệt đại bộ phận đảng viên Quốc dân đảng nằm im, không hoạt động chính trị nữa.

Bằng vốn lý luận và những kinh nghiệm hoạt động đã được tổng kết trong nhà tù, những người cộng sản đã thể nghiệm thành công trên nhiều lĩnh vực hoạt động như củng cố, xây dựng cơ sở Đảng; tổ chức quần chúng; tổ chức mít tinh, biểu tình, diễn thuyết, làm báo công khai… Có những đồng chí trước kia là công nhân, nông dân mà nay ở tù về diễn thuyết rất hay, biết phân tích tình hình thế giới, tình hình Đông Dương và xu thế cách mạng tất yếu của thời đại làm cho quần chúng khâm phục và tin tưởng.

Nhiều đồng chí đã trở thành những cán bộ lãnh đạo xuất sắc của Đảng ta trong cao trào Mặt trận dân chủ Đông Dương (1936-1939) như Nguyễn Văn Cừ, Hoàng Quốc Việt, Lê Quẩn, Nguyễn Chí Diều, Ung Văn Khiêm, Lê Thanh Nghị, Nguyễn Văn Linh, Hà Huy Giáp, Trần Huy Liệu… Đồng chí Nguyễn Văn Cừ được cứ vào Ban Thường vụ Trung ương (3-1938) và sau đó giữ chức Tổng bí thư của Đảng.

Nhà tù đế quốc không tiêu diệt được ý chí của những người cộng sản. Những người cộng sản đã đấu tranh đòi quyền sống và biến nhà tù đế quốc thành nơi đào tạo rèn luyện cán bộ cung cấp cho Đảng. Sau này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đánh giá: “Biến cái rủi thành cái may, các đồng chí của ta đã lợi dụng những ngày tháng ở tù để hội họp và học tập lý luận. Một lần nữa, việc đó chứng to trung chính sách khủng bố cực kỳ dã man của kẻ thù chẳng nhưng không ngăn trở được bước tiến của cách mạng mà trái lại, nó đã trở nên một thứ lửa thử vàng, nó rèn luyện cho người cách mạng thêm cứng rắn, và kết quả là cách mạng đã thắng, đế quốc đã thua”2.

Củng cố lại đội ngũ

Quản đốc Buviê hằn học nhìn từng đoàn tù xuống tàu về đất liền. Tại cầu tàu, hắn đã chỉ vào những người tù Quốc dân đảng và nói với anh em tù cộng sản: “Đáng lẽ chỉ cho những người này về. Các anh về nguy hiểm lắm!”. Trước đó, Buviê đã hậm hực ghi vào hồ sơ của đồng chí Phạm Văn Đồng: “Đừng có đưa người tù này về xứ sở của nó. Việc thả nó ra sẽ trở thành một nguy cơ cho Nhà nước”.

Không đầy 10 năm sau, chính những người tù này đã tham gia lãnh đạo cuộc Cách mạng tháng Tám (1945), lật đổ ách thực dân gần 100 năm của chúng.

Thắng lợi của phong trào Mặt trận nhân dân Pháp và phong trào Mặt trận dân chủ Đông Dương đã làm giảm hẳn số lượng tù chính trì ở Côn Đảo. Năm 1937, nhà ngục Côn Đảo còn 2.018 tù nhân, trong đó có khoáng 200 là tù chính trị. Qua báo chí tiến bộ, Đảng ta đã nhiều lần đòi Chính phủ Pháp phải lập tức trả lại tự do cho tất cả tù chính trị mà chúng còn giam giữ ở Côn Đảo và các nhà tù khác ở Đông Dương.

Chính quyền thực dân Đông Dương tìm mọi lý do để không thả những người tù còn lại. Tuy vậy chúng cũng buộc phải giảm án và để cho tù nhân được hưởng những quyền lợi mà họ đã đấu tranh giành được trong những năm 1934 – 1936.

Chế độ nhà ngục Côn Đảo căn bản không thay đổi. Banh II lúc ấy còn hơn 100 tù chính trị, trong đó có gần 20 đảng viên cộng sản. Anh em cộng sản vẫn tiếp tục nghiên cứu sâu nhiều vấn đề của chủ nghĩa Mác-lênin. Phần lớn số đảng viên Quốc dân đảng còn ở lại đã giác ngộ chủ nghĩa cộng sản. Phái cực đoan còn vài tên. Bọn này lâu lâu lại kiếm chuyện gây gổ, nhưng trước sự đoàn kết nhất trí cao của tù chính trị cộng sản và không được quần chúng Quốc dân đảng đồng tình nên chẳng bao giờ chúng thực hiện được ý đồ xấu. Một số anh em Quốc dân đảng xin sang ở không và sinh hoạt với những người cộng sản.

Banh I khi ấy còn khoảng 40 đảng viên cộng sản vẫn bị cấm cố trong khám 6. Một số đồng chí khác ở chung với thường phạm trong một vài sở tù khổ sai. Chi bộ đặc biệt được củng cố lại. Đồng chí Nguyễn Duy Trinh là Bí thư, chi ủy có các đồng chí Hồ Văn Long, Phạm Hùng, Nguyễn Công Thương (Lê Văn Lương)… Tổ cố vấn không còn nữa.

Hội tù nhân cũng được củng cố lại, đồng chí Tôn Đức Thắng làm Chủ tịch Hội. Phối hợp với phong trào Mặt trận dân chủ Đông Dương đang phát triển mạnh trong nước, ngày 2-2-1937, Chi bộ đặc biệt thảo một bức thư gửi Toàn quyền Đông Dương phản đối chế độ nhà tù hà khắc, đòi tổng đại xá, đòi các quyền tự do dân chủ và tự do triệu tập Đông Dương đại hội.

Các đồng chí từ Nhà tù Côn Đảo trở về hoạt động trong phong trào Mặt trận dân chủ (1936 – 1939) đã gửi ra Côn Đảo nhiều báo chí công khai lúc đó như Tin tức, Nhành Lúa, La Lutte (Tranh đấu), No tre Voi (Tiếng nói của chúng ta), Le humanité (Nhân đạo, cơ quan Trung ương của Đảng cộng sản Pháp), tạp chí Thư tín quốc tế… Đây là thời kỳ mà Chi bộ đặc biệt nhận được nhiều báo chí và tin tức tài liệu, có điều kiện tổ chức học tập, nghiên cứu sâu sắc nhiều vấn đề lý luận, chính trị, thời sự cũng như đường lối và sách lược đấu tranh của Đảng ta.

Giữa năm 1937, bức thư của đồng chí Nguyễn Chí Diễu gửi ra Côn Đảo thông báo chính sách mới và phương châm tổ chức mới của Đảng đã đem lại một không khí hết sức phấn khởi cho anh em. Chi bộ đặc biệt đã tổ chức nghiên cứu một cách nghiêm túc chủ trương thành lập Mặt trận nhân dân chống phát xít của Quốc tế cộng sản và chủ trương thành lập Mặt trận dân chủ Đông Dương của Đảng ta: Vấn đề Sách lược đấu tranh được thảo luận sôi nổi và vận dụng vào hoạt động trong tù.

Các hình thức đấu tranh được áp dụng một cách mềm dẻo hơn. Trước đây thường đấu tranh trực diện, nay được phối hợp nhiều hình thức, kể cả kiến nghị, gây dư luận, vận động, tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ của những người trong hàng ngũ địch, phân hóa và cô lập cao độ kẻ thù chủ yếu…

Năm 1938, đồng chí Nguyễn Ái Quốc từ Liên Xô trở về hoạt động ở Trung Quốc. Đồng chí đã có ý kiến chỉ đạo Đảng ta lúc này không nên nêu những khẩu hiệu quá cao mà phải đấu tranh cho những quyền lợi cấp thiết ở xứ thuộc địa, “đòi các quyền dân chủ, tự do tổ chức, tự do hội họp, tự do báo chí và tự do ngôn luận, đòi ân xá toàn thể chính trị phạm”.

Tờ báo Dân chúng, cơ quan ngôn luận công khai của Đảng cộng sản Đông Dương lúc đó đã vạch trần những thủ đoạn giả dối của Bộ trưởng thuộc địa Mu tê (Marius Moutet) và bọn phản động thuộc địa đang chống lại chương trình của Mặt trận nhân dân Pháp; tố cáo bọn chúng còn giam giữ nhiều người cộng sản như Nguyễn Lương Bằng, Phạm Quang Lịch… ở Sơn La; Tôn Đức Thắng, Nguyễn Duy Trinh, Phạm Hùng, Nguyễn Công Thương… ở Côn Đảo.

Báo Dân chúng đưa lại nhiều tin và bài của báo La Défense (Bảo vệ, cơ quan ngôn luận của Hội cứu tế nhân dân Pháp), phản ánh phong trào đấu tranh sôi nổi của nhân dân lao động Pháp đòi thả hết tù chính trị ở Đông Dương.

Bọn chúa ngục Côn Đảo vẫn bắt tù nhân đập đá, mở thêm các lộ giao thông, mở tuyến đường sắt từ Bản Chế lên Sở Củi và Sở Đá dưới chân Núi Chúa. Trong lúc kíp xe bò chuyên chở củi và vật liệu vẫn được chấp nhận 7 người đẩy một xe, mỗi ngày 3 chuyến thì đột nhiên ở kíp làm đường sắt, bọn gác dang bắt mỗi xe 2 người và bắt đi 6 chuyến trong buổi sáng. Nhóm cộng sản trong kíp làm đường sắt đã lãnh đạo một cuộc đấu tranh bằng hình thức lãn công. Buổi sáng ấy kíp tù chỉ đi 3 chuyến. Hết giờ, bọn gác dang quất roi túi bụi, bắt đi cho đủ 6 chuyến. Giữa trưa, mọi người làm càng uể oải, bọn chúng đánh cả kíp một trận tơi bời rồi phạt hầm những người cầm đầu.

Từ cuối năm 1938, nguy cơ chiến tranh thế giới đã đến gần. Chính phủ Pháp do Đalađiê (Daladier thuộc Đảng xã hội cấp tiến) đứng đầu ngày càng ngả về phía hữu. Giai cấp tư sản Pháp ráo riết chuẩn bị tấn công vào Đảng cộng sản và quần chúng lao động. Chính quyền thuộc địa Đông Dương cũng bắt đầu trở mặt, bắt bớ, khủng bố những người hoạt động trong phong trào Mặt trận dân chủ Đông Dương.

Bọn chúa ngục Côn Đảo ngày càng lì lợm. Mỗi lần tù nhân đấu tranh chúng chỉ nhượng bộ những yêu sách nhỏ như bớt việc khổ sai, cho tắm giặt, cho mua thuốc hút… Chi bộ đặc biệt vẫn theo dõi sát tin tức, tình hình, củng cố tổ chức và chuẩn bị cho những cuộc đấu tranh sắp tới Lợi dụng mỗi lần bọn gác ngục điều động tù nhân, chi bộ lại vận động cho một số đảng viên được nhận vào làm ở các kíp Nhà bếp, Sở tẩy, Bản Chế, Nhà Thương, Sở Lưới, Nhà Đèn và một số sở ngoài. Nhờ đó mà chi ủy trong cấm cố vẫn nắm được tin tức hàng ngày trên đảo, liên hệ được với các cơ sở và liên lạc được với Xứ ủy Nam Kỳ.

Trong lúc tình hình ở Đông Dương và ở Pháp đang xấu dần đi, những người cộng sản ở Côn Đảo tích cực chuẩn bị các mặt tư tưởng và tổ chức để bước vào một thời kỳ đấu tranh mới, trong điều kiện có thể sẽ gay go và quyết liệt hơn.

Giai đoạn: Nhà tù Côn Đảo từ 1862 đến 1930

Nguồn: Lịch sử nhà tù Côn Đảo 1862 – 1975

Di tích lịch sử Sở Đá tại Côn Đảo

Sở đá ở dưới chân Núi Chúa chuyên việc bắn mìn phá đá. Những khối đá hoa cương dùng để ốp con đường phía trước thị trấn Côn Đảo, xây cầu tàu Côn Đảo, xây móng nhà, tường nhà và các bức tường bao quanh các banh… đều do sở này cung cấp.

Kíp tù khai thác đá hộc ở chân Núi Chúa phải lên núi khoan lỗ, nổ mìn, đập đá, khuân đá, xếp lên xe đẩy về. Khi nổ mìn, mảnh đá văng lung tung, không mấy ngày không có người bị thương. Nạn sập đá xảy ra luôn, lớn nhất là vụ sập đá tháng 9 năm 1932 làm chết tại chỗ 5 người, trong đó có 3 người tù chính trị và làm bị thương nhiều khác.

Bọn coi tù phải điều động hàng trăm người ở những chỗ gần đó đến kích những tảng đá lớn để lấy xác hoặc moi những người bị thương ra. Cảnh tượng rất thương tâm: kẻ gấy tay, cụt chân, người vỡ đầu, phọt óc, lòi ruột gan ra ngoài, máu me bê bết.

Một tù nhân Côn Đảo thời kỳ 1939-1945 cho biết: khoảng trước chiến tranh thế giới, những người trong kíp đập đá Sở Chỉ Tồn còn thấy có một tấm bia dựng ở công trường đá Núi Chúa ghi lại một tai nạn sập đá: 19 người bị chết, 7 người bị thương nặng, 11 người bị thương nhẹ. Tù nhân Sở Chỉ Tồn đã tuyệt thực 5 ngày để phản đối chế độ khổ sai giết người và dựng bia kỷ niệm những người bị nạn, trừng phạt bọn cai tù ở công trường đập đá và cải thiện chế độ lao dịch quá nặng nề. Kíp chở đá còn khó nhọc hơn kíp chở củi, xe gạch. Đường xấu, xe đầy ắp, nặng lặc lè , làm rất cẩn thận mà có lúc xe cũng đổ, gây tai nạn.

Gần 50 km đường rải đá chạy từ Cỏ Ống đến quá Bến Đầm và các nhánh trong thị trấn Côn Đảo, chạy vòng phía trước Núi Chúa là mồ hôi nước mắt của tù khổ sai trong kíp làm đường. Hằng ngày họ phải gò lưng dưới nắng rát, chân đạp lên mặt đường trải đá dăm sắc cạnh, ra sức kéo trục hồ lô lăn đường nặng cả tấn.

Trong khi đó “bọn ngục tốt chực sẵn bên cạnh. Thấy ai hưi trễ nải một chút là múa hèo, múa gậy giáng xuống chan chát, không hề nới tay, mặc hệ cho tù bể đầu, gãy xương. Nhanh lên, mau lên! Làm hối hả đi! Bả vai, chân tay bị thương đau đớn mồ hôi ra như tắm ướt đẫm, thân lưng trần trụi trông rõ lằn ngang, lằn dọc dày đặc”1.

Đó là tình cảnh những người tù khổ sai đang đổ sức ra để nối dài thêm từng tấc đường trên Hòn Côn Lôn dưới thời thuộc Pháp.