Lưu trữ hàng tháng: Tháng Mười Hai 2020

Hải sản khô – món quà ý nghĩa của du lịch Vũng Tàu

Du lịch đến Vũng Tàu, trước khi về, nhiều du khách thường chọn mua các loại hải sản làm quà. Với ưu điểm bảo quản được lâu để dùng dần, hải sản khô, một nắng là món quà ý nghĩa cho người thân, bạn bè. Vũng Tàu Chủ nhật giới thiệu những địa chỉ bán hải sản khô dưới đây để du khách lựa chọn.

CÁC CỬA HÀNG HẢI SẢN KHÔ

Siêu thị hải sản khô của Công ty CP Chế biến xuất nhập khẩu thủy sản BR-VT (Baseafood) là địa chỉ được nhiều người dân và du khách tin dùng. Siêu thị chuyên bán các loại hải sản khô và hải sản một nắng như: cá đù tẩm gia vị (57-95 ngàn đồng/gói, tùy trọng lượng); cá chỉ vàng tẩm mè (100 ngàn đồng/gói 500gram); cá mai tẩm gia vị (55 ngàn đồng/gói 250gram); cá sặc khô (140 ngàn đồng/gói 500gram; cá hồng khô (110 ngàn đồng/gói 500gram)… Ngoài ra, siêu thị Baseafood còn bán các sản phẩm ăn liền đóng gói như: cá thu nướng, cá cơm kho, mực rim, mực xé nướng, cái mai kho… với giá từ 12-55 ngàn đồng/gói. Khách có thể mua hải sản khô của Baseafood tại các địa chỉ: số 2, Trưng Trắc, ĐT: 0254.2240332; số 559, Trương Công Định, ĐT: 0254.2240231; số 118, Hoàng Hoa Thám, TP. Vũng Tàu, ĐT: 01284004959.

Tại cửa hàng hải sản khô Văn Sen (số 9, Trưng Nhị, TP. Vũng Tàu), giá các loại hải sản một nắng và hải sản khô như sau: mực một nắng: 320 ngàn đồng/kg; mực dẻo câu một nắng: 850-900 ngàn đồng/kg; cá chỉ vàng: 180 ngàn đồng/kg; cá bò: 520 ngàn đồng/kg; mực khô: 750-900 ngàn đồng/kg; tôm khô đồng: 540-900 ngàn đồng/kg; tôm khô biển: 500-1,1 triệu đồng/kg. ĐT: 0908103700.

Ngoài ra, khách có thể mua hải sản khô tại các cửa hàng hải sản khô: Hà Thơm (147, Trần Phú, ĐT: 0254. 3550222); Hồng Phúc (504, Trần Phú, ĐT: 0254. 3834004); Oánh (400, Trần Phú, ĐT: 0254. 3551 761).

CHỌN HẢI SẢN KHÔ NGON

Với kinh nghiệm 18 năm kinh doanh, anh Nguyễn Văn Tài, chủ cửa hàng hải sản khô Văn Sen tư vấn cách chọn hải sản khô ngon: Với mực một nắng, nên chọn loại mực câu là ngon nhất. Mực câu có thân dày, bụng màu trắng, lưng màu hồng tự nhiên, trên thân mực còn một lớp phấn trắng, khi ăn, thịt sẽ rất ngọt. Với cá khô một nắng, khách nên chọn loại thịt dày, khi ăn vị cá hơi mặn nhưng vẫn giữ nguyên vị ngọt, thịt dai, không bở. Còn với tôm khô một nắng, bạn không nên chọn loại có mùi tanh nồng, màu đỏ chót toàn thân, bởi có thể tôm bị tẩm ướp phẩm màu. Bạn nên chọn loại tôm có mùi thơm, phần thân tôm màu đỏ tự nhiên nhưng phần bụng vẫn giữ nguyên màu trắng.

Lựa chọn Tôm khô

HOÀNG THI

Báo Bà Rịa – Vũng Tàu

Ốc hương – Đậm đà hương vị biển Vũng Tàu

Ở TP. Vũng Tàu, ốc hương được biết đến như một mặt hàng hải sản cao cấp hấp dẫn bởi hương vị thơm ngon, quyến rũ của nó. Ngoài việc đánh bắt ngoài biển, ngư dân Vũng Tàu còn có công nghệ nuôi ốc hương thương phẩm, đáp ứng nhu cầu thị trường trong và ngoài tỉnh.

Ốc hương tươi sống

Ốc hương thuộc loài nhuyễn thể chân bụng, tên khoa học Babylonia areolata, họ Babyloniidae, sống ở vùng biển nhiệt đới, phân bố chủ yếu tại vùng biển Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương. Môi trường sinh trưởng của ốc hương là khu vực đáy biển nhiều cát, hoặc bùn cát pha lẫn vỏ động vật thân mềm, ở độ sâu từ 5-20m. Ốc hương có vỏ xoắn, màu vàng, điểm những chấm nâu, kích cỡ con lớn nhất dài không quá 10cm, nặng khoảng trên dưới 60g. Thức ăn của ốc hương là mùn bã lắng đọng ở đáy biển và xác thối rữa của các loài thủy sản, nhất là xác các loài động vật thân mềm có hai mảnh vỏ như trai, sò, hến, nghêu, các loài giáp xác như tôm, cua, ghẹ… Ốc hương rất phàm ăn, lượng thức ăn mỗi ngày chiếm 12% so với trọng lượng cơ thể. Ở đáy biển, ốc hương sống rải rác từng đôi một, nhưng khi gặp mồi thì tụ tập dày đặc để rúc rỉa.

Nhìn bề ngoài, ốc hương có màu lốm đốm xanh trắng vàng rất đẹp. Ốc hương có mùi thơm ngay cả khi còn sống, nhưng hấp dẫn nhất là mùi thơm khi được nấu chín, bởi thế nên mới có tên gọi là ốc hương. Thịt ốc hương giòn, ngọt, thơm, dai, có hàm lượng dinh dưỡng cao, chứa nhiều loại vitamin B, chất hỗ trợ cho hoạt động của não và hệ thần kinh, rất tốt đối với sức khỏe con người.

Ốc Mẹt Cô Bắc Vũng Tàu

Ốc hương thường được chế biến thành nhiều món ăn như: nướng, luộc, nhồi, làm gỏi, sốt me, rang muối ớt, nướng bơ, hấp gừng, sả. Trước khi chế biến ốc hương thành món ăn, cần phải sơ chế, làm sạch ốc. Phương pháp chung để làm sạch ốc là ngâm trong nước vo gạo, pha thêm chút giấm, gừng hoặc ớt xắt lát. Sau đó vớt ốc ra chế biến thành món ăn theo sở thích. Nhưng dù chế biến ốc hương theo cách nào cũng không làm mất đi hương thơm tự nhiên và đặc tính giòn, ngọt của nó.

Là loại hải sản lành tính, nhiều chất đạm, thơm ngon hấp dẫn nên ốc hương là món ăn ưa chuộng của nhiều người. Hiện nay, ở Vũng Tàu, nguồn cung ốc hương rất đa dạng. Ngoài việc đánh bắt ngoài biển, ngư dân còn có công nghệ nuôi ốc hương thương phẩm, đáp ứng nhu cầu của thực khách.

Du khách có thể tìm mua ốc hương ở nhiều chợ như: chợ Bến Đá, chợ Bến Đình, chợ Rạch Dừa và các vựa hải sản tươi sống khác. Ngoài việc bán tại chỗ cho thực khách, các đại lý còn bỏ mối cho thương lái và khách hàng ngoài tỉnh.

Bà Huỳnh Thị Phước, một chủ vựa hải sản tươi sống trên đường Nguyễn Công Trứ, TP. Vũng Tàu cho biết, giá ốc hương tự nhiên hiện nay gần 400 ngàn đồng/kg với loại kích cỡ vừa phải; loại ốc lớn (16 con/kg) giá có thể cao hơn nhưng các vựa hải sản trên đường Nguyễn Công Trứ hầu như không có. Một chủ vựa cho hay, muốn mua ốc hương lớn phải tìm đến các vựa hải sản ở khu vực Sao Mai – Bến Đình.

Theo chủ vựa hải sản Tuấn Dũng, đường Trần Phú, TP. Vũng Tàu, thị trường ốc hương thiên nhiên loại lớn (khoảng 15 con đến 20 con/1kg) hiện nay rất đắt hàng. Khách mua hầu hết là khách sạn 5 sao, nhà hàng nổi tiếng ở Vũng Tàu và TP. Hồ Chí Minh. Có thời điểm giá 1kg ốc hương lớn lên đến hơn 1 triệu đồng mà vẫn không có hàng. Trong khi đó, ốc hương nuôi giá rẻ hơn nhiều, thường chỉ trên 200 ngàn đồng/kg, khách mua hầu hết là các quán ốc bình dân và thương lái ở Đồng Nai, Bình Dương.

TRẦN QUANG VINH
Báo Bà Rịa – Vũng Tàu

Những món ngon Phố biển Vũng Tàu khách du lịch luôn tìm thử

Bạn có biết thành phố Vũng Tàu không chỉ nổi tiếng với những bản sắc riêng, bãi biển đẹp mà những món ăn ngon phố biển Vũng Tàu rất hấp dẫn khách du lịch.

Dưới đây là danh sách những món ăn ngon bạn nên thử ít nhất 1 lần khi đến Vũng Tàu!

Bánh Khọt Vũng Tàu

Những tên như bánh khọt Gốc Vú Sữa, Cây Sung, Cô Ba Vũng Tàu, cô Hai… trở thành điểm hẹn ẩm thực hàng ngày của người dân địa phương và du khách thập phương mỗi khi đến với phố biển.

Bánh khọt Cây Sung Vũng Tàu

Vỏ bánh được làm từ hỗn hợp bột gạo, trứng gà, nước cốt dừa. Nhân bánh khá đa dạng có thể là sò điệp, tôm tươi, thịt bằm, chả cá, nhưng ưa chuộng nhất vẫn là tôm tươi. Vì là món ăn dân giã nên cách làm bánh khọt cũng khá đơn giản: Gạo đem ngâm nước khoảng 2-3 tiếng cho hơi mềm, sau đó đem xay, ủ qua đêm, khi chế biến hòa bột gạo với nước cốt dừa, trứng gà, hành lá xắt nhỏ, bột nghệ… Khuôn bánh khọt bắc lên bếp cho nóng, tráng một lớp dầu mỏng rồi đổ bột vào đợi bánh gần chín cho tôm lên trên mặt bánh, đậy nắp khuôn lại và đợi đến khi bánh chín cho một ít dầu vào để dễ lấy bánh khỏi khuôn.

Công thức chung như thế nhưng để tạo dấu ấn riêng hấp dẫn khách hàng, mỗi quán đều có bí quyết riêng trong khâu pha chế, sáng tạo nhân và trang trí làm đẹp chiếc bánh. Ngoài món bánh khọt được đổ theo cách truyền thống sử dụng nguyên liệu chính từ gạo, để thay đổi khẩu vị, màu sắc cho bánh nhiều hàng quán cải tiến cách làm bánh, có bánh đậu xanh, bánh chay, nhân cũng đủ loại theo sở thích của khách hàng. Bánh khọt ngon phải là những chiếc bánh vừa giòn vừa dai, vị béo của bột gạo, nước dừa và gạch tôm hòa quyện, vàng ruộm và thơm lừng, được ăn kèm với nước chấm và các loại rau sống. Nhiều người cho rằng, nước chấm và các loại rau sống ăn kèm góp 50% giúp miếng bánh khọt thêm ngon miệng. Đặc biệt, trong bối cảnh vệ sinh an toàn thực phẩm được hết sức chú trọng, có quán bánh khọt còn trang bị máy rửa rau sạch công nghệ ozon, giúp rau luôn tươi ngon và đảm bảo an toàn vệ sinh.

Đến thành phố Vũng Tàu, du khách dễ dàng tìm thấy món bánh khọt từ quán cóc bình dân đến nhà hàng cao cấp. Tuy nhiên, dù quán ăn bình dân hay nhà hàng sang trọng thì người làm bánh khọt vẫn giữ cách làm cũng như hương vị đặc trưng riêng để rồi một lần nếm thử sẽ thật khó quên và lòng sẽ hẹn lòng lần sau trở lại Vũng Tàu phải tìm đến thưởng thức món ăn đạt kỷ lục châu Á của phố biển.

Xem thêm: Đừng quên thưởng thức món Bánh Khọt Vũng Tàu khi về xứ biển này

Lẩu cá đuối

Lẩu cá đuối cũng là một món ăn dân dã, dễ chế biến, không sang trọng, chẳng cầu kỳ nhưng chưa bao giờ ngừng hấp dẫn du khách khi đến thăm thành phố biển này, món đặc sản này vẫn luôn kích thích sự tò mò, và tạo sự thích thú cho nhiều thực khách với đặc điểm “không lạ nhưng rất độc”. Thế nhưng món lẩu cá đuối lại là món ăn đơn giản lại hấp dẫn người ăn bởi hương vị thơm ngon đậm đà hương vị biển.

Lẩu cá đuối Vũng Tàu

Cá đuối có quanh năm nhưng vào mùa là từ tháng giêng đến tháng ba âm lịch, do đó món lẩu cá đuối vào thời điểm này cũng ngon, rẻ và bổ hơn. Cá đuối không có xương, chỉ có sụn cá giòn giòn, thịt cá dai và ngọt, nhờ đó mà vị của cá đuối không giống những loài cá biển khác. Lẩu cá đuối muốn ngon thì cá phải tươi, có lẽ đó là lý do chỉ khi ra biển món ăn này mới đặc biệt ngon hơn hẳn. Đặc biệt, những ngày gió lớn hay những ngày phố biển se se lạnh, cái cảm giác ngồi quanh nồi lẩu nghi ngút khói cùng vài người bạn, thưởng thức vị dai, ngọt và giòn giòn của cá đuối, hòa cùng vị chua của măng chua, thêm một ít vị cay của ớt tươi, và mùi thơm của ngò gai, rau ôm bốc lên thơm lừng một hương vị “rất Vũng Tàu”, khó lòng tìm thấy được ở bất kỳ nơi nào khác.

Xem thêm: Về Vũng Tàu nhất định phải ăn món Lẩu cá đuối

Bánh bông lan trứng muối

Các lò bánh bông lan trứng muối xuất hiện nở rộ trên đất Vũng Tàu mới đây thôi nhưng bánh bông lan đã nhanh chóng trở thành món ăn vặt quen thuộc với du khách khi đến thành phố biển. Trên các tuyến đường lớn trong nội ô Vũng Tàu như: Lê Lai, Đồ Chiểu, Hoàng Hoa Thám, Nguyễn Trường Tộ… khách dễ dàng bắt gặp những cửa hàng bán bánh bông lan trứng muối. Một số cửa hàng rộng rãi, trưng bảng hiệu, trang hoàng đẹp, nhưng cũng có nơi chỉ là một chiếc tủ kiếng với những bịch bánh bông lan trứng muối xếp kín mặt tủ.

Nguyên liệu làm bánh bông lan trứng muối từ bột mì, đường, muối, bơ thực vật, trứng gà, sữa tươi, thêm nước cam tươi và bí quyết riêng trong khâu phối trộn nguyên liệu. Ngoài nhân trứng vịt muối, bánh bông lan “Gốc cột điện” còn có thêm nhân phô mai, chà bông. Bánh ở đây được nướng bằng vỏ gáo dừa khô, có độ nóng cao nên chín đều và quan trọng là an toàn cho sức khỏe. Có lẽ những yếu tố đó đã tạo nên nét độc đáo, hấp dẫn cho món bánh bông lan trứng muối.

Bánh bông lan trứng muối Vũng Tàu

Tiệm bánh “Gốc cột điện” bán nhiều loại bánh bông lan: trứng muối/phô mai (25.000 đồng/hộp), trứng muối/phô mai chà bông (30.000 đồng/hộp), trứng muối phô mai (35.000 đồng/hộp), trứng muối phô mai chà bông/thịt heo Tứ Xuyên (40.000 đồng/hộp). Khách đặt qua điện thoại sẽ được giao hàng tận nơi (từ thứ Hai đến thứ Sáu). Khách ở TP.Hồ Chí Minh đặt hàng được giao/nhận qua hãng xe Hoa Mai với phí vận chuyển 30.000 đồng/lần.

Hải sản Vũng Tàu

Du khách có thể thưởng thức nhiều loại hải sản tại các nhà hàng có vị trí nằm sát biển như: Lan Rừng Resort, Gành Hào, Cây Bàng, Lâm Đường, Thành Phát, bè cá Long Sơn (TP.Vũng Tàu) hoặc những nhà hàng hải sản trải dài khắp phố biển Vũng Tàu, tại những nơi này, thực khách vừa ăn các món hải sản vừa ngắm cảnh tàu bè trên biển rất lãng mạn. Các loại hải sản như: sò huyết xào bơ tỏi, cá mú chưng tương, cá mao ếch nướng muối ớt, móng tay chúa xào mỡ hành, tôm tít hấp… hấp dẫn từ tên gọi cho tới cách chế biến. “Mới nhìn các loại hải sản như: ốc móng tay, tôm tít, tôi cảm thấy vừa lạ vừa… sợ, nhưng hương vị của nó thật tuyệt vời. Móng tay dai và ngọt bùi, tôm tít cũng rất đặc biệt bởi thịt ngọt, thơm. Những món ăn này thực sự có sức lôi cuốn đến lạ kỳ

Ghẹ Vũng Tàu

Vũng Tàu là một điểm đến luôn nằm trong sổ tay du lịch của họ. Bởi Vũng Tàu có khí hậu tốt, giao thông thuận lợi và không quá ồn ào, tấp nập. Đặc biệt, tại bất cứ nhà hàng, quán ăn nào, thực khách cũng có thể tận hưởng không gian riêng rất thoải mái, với những món ăn mang nhiều nét văn hóa ẩm thực khác nhau được chế biến từ hải sản tươi sống.

Bánh tiêu đậu xanh

Đi Vũng Tàu ăn gì thì ngoài ăn hải sản và món mặn thả ga, bạn nhất định phải thử qua món bánh tiêu nha. Bánh tiêu đậu xanh chỉ có ở đường Đồ Chiểu mở cửa từ 15h chiều nhưng khách đứng đợi trước khi bán khá đông. Ở đây có bánh tiêu cade, bánh tiêu đậu xanh, bánh bò. Món ngon và đắt khách nhất chính là bánh tiêu cade. Ăn lúc nóng ngon tuyệt. Lớp bánh mỏng cùng nhân trứng đầy, bạn chỉ cần cắn một miếng nhân trứng tràn ra rất đã. Đây là một món ăn vặt rất bình dân, không chỉ giá rẻ mà còn dễ ăn và ngon nên được rất nhiều người yêu thích.

Địa chỉ: 43 Đồ Chiểu, Phường 1, Tp. Vũng Tàu

Bánh tiêu đậu xanh Vũng Tàu

 

 

Đấu tranh đòi thi hành Hiệp định Paris và nổi dậy giải phóng Côn Đảo (1973-1975)

Vào thời điểm Hiệp định Paris có hiệu lực (tháng 3/1973), ở Côn Đảo có 9.892 tù nhân, trong đó có 274 là thường phạm, 940 quân phạm thường tội, 636 quân phạm chính trị, 4.020 can phạm đặc biệt (chính trị có án), 3.498 an trí đặc biệt (tù chính trị không có án), 37 nghi can, 487 chưa phân loại. Trong khi đó, ngụy quyền Sài Gòn chỉ công bố danh sách trao trả cho ta 5.081 nhân viên dân sự (tù chính trị) toàn miền Nam, riêng ở Côn Đảo là 4.075 người.[1] Nhờ có radio bí mật giấu trong phòng, những người tù ở các trại nắm được diễn biến cuộc đàm phán tại Hội nghị Paris, sau đó đã chép lại toàn văn Hiệp định và các Nghị định thư; đồng thời, được anh em ở bên ngoài, trong đường dây thông tin cung cấp kịp thời.

Mỹ – ngụy phá hoại Hiệp định Paris, tráo trở việc trao trả tù chính trị

Theo một bản tài liệu do những người tù làm ở Văn phòng Quản đốc chép lại, gửi về Trung ương Cục, vào thời điểm Hiệp định Paris có hiệu lực (3-1973), ở Côn Đảo có 9.892 tù nhân, trong đó có 274 là thường phạm, 940 quân phạm thường tội, 636 quân phạm chính trị, 4.020 can phạm đặc biệt (chính trị phạm có án), 3.498 an trí đặc biệt (tù chính trị không có án), 37 nghi can, 487 chưa phân loại. Trong khi đó, ngụy quyền Sài Gòn chỉ công bố danh sách trao trả cho ta 5.081 nhân viên dân sự (tù chính trị) toàn miền Nam, trong đó ờ Côn Đảo có 4.075 người.

Tập sách “Tù chính trị – một vấn đề của chế độ Sài Gòn” do Hội những người Việt Nam tại Paris ấn hành 1974 đã dẫn tờ trình số 40 của Quản đốc trung tâm cải huấn Côn Sơn ngày 20-2-1973 ghi nhận vào thời điểm đó, Côn Đảo có 102 giám thị và nhân viên cải huấn; tống số tù nhân là 9.850, trong đó có 8.792 nam, 1.058 nữ.

Nhằm thực hiện âm mưu ém giấu tù chính trị, không trao trả theo Hiệp định Paris, tháng 10-1972, ngụy quyền Sài Gòn đã chỉ thị cho tất cả các Trung tâm cải huấn lập danh sách tù chính trị. Ngoài các mục thông thường như tên họ, năm sinh, cha mẹ, tội trạng, án tiết, ngày giam, toà xử, đính bài, còn thêm mục sức khỏe và hạnh kiểm. Ngày 22-11-1972, Trung tâm cải huấn Côn Sơn đã hoàn thành danh sách, gửi về Nha cải huấn và Bộ Nội vụ ngụy.

Ngày 8-2-1973, theo điện văn của Nha cải huấn và Bộ Nội vụ ngụy, Trung tâm cải huấn Côn Sơn lập báo cáo riêng về sô tù nhân già yếu (từ 60 tuổi trở lên), què lết, bại xụi, mắc các chứng bệnh nan y. Cùng ngày, Nha cài huấn phê duyệt trả tự do (phóng thích đơn phương) cho 219 tù nhân, lọc trong danh sách 1.500 người mà Trung tâm cải huấn Côn Sơn đề nghị, trong đó:

– Bệnh nan y: 38 người

– Trên 60 tuổi: 9 người

– Bệnh tê bại: 172 người

Công điện số 18190/CSQG/K3/317/M ngày 8-3- 1973 của Bộ chỉ huy cảnh sát quốc gia quân khu 3 cho biết: từ ngày 16 đến ngày 22-2-1973, Bộ tư lệnh cảnh sát quốc gia quân khu 3 đã tiếp nhận 147 can phạm cộng sản nan y tàn phế từ Trung tâm cải huấn Côn Sơn chuyển đến đế cấp tốc lập thủ tực trả tự do trong quân khu. Ngày 7-3-1973, quân khu đã hoàn tất việc chuyến giao các can phạm nói trên cho cảnh sát quốc gia các địa phương trong quân khu.

Tài liệu tham khảo đặc biệt tháng 3-1973 của Việt Nam Thông tấn xã đăng bài của Roland Pierre Parigneaux, thông tin viên Hãng AFP thường trú tại Sài Gòn viết về tình trạng thương tâm của 124 người tù bại lết vừa được trả tự do tại Biên Hòa mà họ được tận mắt chứng kiến. Bài báo có đoạn:

“Cuối tháng 2-1973, 124 người trong số những người “thân cộng” bị giam giữ từ bao nhiều năm ở Côn Sơn (trước gọi là Côn Lôn) đã được chính quyền Sài Gòn trả lại tự do một cách thầm lặng, không kèn không trống, không thông qua thương lượng, không người chứng kiến. Khi đi lại, họ phải bò lê dưới đất. Đôi cánh tay khẳng khiu, thân hình chỉ còn là một bộ xương, ống chân thì teo lại, bấm không còn biết đau và mang nhiều sẹo rất sâu; vết tích của những xiềng xích còn để lại trên da thịt hồi những ngày họ bị nhốt hàng năm, nằm chồng chất lên nhau trong những xà lim nhỏ và chỉ mới nghe nói cũng đủ rùng mình: những “chuồng cọp” ở nhà tù trên đảo Côn Sơn”.

Bác sĩ Champlin đã gặp 14 người trong sô 124 người đó và dành thời gian khám cho một nửa. Không những chân họ bị liệt mà còn mất hết cảm giác. Người ta nhận thấy các bắp thịt nói chung đều bị teo; nguyên nhân tình trạng này, theo những nhận xét sơ bộ trong khi chưa có những dụng cụ chuyên môn, là do nhiều nhân tố: “thiếu dinh dưỡng một cách trầm trọng, nhất là vitamin nhóm B, dây thần kinh bị hư hỏng không còn đảm bảo được chức năng của nó vì thiếu vận động. Tình trạng bị liệt bắt đầu phát hiện sau bốn năm tháng. Một sô bị tê liệt đến ngang hông, có người bị liệt đến phía dưới một chút. Người ta nhận thấy có nhiều hiện tượng chấn thương bộ phận, có thể là do bị đánh mãi vào một chỗ và có những vết thương ở cổ chân trông có vẻ là những vết bị xiềng”.

Phóng viên Hãng tin AFP nhận xét rằng, việc chính quyền Sài Gòn trả tự do một cách thầm lặng và không chính thức cho 124 người tù tàn tật, bại lết nói trên là nhằm loại bỏ những nhân chứng bất lợi trước Ủy ban Kiểm soát và Giám sát Quốc tế. Song chính tội ác dã dẫn chúng đến sự trừng phạt, trước hết là dư luận tiến bộ.

Vụ “chuồng cọp Côn Đảo” đầy tai tiếng, từng làm nhức nhối lương tri loài người, nay được phơi bày trước dư luận bằng những nhân chứng đau thương, thức tỉnh nhân bản của chính những người Mỹ đã từng ngờ vực và hiểu sai lạc về cuộc chiên tranh này. Tập san Đối Diện sô 50, tháng 10-1973, xuất bản tại Sài Gòn đã đăng bài của Gumbỉeton, Giám mục địa phận Détroí (Mỹ) mang tựa đề “Tôi sẽ không bao giờ quên” viết về cuộc gặp gỡ của ông với 3 trong số 124 người tù bại lết vừa được trả tự do. Và đây là những lời mà ông tâm huyết:

“Tôi sẽ không bao giờ quên, giây phút anh ta bước vào phòng. Không ai trong chúng tôi biết nói gì cả. Anh ta không còn có thể bước đi được nữa. Anh ta dựa vào tường mà lết một cách chậm chạp và đau đớn, gập cong người lại trong tư thế ngồi xổm. Thật là hình ảnh đáng thương. Thanh niên này trước khi bị bắt rất khỏe mạnh. Bây giờ thì hình như anh không thể lết được. Cả ba người này không hề có tội gì mà vẫn bị tù và bị đối xứ tàn ác, vu cho là phá rối trị an.

Tôi bị kích động sâu xa vì thái độ hòa nhã của họ, tuy đã gánh nhiều khổ nhục. Họ đã nói năng không thù hận (…) Họ đòi hỏi khẩn thiết nhất không phải là cho chính họ mà cho những người còn lại trong tù. Họ xin chúng tôi làm bất cứ cái gì để can thiệp đòi thả hàng ngàn người khác mà họ biết là còn đang ở trong tù”.

Vị giáo sĩ người Mỹ chưa hết kinh ngạc vì những đau đớn vô biên mà người tù chính trị Côn Đảo vừa trải qua, thì ông lại một lần nữa bàng hoàng kinh ngạc vì lòng nhân ái vượt lên trên nỗi đau khổ của họ. Họ không than thân, không oán trách, không thù hận mà khẩn thiết đòi trả tự do cho hàng ngàn người khác còn đang bị giam cầm tại địa ngục Côn Đảo.

Sự khâm phục của vị giáo sĩ đã bật lên thành lời khi ông ký vào bản Tuyên bố báo chí ngày 26-4-1973 cùng Linh mục Robert Manning (dòng Tên) và Giáo sư Tiến sĩ Georges Label (Đại học Québec, Canada). Cả ba ông được Ủy ban Quốc tê vận động trả tự do cho tù chính trị ở miền Nam Việt Nam cử đến Sài Gòn ngày 19-4-1973 đế xem xét tại chỗ vấn đề tù chính trị. Tuyên bố báo chí có đoạn xúc động, thành tâm, tự đáy lòng các ông, về những người tù tàn phế mà các ông đã tận mắt mục kích:

“Chúng tôi đã gặp một số tù chính trị vừa mới được chính quyền Sài Gòn thả ra. Họ đều thành tàn phế, tất cả. Chế độ lao tù ở miền Nam Việt Nam thật là bất nhân.

Chúng tôi sẽ thông báo cho nhân dân Hoa Kỳ, đặc biệt là giới Kitô hữu được biết những gì hiện nay đang xảy ra ở miền Nam Việt Nam, nhân dân miền Nam Việt Nam đã đau khổ quá nhiều vì tại chúng tôi.

Các tù nhân chính trị phải được trả tự do ngay tức khắc và vô điều kiện.

Các tự do dân chủ phải được lập ngay tại miền Nam Việt Nam theo đúng điều 11 Hiệp định Paris.

Bao nhiêu lâu mà các tù nhân chiến tranh chưa được trả tự do, bao nhiêu lâu mà các quyền căn bản của con người không được nhìn nhận thì bấy lâu sẽ không có hòa bình và hòa giải, hòa hợp dân tộc ở miền Nam Việt Nam.

Phần của những người ở miền Nam Việt Nam là tranh đấu cho quyền sống của họ, còn phần chúng tôi, chúng tôi cam kết làm tất cả để chính phủ Hoa Kỳ không còn là nguồn gốc cho tai họa của họ”.

Cùng với việc phóng thích đơn phương những tù nhân đã bị hành hạ, đày ải đến tàn phế, ngụy quyền Sài Gòn ráo riết xúc tiến việc thanh lọc danh sách tù chính trị được gọi là “nhân viên dân sự” để trao trả cho Chính phủ Cách mạng lâm thời. Danh sách này do Nha cải huấn và Bộ Nội vụ ngụy thanh lọc trong số tù chính trị thuộc các Trung tâm cải huấn Chí Hòa, Tân Hiệp, Côn Sơn. Danh sách được lập, duyệt nhiều lần, đến ngày 13-3-1973 thì hoàn tất.

Vừa thanh lọc, ngụy quyền Sài Gòn vừa tiến hành các thủ đoạn ém giấu tù chính trị, chuyển tù chính trị thành thường án. Từ ngày 12-12-1972 đến 20-3-1973, ngụy quyền Sài Gòn đưa ra Côn Đảo 4 toán sĩ quan, mang danh là Toà án quân sự mặt trận lưu động Vùng 2 và Vùng 3 chiến thuật, xử những người tù chính trị không có tên trong danh sách trao trả thành thường án với các tội danh “phá rối trị an”, “gian nhân hiệp đảng”, “giữ vũ khí bất hợp pháp”… Chúng lập sẵn các bản án rồi cưỡng bức tù nhân ký và lăn tay, chụp hình dán vào. Ai một tội danh chúng xử một bản án, 2 tội danh xử 2 án… có người bị xử tới 10 án, tổng cộng 45 năm tù.

Lập xong bản án, chúng bắt đầu cưỡng bức lăn tay chụp hình, ký án và xé phòng dồn trại. Những người có tên trong danh sách trao trả được đưa về Trại II, Trại III, Trại V và Trại I. Số còn lại dồn về Trại IV, Trại VI, Trại VII và Trại VIII. Trung tá Nguyễn Văn Vệ, tên đao phủ khét tiêng trong nghề quản ngục được điều trở lại Côn Đảo để thực thi mưu đồ này. Theo lời khai của Vệ khi ra trình diện sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, Thủ tướng ngụy Trần Thiện Khiêm trực tiếp giao nhiệm vụ cho Vệ, bằng mọi giá phải thanh lọc được 4.075 tù nhân ở Côn Đảo có tên trong danh sách trao trả, tập trung về một nơi, số còn lại tách riêng và chuyển án thành thường phạm.

Vệ ra Côn Đáo nhận chức vào trung tuần tháng 3- 1973, cho mời đại diện tù chính trị các phòng giam, các trại giam ra thương lượng việc thanh lọc riêng số tù nhân có tên trong danh sách trao trả. Thái độ của tù chính trị lúc đó là kiên quyết đấu tranh đòi công bố Hiệp định Paris và Nghị định thư, đòi trao trả ngay, trao trả hết tù chính trị, đòi lập Ban đại diện từng trại tù, trực tiếp làm việc với Ủy ban liên hợp hai bên và đòi có sự giám sát của Ủy ban Quốc tế. Vệ hứa tất cả, nhưng không làm gì.

Cuối tháng 3-1973, Vệ bay về Sài Gòn, yết kiến Thủ tướng ngụy, xin cho dùng biện pháp mạnh. Được Thủ tướng ngụy đồng ý, Vệ qua Bộ Nội vụ xin yểm trợ 3 đại đội cảnh sát dã chiến, trang bị đầy đủ các phương tiện chống bạo động, cùng 16 nhân viên nghiệp vụ lăn tay chụp hình, bay ra Côn Đảo.

Tù chính trị cỏn Đảo đã đổ nhiều máu trong cuộc đấu tranh chống lăn tay chụp hình, đòi trao trả ngay, trao trả hết tù chính trị theo tinh thần Hiệp định Paris.

Chống lăn tay chụp hình, tráo án chính trị thành thường phạm

Nhờ có rađiô bí mật giấu trong phòng, tù chinh trị Côn Đảo ở các trại nắm được diễn biến cuộc đàm phán tại Hội nghị Paris và sớm có trong tay bản Hiệp định. Đêm 27-1-1973, tại Trại VI khu B, Đảng bộ Lưu Chí Hiếu chép được toàn văn Hiệp định Paris và các Nghị định thư qua bản tin đọc chậm của Đài tiếng nói Việt Nam. Đảng ủy họp bất thường để quyết định chủ trương trong tình hình mới:

1. Phát huy khí thế cách mạng của người chiến thắng, đấy mạnh đấu tranh đòi chính quyền miền Nam trao trà nhanh, trả hết tù chính trị cho Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng Hòa miền Nam Việt Nam, đòi thực hiện qui chế đối với tù chính trị theo đúng tinh thần và nội dung đã được ghi trong Nghị định thư.

2. Cảnh giác đề phòng âm mưu xé lẻ, thủ tiêu tù chính trị của địch, phát hiện những phần tử xấu mà địch cài cấy vào số được trao trả.

Đảng ủy còn bàn những biện pháp cụ thể như tổ chức viết danh sách tù chính trị làm nhiều bản, tìm cách gửi cho phái đoàn ta; may cờ Mặt trận, viết sẵn các bài về chế độ nhà tù để tổ chức mít tinh tố cáo địch ngay tại nơi trao trả; bố trí đảng viên lãnh đạo từng đợt trao trả trên đường về…

Đảng ủy củng cố lại tổ chức. Đồng chí Trịnh Văn Tư (Trịnh Văn Lâu, Tư Cẩn) làm Bí thư thay đồng chí Nguyễn Ngọc Cao có tên trong danh sách trao trả. Đồng chí Đào Văn Trân (Tư Thâu) được bổ sung vào Thường vụ. Ban điều hành và chi bộ các phòng đều được bồ sung, chân chỉnh.

Bộ phận đường dây Côn Đảo và tù chính trị ở các trại cùng chép được toàn văn Hiệp định Paris và Nghị định thư về trao trả tù chính trị. Trong khi ngụy quyền hết sức bưng bít tin tức và không công bố Hiệp định thì tù chính trị Côn Đảo lại công khai tổ chức học tập nội dung Hiệp định Paris và Nghị định thư, tuyên truyền ý nghĩa thắng lợi của Hiệp định, bàn bạc các chu trương đấu tranh.

Tập tài liệu Nhà lao Côn Đảo do những người có trách nhiệm vừa được trao trả về tổng hợp tại căn cứ của Trung ương Cục (1974) cho biết, Ban chỉ đạo các trại tù đã dựa vào các bài xã luận, tin tức của Đài tiếng nói Việt Nam phát động đợt học tập Hiệp định, Nghị định thư và tình hình nhiệm vụ mới:

– “(…) Toàn đảo đã nhất trí chủ trương phóng tay phát động cuộc đấu tranh trong nhà lao kết hợp với cuộc đấu tranh của cả nước và trên thế giới buộc địch phải thi hành nghiêm chỉnh Hiệp định Paris và Nghị định thư về việc trao trả, cụ thể nhằm vào các khẩu hiệu:

– Phải thông báo Nghị định thư về việc trao trả,

– Cải thiện chế độ đối xử, giam giữ và cấp dưỡng cho phù hợp, cụ thể: cơm ăn no, thức ăn đủ bữa, cấp phát quần áo, thuốc men đủ trị bệnh; chấm dứt mọi hành động đày ải, hành hạ, đánh dập, bắt bớ, tra tấn tù nhân; bãi bỏ khổ sai, chào cờ; giải toả biệt lập, biệt giam…

– Đòi phải trả nhanh, trả hết tù chính trị đúng theo Hiệp định và Nghị định thư về việc trao trá đã qui định, chống chiêu hồi, chiêu hàng, phóng thích đơn phương, chống xử tráo án, ém giấu lưu giữ.

– Đòi phải có phái đoàn quốc tế, Ủy ban liên hiệp và Hội hồng thập tự đến đảo để điều tra tù và chứng kiến việc di chuyển (đến nơi) trao trả”.

Cuộc đấu tranh diễn ra vô cùng ác liệt. Địch đàn áp đẫm máu với ý đồ phá hoại bằng được việc trao trả, ém giấu tù chính trị, chuyến tù án chính trị thành thường phạm. Ngày 14-4-1973, Bộ chỉ huy Cảnh sát Quốc gia ngụy tăng cường một Tiểu đoàn cảnh sát dã chiến trang bị mạnh, do đại úy Lê chỉ huy, không vận tới Côn Sơn, một bộ phận đóng tại Hí Viện (rạp hát), một bộ phận đóng tại Bộ chỉ huy cảnh sát quốc gia Côn Sơn. Quản đốc Nguyễn Văn Vệ giở mặt, bác bỏ mọi yêu sách của tù nhân. Vệ gửi tối hậu thư, yêu cầu tù nhân chấp hành lệnh lăn tay, chụp hình, dồn phòng, chuyển trại của Ban Quản đốc, nếu chống, hắn sẽ áp dụng biện pháp mạnh. Đương nhiên là các trại tù phản đối, và cuộc chiến bắt đầu.

Sáng 30-4-1973, Nguyễn Văn Vệ huy động Tiểu đoàn cảnh sát dã chiến mới được tăng cường (khoảng 400 tên) cùng lực lượng của Bộ chỉ huy cảnh sát quốc gia Côn Sơn (70 tên) và lực lượng của Ban 2 Đặc khu Côn Sơn (gần 100 tên), trật tự an ninh (300 tên) mở cuộc tiến công vào Trại I nhằm thanh lọc tất cả số tù nhân không có tên trong danh sách trao trả đưa về Trại VII. Chiến thuật của Vệ là dùng lựu đạn cay, phi tiễn bắn dồn dập vào từng phòng để dập tắt sức phản kháng của tù nhân rồi cho cảnh sát dã chiến và bọn trật tự xông vào đàn áp.

Tù chính trị chống trả bằng cách dùng khăn mặt thấm nước tiểu che mặt, nhặt lựu đạn cay ném ra ngoài và dùng tay không đánh trả khi bọn cảnh sát dã chiến xông vào. Phòng một và phòng 2 kiên cường chống địch từ sáng đến chiều, chịu trên trăm trái lựu đạn cay, đánh lui nhiều đợt tiến công của cảnh sát dã chiến, xế chiều, tất cả đều đã ngấm hơi độc, xỉu dần, trên 100 người bị thương tích nặng, 1 người chết sau đó vài ngày. Cảnh sát dã chiến mang mặt nạ phòng độc lôi từng người ra sân. Bọn trật tự an ninh nhận mặt tù nhân, đối chiếu với thẻ đính bài, lọc theo danh sách, đưa về Trại VII.

Sau khi phòng một và phòng 2 bị đàn áp đẫm máu, tù nhân phòng 3 đã rời vị trí chiến đấu, chấn nhận lệnh lăn tay, chụp hình, dồn phòng, chuyền trại. Trong tình hình bất lợi, phòng 4 phát loa yêu cầu Ban Quản đốc ngưng đàn áp để thương lượng.

Quản đốc Nguyễn Văn Vệ chấp nhận yêu sách của tù nhân, chữa trị cho những người bị thương, đưa những người có tên trong danh sách đến trại mới, trả lại mọi sinh hoạt bình thường. Các phòng còn lại của Trại I cũng thương lượng đạt kết quả như phòng 4.

Ngày 1-5-1973, Nguyễn Văn Vệ dàn trận tiến công Trại II. Lực lượng nữ tù chính trị bị giam ở đây đã chuẩn bị tinh thần và tổ chức lực lượng chống trả quyết liệt, song đến giờ chót, tình hình lại diễn ra giống như Trại I.

Đội ngũ kiên cường nhất trong cuộc đấu tranh chống lăn tay chụp hình là lực lượng tù chính trị câu lưu ở Trại VI khu B. Cuộc đàn áp dẫm máu nhất đã diễn ra tại đây.

Sáng 2-5-1973, tiểu đoàn cảnh sát dã chiến được vũ trang từ đầu đến chân cùng hàng trăm giám thị, trật tự dàn trận tiến vào Trại VI khu B. Quản đốc Nguyễn Văn Vệ ra lệnh tiến công 5 phòng dãy bên phải. Lực lượng tự vệ của tù nhân án ngữ phía trong cửa ra vào, dùng cây và sắt nhọn chốt các lỗ khóa và cột dây thép gai chặt lại. Toàn trại hô vang khẩu hiệu:

– Phản đối chính quyền Sài Gòn đàn áp tù chính trị.

– Yêu cầu anh em binh sĩ và trật tự không đàn áp tù nhân.

Nguyễn Văn Vệ mời đại diện tù nhân ra thương lượng, buộc đại diện phải kêu gọi toàn thể tù nhân phải chấp nhận lệnh ra khỏi phòng đế lăn tay, chụp hình và kí tên vào các bản án chúng đã làm sẵn. Trước mặt Quản đốc và gần ngàn tên ác ôn lăm lăm súng ông, hèo gậy trong tay, Tổng đại diện Hoàng Phùng dã cầm loa dõng dạc tuyên bô: “Nhà cầm quyền yêu cầu tôi kêu gọi anh em chấp nhận lệnh lăn tay, chụp hình. Tôi nói việc đó là do anh em quyết định!”.

Tiếng loa vừa dứt thì tiếng hô “phản đối!” “đả đảo!” từ 10 phòng nhất loạt vang lên. Đảng ủy Lưu Chí Hiếu đã phát động toàn trại kiên quyết chống thủ đoạn lăn tay, chụp hình, chuyển án của địch. Tổng Đại diện Hoàng Phùng bị đưa trớ về phòng 2. Cuộc tấn công bằng lựu đạn cay của cảnh sát dã chiến bắt đầu.

Mỗi phòng rộng hơn 100 mét vuông, chúng bắn bình quân 30 trái lựu đạn cay, có phòng chúng bắn tới 48 trái. Anh Hồ Chí Tặng và anh Nguyễn Kim Cúc chết ngạt vì hơi cay trong phòng. Anh Nguyễn Chính, tự vệ chiến đấu nầm gần cửa phòng bị một trái phi tiễn bắn trúng làm gẫy xương bả vai. Lực lượng tự vệ của tù nhân vừa dùng khản mặt thấm nước tiểu bịt mũi, miệng dể chống hơi cay, vừa chụp lựu đạn cay ném trả lại và bảo vệ cửa phòng.

Chừng 2 giờ sau thì tất cả đều ngất xỉu bởi ngấm hơi độc, nằm ngổn ngang trong khám. Bọn cảnh sát dã chiến mang mặt nạ phòng độc, xáp vào từng phòng, cạy những khúc cây, mẩu thép mà tù nhân chốt vào ổ khóa. Phòng nào không mở khóa được, chúng dùng cưa sắt cưa bỏ chốt khóa, kéo từng người quăng ra sân. Mấy chiếc xe GMC đã chờ sẵn. Hai tên trật tự đứng sau xe, đứa túm hai tay, đứa túm hai chân người tù, đu đưa lấy đà rồi quăng từng người lên thùng xe. Hai tên khác đứng trên thùng xe quăng tiếp vào phía trong, chất như những khúc củi, chở về Trại VII (chuồng cọp Mỹ), không cần biết ai chết, ai sống.

Riêng hai anh Nguyễn Kim Cúc và Hồ Chí Tặng đã tắt thở, Nguyễn Văn Vệ cho chôn cất ngay đế phi tang, đồng thời chỉ thị cho Trưởng ty Y tế lập chứng tử về một căn bệnh nan y, thay vì lựu đạn cay, hơi ngạt.

Buổi chiều ấy, phát hiện ra hai anh chưa dự cuộc lăn tay chụp hình, Phó quản đốc Nguyễn Phú Hội tức tốc điều một chiếc xe Jeep, đích thân đưa 2 nhân viên lăn tay chụp hình cùng một toán giám thị, trật tự lên nghĩa địa Hàng Dương, moi cát, dựng thi thể hai anh dậy để lăn những ngón tay đã chết cứng của người nằm dưới huyệt vào bản án mà chúng đã lập sẵn.

Vụ đàn áp man rợ này sau đó đã bị các tờ báo đối lập ở Sài Gòn phanh phui. Quản đốc Nguyễn Văn Vệ đã phải trả lời trước bọn quân cảnh tư pháp Bộ Nội vụ ngụy ra đảo điều tra về việc lăn tay những xác chết dưới huyệt.

Trong lúc thi thể Nguyễn Kim Cúc, Hồ Chí Tặng chưa yên phận dưới mồ thì máu tù nhân Trại VI khu B vẫn đổ. Chiều 2-5-1973, địch hốt số tù nhân từ phòng 1 đến phòng 4 của Trại VI khu B về Trại VII. Tại sân Trại VII, những người tù vừa tỉnh lại sau trận đàn áp bằng lựu đạn cay đã tiếp tục chống trả việc chuyển trại và hô vang các khẩu hiệu phản đối việc đàn áp man rợ của nhà tù.

Cảnh sát dã chiến và trật tự dùng dùi cui gậy gộc trấn áp cho đến khi tù nhân gục hẳn, chúng kéo lê họ vào trại mới. Anh Huỳnh Tấn Lợi bị đánh chết trong trường hợp như vậy. Tù chính trị Trại VII tổ chức ngay cuộc hô la phản đối ngụy quyền đàn áp tù nhân để chia lửa cho Trại VIB. Địch chia quân khủng bố luôn Trại VII. Anh Phạm Ngô 37 tuổi, quê ở Quảng Ngãi, tù án tử hình bị chúng đánh dập phổi chết.

Cuộc chiến đấu cuối cùng diễn ra vào lúc xế chiều. Từng người tù bị lôi ra trước những “toà án ma”. Mang danh Tòa án quân sự mặt trận lưu động nhưng không có chánh án, không luật sư, không công tố, không công lý mà chỉ có bạo lực và cưỡng bức. Địch bố trí nhiều bàn để thực hiện việc lăn tay, chụp hình và ký tên vào bản án làm sẵn, kỳ lạ đến mức không ai biết gì về tội trạng, án tiết của mình. Mỗi bàn có 2 tên làm nghiệp vụ lăn tay, chụp hình và 5 tên trật tự. Một tên ôm chặt toàn thân người tù. Tên thứ hai nắm một cánh tay bẻ quặt ra sau lưng. Tên thứ ba ôm chặt cánh tay còn lại. Tên thứ tư giữ cườm tay và tên thứ năm nắm chặt từng ngón tay người tù để tên cán bộ nghiệp vụ bôi mực và lăn tay lên bản án.

Người tù lặng lẽ chờ đến phút ấy, dồn hết sức lực, gồng mình, xịch chéo ngón tay, bôi nhòe hết dấu. Bọn trật tự xúm lại đánh từng người cho đến nhừ tử rồi lặp lại từng động tác. Kết quả vẫn như trước. Hỏng cả bản án, chúng kéo người tù ra sân, đánh đập cho đến khi họ ngất lịm.

Trên 200 tù chính trị câu lưu thuộc 4 phòng (1, 2, 3 4), đã chống trả quyết liệt gần ngàn tên ác ôn với đầy đủ phương tiện khủng bố, không ai chịu ký án. Các bản lăn tay bằng cách cưỡng bức, chỉ để lại những vết mực nhòe nhẹt, lem luốc.

Ba ngày sau, Nguyễn Văn Vệ đưa quân vào, tính làm nốt 6 phòng còn lại của Trại VI B. Vệ cho đưa công xa đến, cho kéo dây kẹp điện vào các cửa sắt và dùng mỏ hàn phá cửa để uy hiếp tù nhân. Tù nhân các phòng hô la phản đôi rầm rầm. Đồng chí Trần Nga, Bí thư chi bộ phòng 7 tuyên bố với Nguyễn Văn Vệ:

– Chúng tôi không sợ chết đâu. Các ông cứ kẹp điện vào đi, tụi tôi nhào ra, điện giựt chết cho các ông coi liền.

Vệ đấu dịu, mời đại diện tù nhân ra thương lượng. Đồng chí Nguyễn Văn Mốt trong Ban đại diện tù nhân tuyên bô :

– Các ông muốn thương lượng phải trên tinh thần hình đẳng, tôn trọng Hiệp định Paris. Trước hết, các ông phải rút toàn hộ quân đội, cảnh sát và trật tự an ninh ra khỏi trại.

Biết không thể dùng bạo lực cường bức được, Vệ đành ra lệnh rút quân, thương lượng với tù nhân, đồng ý công bố Hiệp định Paris và Nghị định thư, đưa danh sách cho đại diện ta gọi những anh em có tên ra tập trung về nơi trao trả. Trên 130 tù câu lưu được trao trả trong đợt ấy.

Nhờ nguồn tài liệu do bộ phận Đường dây Côn Đảo chuyến về, Ủy ban Vận động cải thiện chế độ lao tù tại Sài Gòn và Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng Hòa miền Nam Việt Nam đã tố chức nhiều hoạt động đấu tranh chính trị và ngoại giao tố cáo Mỹ ngụy phá hoại Hiệp định Paris, đàn áp tù chính trị, hỗ trợ cho cuộc đấu tranh ở Côn Đảo. Nhiều tờ báo đối lập ở Sài Gòn cũng lên án chính quyền Nguyễn Văn Thiệu, ủng hộ cuộc đấu tranh của tù nhân. Tờ Đối Diện số 49, tháng 8- 1973 đã đăng danh sách 14 tù nhân chính trị chết trong các trận đàn áp từ 14-4-1973 đến 6-5-1973:

TT     Họ và tên       Tuổi       Quê quán     Ngày hy sinh
1Nguyễn Văn Tường1923Kiến Hòa14.4.1973
2Lê Thị Cúc1952Quảng Nam14.4.1973
3Nguyễn Văn Bảy49 tuổiVĩnh Long28.4.1973
4Trần Thị Thanh21 tuổiQuảng Nam30.4.1973
5Nguyễn Thị Hường23 tuổiĐịnh Tường2.5.1973
6Nguyền Kim Cúc1916Sài Gòn2.5.1973
7Hồ Chí Tặng1924Kiến Phong2.5.1973
8Trần Tùy1915Quảng Ngãi3.5.1973
9Trần Thị Sáu1950Sài Gòn4.5.1973
10Lê Thị Thanh24 tuổiSài Gòn5.5.1973
11Huỳnh Tấn Lợi5.5.1973
12Phạm Ngô37 tuổiQuáng Ngãi6.5.1973
13Nguyễn Văn Lợi1916Quảng Ngãi6.5.1973
14Phạm Xồi  6.6.1973

Phối hợp với Mặt trận ngoại giao

Nhằm mục tiêu đấu tranh đòi thi hành nghiêm chỉnh Hiệp định Paris và hỗ trợ cho cuộc đấu tranh của tù chính trị, Ủy ban Vận động cải thiện chế độ lao tù miền Nam Việt Nam đã ra lời kêu gọi Ủy ban Quốc tế kiểm soát và giám sát Hiệp định Paris tại Việt Nam can thiệp để trả tự do cho tù chính trị. Ủy ban được thành lập ngày 30-10-1970, đại diện cho 30 tổ chức, đoàn thể quần chúng ơ miền Nam Việt Nam, trong đó có nhiều giáo sư, thấm phán, luật sư, bác sĩ, kỹ sư, dân biểu, linh mục, Hòa thượng, sinh viên có tên tuổi.

Từ 1970 đến 1973, ủy ban đã có nhiều hoạt động hỗ trợ đắc lực cho cuộc đấu tranh của tù chính trị, trong đó có tù chính trị Côn Đảo. Khi biết tin Tống thống Nguyễn Văn Thiệu xuất ngoại xin Quốc hội Mỹ tăng viện trợ và bay sang Roma yết kiến Đức Giáo hoàng đế tranh thủ sự ủng hộ, Ủy ban đã gửi bức thư ngày 4-4- 1973 thỉnh cầu Đức Giáo hoàng không tiếp Nguyễn Văn Thiệu vì vụ “chuồng cọp Côn Đảo” bê bối và tráo trở trong việc trao trả 200.000 tù chính trị ở miền Nam Việt Nam. Cuộc gặp gỡ vẫn diễn ra, song vấn đề tù chính trị đã trở thành trọng tâm chính trong cuộc thảo luận giữa Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và Đức Giáo hoàng. Nguồn tin của Toà thánh cho biết, kết quả cuộc đôi thoại là bi đát.

Tại Quốc hội Mỹ, Thiệu cũng bị tiếp đón lạnh nhạt, bị từ chối đề nghị tăng ngân sách viện trợ, bị chất vấn về 200.000 tù chính trị và chuồng cọp Côn Đảo. Tổng thống Thiệu còn được đón tiếp bằng cà chua, trứng thối trên các đường phố ở Washington và 24 băng chất nổ đặt tại Toà đại sứ của ngụy quyền Sài Gòn ở Roma.

Trong các ngày 12, 13 và 14-4-1973, đại diện của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam cùng Ủy ban Vận động cải thiện chế độ lao tù đã đến Paris, dự Hội nghị vận động trả tự do cho tù chính trị ở miền Nam Việt Nam với sự tham gia của 97 tổ chức quốc gia và quốc tế. Các đại biểu xúc động và lo âu khi được Ủy ban Vận động cải thiện chế độ lao tù cung cấp tài liệu, tin tức, hình ảnh xác thực về việc bắt bớ, tra tấn, tù đày do tờ Tin tức lao tù phát hành tại miền Nam Việt Nam cùng danh sách những người bị bắt giữ mà không cần xét xử gì.

Một cuốn phim ngắn quay cảnh những tù nhân vừa thoát khỏi nhà tù Côn Đảo đang bò lết trên mặt đất, hai chân tê liệt vì bị còng lâu ngày trong chuồng cọp làm cho người ta liên tưởng đến những hình ảnh tàn bạo không phai mờ trong trại tập trung của Hítle. Những bức ảnh chụp bọn cảnh sát dã chiến mặc đồ rằn ri, tay cầm dùi cui, roi điện, đầu chụp mặt nạ phòng độc, tất cả đều được sản xuất tại Hoa Kỳ đứng giữa làn khói mờ mịt của lựu đạn cay và xác tù nằm ngổn ngang trong sân trại, chất đống trên thùng xe GMC đã đem lại cảm giác rùng rợn cho các đại biểu, giống như họ đang thấy cảnh bọn quỷ sứ hiện hình trên một địa ngục trần gian thật sự. Sau ba ngày thảo luận sôi nổi, Hội nghị đã cam kết mở một chiến dịch quốc tế đòi hỏi:

1. Trao trả càng sớm càng tốt mọi tù nhân chính trị đòi thuộc về Chính phủ Cách mạng lâm thời.

2. Trả tự do càng sớm càng tốt cho mọi tù nhân chính trị không đòi được thuộc một trong hai bên với sự chứng kiến của các nhân chứng có thẩm quyền (Ủy ban Quốc tế kiểm soát và giám sát, Hội Hổng thập tự Quốc gia và đại diện các tổ chức được chỉ định).

3. Chấm dứt mọi hành hạ và ngược đãi đối với tất cả tù nhân chính trị trong khi chờ đợi trao trả và phóng thích họ.

4. Chấm dứt mọi cuộc bắt bớ và mọi hành động đàn áp và trải ngược với Hiệp định Paris”.

Hội nghị đã cử một phái đoàn đến Việt Nam quan sát từ ngày 19-4-1973 đến ngày 1-5-1973 gồm:

– Giảm mục Bélanger, địa phận Valleyfield (Québec).

– Bà Thelma Balaer, Hội ddồng các giáo phái tại Canada.

– Ồng Georges Lebel, Tiến sĩ giáo sư Đại học Québec.

Cùng đi có Giám mục Thomas Gumbleton, Giám mục địa phận Detroit Mỹ và linh mục Robert Manning (dòng Tên). Trong Bản tường trình ngày 1-5-1973 do Georges Lebel soạn thảo, phái đoàn quan sát đã khẳng định rằng ở Nam Việt Nam có tù chính trị. Tuyên bố vạch rõ tính phi pháp của các Toà án Quân sự mặt trận với con số 27.000 người đang bị giam giữ do các toà án này kết án (đã được kiểm chứng). Tuyên bố còn cho biết có một số đông tù nhân bị tạm giam và cho đến nay vẫn chưa xét xử gì; số đông những người khác bị câu lưu hành chính với thời hạn tối đa là 2 năm nhưng cũng có thể tiếp tục bị gia hạn. Phái đoàn quan sát ước định có ít nhất là 30.000 tù chính trị thuộc loại câu lưu hành chánh đã bị giam giữ tại các Trung tâm cải huấn lớn trực thuộc chính quyền Sài Gòn, chưa kể đến nhà tù ở các tỉnh, huyện và vạch rõ thủ đoạn chuyển tù chính trị thành thường phạm tại Trung tâm Cải huấn Côn Sơn.

Phối hợp với các hoạt động của phái đoàn quan sát Quốc tế do Hội nghị vận động trả tự do cho tù chính trị cử đến miền Nam Việt Nam, Ủy ban vận động cải thiện chế độ lao tù tại Sài Gòn đã cung cấp nhiều tin tức, tài liệu. Bằng những tài liệu xác thực thu thập được trong thời gian đó, đặc biệt là nguồn tài liệu từ Nhà tù Côn Đảo gửi về, ngày 30-6-1973, Ủy ban đã gửi thư cho: Chủ tịch Thượng nghị viện Sài Gòn, Đức Tăng thống Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất (Sài Gòn), Chủ tịch Ủy ban Quốc tế kiểm soát và giám sát. Bức thư cho biết:

“Sau ngày ký Hiệp định Paris 27-1-1973, giới hữu trách chỉ cho tù ăn khẩu phần 40 đồng một ngày gồm 400 gram gạo và nửa con mắm sặc, không có một chút rau, bệnh không có thuốc, không thông báo cho tù chính trị nội dung Hiệp định Paris mà còn bắt tù nhân ký giấy chiêu hồi. Nhà cầm quyền đổi tù nhân từ trại này qua trại khác, đem giam họ ở những nơi bí mật để khỏi trao trả, tiếp tục các hình phạt biệt lập, biệt giam, kềm kẹp, cấm cố triền miên.

Sáng 29-4-1973, một đại đội cảnh sát dã chiến được lệnh ném lựu đạn cay đàn áp, xúc 34 anh em tử hình ở phòng 11 Trại II và 200 chị em phụ nữ, có 16 em bé ở phòng 8 và phòng 9 của Trại II đưa đi nhốt ở chuồng cọp mới, viện lý do là những người này không có tên trong danh sách trao trả nên phải chuyển đi trại khác.

Ngày 1-5-1973, đàn áp Trại VII bắt tù nhân phải dời trại với lý do là không có tên trong danh sách trao trả. Trong trận đàn áp này, có phòng phái chịu hơn 30 quả lựu đạn cay, nồng độ cao (…). Ngày 2-5-1973, đàn áp Trại VI khu A và khu B, có 2 tù chính trị chết tại chỗ là:

1. Nguyễn Kim Cúc sinh năm 1916 tại Sài Gòn, mang sô đính bài HC 12.860, Đại diện phòng 3, chết lúc 12 giờ ngày 2.5.1973.

2. Hồ Chí Tặng sinh năm 1924 tại Kiến Phong, ở phòng 5, chết lúc 15 giờ cùng ngày.

Những người chịu trách nhiệm trực tiếp các cuộc đàn áp trên là trung tá Nguyễn Văn Vệ – Quản đốc và Chín Khương – Phó Quản đốc trại giam Côn Sơn. Hai người này đã bị dư luận quốc nội và quốc ngoại nguyền rủa và bị nhà cầm quyền chuyển đi hồi 1970 vì vai trò của họ tại Côn Sơn khi chuồng cọp bị phát giác. Từ tháng 4.1973, nhà cầm quyền lại ngang nhiên bất chấp dư luận, đưa họ trở về Côn Sơn để đàn áp tù nhân chính trị.

Nghĩ rằng chúng tôi cùng các quí vị đều có trách nhiệm về những cải chết thê thảm ở Côn Sơn. Trước nỗi thống khổ của tù chính trị hiện nay, chúng tôi mong rằng quí vị sẽ không im lặng”.

Đấu tranh đòi trao trả tù chính trị

Trước sức ép của dư luận, ngụy quyền Sài Gòn tìm mọi cách ém giấu tù chính trị. Chiếu công điện số 53 (14-2-1973) của Giám đốc Nha cải huấn ngụy, tất cả các danh sách tù nhân từ Côn Đảo gửi về đều không sử dụng các danh từ can phạm cộng sản, can phạm chính trị nữa mà gọi chung là can phạm đặc biệt, được chia thành hai loại:

– Thường phạm can án (đã ra toà).

– Thường phạm can cứu (chưa ra toà).

Ngoài danh sách chính thức đế trao trả cho Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam như đã công bố, nhà lao Côn Đảo còn nhận lệnh của Nha cải huấn lập danh sách khác:

– Danh sách tất cả tù nhân án tử hình.

– Danh sách tất cả tù nhân án chung thăn.

– Danh sách toàn bộ số tù câu lưu đưa ra kêu án chính trị trong các phiên toà ngày 12 tháng 12 và ngày 28 tháng 12 năm 1972.

Các mục lập giống như danh sách đợt I. Hàng ngày Nha cải huấn gọi điện trực tiếp cho Quản đốc nhà tù, đọc tên từng người tù yêu cầu xác nhận xem có ở Côn Đảo không, nếu có thì cho biết số đính bài, hạnh kiểm. Danh sách bổ túc này khoảng 500 người, phần lớn có tên trong danh sách trao trả. Cùng lúc với danh sách bổ túc, Nha cải huấn lại yêu cầu Côn Sơn lập danh sách trên 2.000 tù nhân do Ủy ban Phật giáo vận động phóng thích tù nhân đưa ra. Danh sách này có cả tù án, tù câu lưu chính trị, có cả một số nhân vật quan trọng không phải Phật giáo như Vũ Ngọc Nhạ, Huỳnh Văn Trọng, Trần Ngọc Hiền (thuộc lưới tình báo chiến lược A.22)…

Ngụy quyền Sài Gòn đặc biệt quan tâm danh sách này. Chúng biệt phái một toán cảnh sát từ Sài Gòn ra phối hợp với Trung tâm cải huấn Côn Sơn truy lục hồ sơ từng người, chia thành 2 loại: có tên trong danh sách trao trả và không có tên trong danh sách trao trả, ghi vào sổ riêng dấu tích đặc biệt của từng người, đánh máy thành 2 bản, một đem về, một lưu lại Côn Sơn.

Những tù nhân nằm ngoài danh sách trao trả chính thức mà ngụy quyền đưa vào các danh sách bổ túc sau này hầu hết là do các tổ chức thuộc Ủy ban vận động cải thiện chế độ lao tù đưa ra đấu tranh đòi trao trả. Trong trường hợp những người tù được các tố chức này đưa ra mà không có tên trong danh sách trao trả thì ngụy quyền tìm cách chuyển trại, ém giấu hoặc lén lút chở ngay về các tỉnh, phóng thích đơn phương.

Ngày 20-5-1973, thiếu tá Thái Văn Thượng, Đặc phái viên của Nha cải huấn ngụy bay ra Côn Đảo, làm việc với Quản đốc Nguyễn Văn Vệ và cho không vận về Sài Gòn 232 tù chính trị theo những danh sách riêng. Chúng tách 20 người chuyến tiếp đi Plâyku, 30 người đi Kon Tum, số còn lại giam ở Tân Hiệp (Biên Hoà).

Tháng 11-1973, Nha cải huấn và Bộ Nội vụ ngụy lại cử một toán nhân viên ra Côn Đảo nhận 39 tù chính trị thuộc các tính Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận không vận thẳng về Nha Trang, đơn phương phóng thích. Những người có tên trong danh sách trao trả được đưa về trại Hố Nai (Biên Hòa). Tại đây, ngụy quyền làm các thủ tục trao trả và tiến hành các hoạt động tâm lý chiến, chiêu hồi với âm mưu tổ chức một số tên tù tay sai thành đội ngũ chiêu hồi, chiêu hàng trong danh sách trao trả. Bọn này có nhiệm vụ tố cáo chế độ cộng sản tại nơi trao trả và xin “tìm tự do” dưới chế độ Việt Nam cộng hòa.

5.081 nhân viên dân sự trong danh sách chính thức được trao trả cho Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tại sân bay Lộc Ninh làm ba đợt:

– Đợt I: 750 người, từ ngày 28.4 đến 24-5-1973

– Đợt II: 825 người, từ ngày 23.6 đến 24-7-1973

– Đợt III: 3.506 người, từ ngày 8.2 đến 7-3-1974

Bằng các thủ đoạn cài số thường phạm, quân phạm, trật tự, cầu an, đầu hàng vào danh sách trao trả, ngụy quyền Sài Gòn đã “vận động” được 211 tên chiêu hồi, xin “tìm tự do” dưới chế độ Việt Nam cộng hòa trong ba đợt trao trả.

Việc đấu tranh thực hiện trao trả 5.081 nhân viên dân sự, trong đó có 4.075 người ở Côn Đảo là một bước thắng lợi của tù chính trị. Số người còn ở lại tiếp tục cuộc đấu tranh trên cơ sở pháp lý Hiệp định Paris, đòi trao trả hết tù chính trị, trong lúc chờ đợi, phải cải thiện đời sống, thực hiện chế độ tù chính trị. Địch nhượng bộ có mức độ, giải quyết yêu sách nhỏ giọt, hạn chế, song chúng không đàn áp quyết liệt như trước nữa.

Mục tiêu cơ bản của chúng là ém giấu tù chính trị, chuyển án thành thường phạm đã làm xong. Những người tù chính trị không được trao trả đã củng cố lực lượng, phát triển nhiều hình thức đấu tranh và tích cực chuẩn bị cho ngày giải phóng mà họ biết chắc chắn rằng không còn xa nữa.

Củng cố lực lượng, chuẩn bị đón thời cơ

Trong hai năm 1973 và 1974, Mỹ – ngụy vẫn tiếp tục lưu đày nhiều chuyến tù chính trị ra Côn Đảo. Theo sự chỉ đạo của Bộ Nội vụ và Nha cải huấn ngụy, tù chính trị bị giam giữ tại các Trung tâm Cải huấn đều được gọi là “can phạm phá rối trật tự trị an”. Hàng ngàn người không có chứng cứ phạm tội, chưa từng ra toà lần nào cũng bị gán cho những bản án như vậy. Theo một bản báo cáo của tù chính trị Côn Đảo gửi cho Trung ương Cục miền Nam, tính đến ngày 19-7-1973, địch đã chuyển 2.201 tù chính trị thành án “gian nhân hiệp đảng”.

Nhằm tạo giải pháp thiết thực phòng thủ Côn Đảo, từ năm 1974, ngụy quyền Sài Gòn chuyển cơ sở hành chánh Côn Sơn trực thuộc chính quyền Trung ương thành thị xã Phú Hải trực thuộc tỉnh Gia Định. Trung tâm cải huấn Côn Sơn đổi thành Trung tâm cải huấn Phú Hải. Các trại giam cùng được đổi tên thành Phú Hải, Phú Sơn, Phú Hưng, Phú Thịnh, Phú Phong, Phú Tường…

Những người tù chính trị Côn Đảo hiểu rất rõ bản chất ngoan cố của ngụy quyền Sài Gòn. Trong lúc tận dụng yêu tố pháp lý cua Hiệp định Paris đế đấu tranh giành lợi thế cho mình và lên án sự phi pháp của kẻ thù trước dư luận, những người tù chính trị Côn Đảo vẫn tích cực chuẩn bị những điều kiện tự giải phóng cho mình khi có thời cơ thuận lợi.

Thời gian này, các tổ chức trong nước và quốc tế đã lên tiếng mạnh mẽ, ủng hộ cả vật chất và tinh thần cho cuộc đấu tranh của tù chính trị Côn Đảo. Chị Trần Thị Ngọc Sương, cán bộ phụ vận của Thành ủy Sài Gòn – Gia Định đã tổ chức được một tổ nòng cốt trong số công chức làm việc ở Bưu điện Sài Gòn hết lòng giúp các thân nhân và các tổ chức thuộc Ủy ban Vận động cải thiện chế độ lao tù gửi bưu phẩm cho tù chính trị Côn Đảo. Chị Sương đã vận động một cốt cán ra làm Trưởng ty Bưu điện Côn Đảo, tạo điều kiện thuận lợi cho tù chính trị nhận bưu phẩm và chuyển giúp thư từ, danh sách tù chính trị về đất liền.

Theo một bản tổng kết của tổ chức này, từ 1969 đến 1974, cơ sở nòng cốt của Bưu diện Sài Gòn đã chuyển trên 3.000 gói bưu kiện cho tù chính trị Côn Đảo. Tháng 7 năm 1973, Nguyễn Đình Tào, một sinh viên trẻ ở Sài Gòn, bị giam tại Trại VI khu B đã nhận được một thùng quà của một người bạn Hà Lan chưa quen biết. Một vài chữ trên thùng đã mờ, nhưng còn đọc được:

FROM: (…) MORRIS 12 (…) AREENLAND

HOLLAND

TO: Nguyễn Đình Tào

Phòng 2 – trại 6b – Côn Đảo, SOUTH VIETNAM

Trong thùng có một bánh xà phòng thơm của Pháp; hai gói thuôc lá thơm của Anh kèm một ống đót giả ngà; một ống vố (tẩu) bằng cùi bắp kèm một gói Half and Half của Mỹ; còn lại là thực phẩm đóng hộp gồm: Thịt heo của Liên Xô, patê của Bỉ, thịt hầm đậu của Hà Lan, thịt cừu của úc, dứa hộp của Côte D lvoire (Châu Phi).

Tất cả sản phẩm của 8 nước thuộc 5 Châu: Ảu – Á- Mỹ – Phi – Úc của người bạn từ vạn dặm gửi tới được Nguyễn Đình Tào trao lại cho Ban điều hành của tù chính trị Trại VI khu B. Ban điều hành và anh em quản lý các phòng, đã bàn bạc để chia đều món quà đầy tình nghĩa quốc tế cho toàn bộ trên 800 tù chính trị Trại VI khu B. Bánh xà phòng được giao cho bệnh xá để tắm gội cho anh em bệnh tật; ba gói thuốc bóc ra chia đều cho 10 phòng, mỗi phòng 6 điếu, mỗi người nghiện được rít một hơi, thực phẩm các loại khoảng 1,5 ki-lô-gam được mở ra trộn đều và chia cho mỗi phòng được hơn nửa chén ăn cơm, hơn 80 người cùng thưởng thức.

Thức ăn, thuốc hút chỉ sau bữa chiều đã hết sạch, chỉ có mối tình của người bạn từ vạn dặm là còn đọng mãi trong trái tim những người tù chính trị Côn Đảo. Từng mảnh thùng carton, từng mảnh lon đồ hộp được anh em tù chính trị chia nhau, cắt mài thành những đồ lưu niệm.

Cùng thời gian ấy, anh Trịnh Minh Bách, số tù 19.282 ở Trại VI khu B Côn Đảo cũng nhận được một tấm bưu thiếp của một người bạn Hà Lan khác, là Willem Van Gelder ở Tusveld 31 Bornerbroek (Hà Lan) với lời cổ vũ thật cảm động của một trái tim thân thương và tha thiết (đánh máy trên bưu thiếp, bằng tiếng Việt):

Bạn thân mến,

Chúng tôi đang vận động để giúp anh. Vậy anh nên vững lòng và giữ vững tinh thần. Và ngày kia, chúng tôi có thể được tin anh được tự do.

Wiỉlem Van Geỉder, Tusveld 31, Boruc broek (Hà Lan).

Những dòng chữ ngắn ngủi cùng những món quà không lớn ấy lại có sức cổ vũ phi thường. Mỗi người tù chính trị Côn Đảo tự thấy cuộc đấu tranh chính nghĩa của mình đang sống giữa những dòng thác cách mạng của thời dại, đang đấu tranh cho độc lập tự do và chủ nghĩa xã hội, vì tiến bộ và nhân văn của loài người. Tập san Xây Dựng, tiếng nói của tù chính trị Trại VI khu B, số đặc biệt kỷ niệm Quốc khánh 2-9-1973 đã in bài thơ cứa Nguyễn Đằng và bản nhạc Mối tình vạn dặm của Bùi Văn Toản nói lên niềm tự hào và vững tin của những người tù Côn Đảo trước tấm lòng nhân ái bao la của những người bạn Năm châu. Cho đến những ngày gần đây, trong những dịp họp mặt, gặp nhau, những người tù chính trị Côn Đảo vẫn nhắc: MORRIS – WILLEM VAN GELDER, giờ này, các anh ở đâu?

Năm 1974, các cuộc đấu tranh của tù nhân Côn Đảo tăng nhiều so với năm 1973. Công văn số 449/TTCH/CS/AN/TK ngày 27-6-1974 về tình hình an ninh Trưng tâm cải huấn cho biết, năm 1973 có 127 vụ vi phạm nội quy, 84 vụ gây rối, trong khi đó, chỉ tính từ 1-1-1974 đến 26-6-1974 đã có 112 vụ vi phạm nội quy và 57 vụ gây rối.

Công văn số 449/TTCH/CS/CM/M/TK ngày 20-7- 1974 của Ban chuyên môn đã khẩn cấp phúc trình Quản đốc nhà tù về tình hình an ninh như sau: “Liên tiếp trong 2 ngày 17 và 18-7-1974, sô can cứu chống đối Trại Vỉ đã tuần tự từng phòng hô la. Số can cứu thuộc Trại VII khu D đồng thanh hưởng ứng Trại VI hô la các khẩu hiệu”.

Quản đốc nhà tù khẩn cấp triệu tập nhiều cuộc họp bàn giải pháp đảm bảo an ninh cho trung tâm. Ngày 14- 8-1974, Bộ chỉ huy cảnh sát quốc gia Côn Sơn đã ban hành lệnh cấm trại 100% nhân số và gửi công điện sô 1506/CSQG/CS/HQ thông báo cho các phòng ban trực thuộc, cho Bộ chỉ huy cảnh sát quốc gia yếu khu Cỏ Ống, Bến Đầm và trung đội cảnh sát dã chiến tăng phái đế thực hiện.

Trong một tài liệu khác mang tên Biên bản ghi nhận các cuộc xách động, gây rối, chống đối của các can phạm thụ huấn tại Côn Sơn ngày 7-2-1975, Trung tá Lâm Hữu Phương, tên chúa đảo cuối cùng đã ghi nhận:

“Từ đầu tháng 1 đến cuối tháng 12-1974 có tất cả 149 vụ chống đối, xách động và gây rối của các can phạm dưới các hình thức: Hô la tập thể, đòi nhà cầm quyền phái cung cấp đầy đủ lương thực, thuốc men; tụ họp học tập, đọc thông báo yêu cầu Chính phủ Việt Nam cộng hòa phái tôn trọng Hiệp định Paris, đòi phải trao trả tứckhắc cho tất cả số can phạm còn (bị) giam giữ, ca hát những bài ca cộng sán, xuyên tạc quân đội Việt Nam cộng hòa và đồng minh, hô khẩu hiệu đề cao cộng sản”.

Cũng trong biên bản trên, chúng ghi nhận: “Riêng trong tháng 1-1975 đã có 11 vụ hô la, chống đối, xách động với các hình thức tương tự như trên (…) Đặc biệt dã có 12 vụ khám phá các nơi chôn giấu, tịch thu một sô tài liệu, bài ca cộng sản, cờ Mặt trận Giải phóng miền Nam và một sô vật dụng khác như: một rađiô 2 băng, một đồng hồ chạy nước, 23 cây sắt nhọn, 50 con dao lớn nhọn, một số dao găm làm bằng cây, một số đồ kịch nghệ, 9 súng AK, 8 súng M16, 15 súng lục, 3 máy điện thoại có ống liên hợp, cần ăng ten, lựu đạn, bêta, mã tấu, kềm cắt, tất cả đểu bàng gỗ, dây điện và một sô vật dụng linh tinh tại Phú Tường, Phú Phong, Phú An, Phú Bình và Phú Hưng” (tức Trại I, Trại V, Trại VI và Trại VII).

Quản đốc Lâm Hữu Phương ráo riết chỉ đạo tăng cường các biện pháp phòng, thủ, sắp đặt phương án chống bạo động, tố chức lục soát các phòng giam, truy tìm tài liệu, vũ khí và tiếp tục thanh lọc số tù chính trị thuộc “đối tượng nguy hiểm” đưa biệt giam tại chuồng cọp Mỹ (Trại VII).

Địch phán đoán đúng. Qua những bức thư của Trung ương Cục từ năm 1970, 1971 và 1972, tù chính trị Côn Đảo đã nắm được chủ trương chiến lược của Đảng ta là “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào” và kết thúc chiến tranh bằng một cuộc tổng tiến công và nổi dậy. ở một số trại, tù chính trị đà xây dựng tự vệ bí mật, tự tạo vũ khí, tổ chức lực lượng đề sẵn sàng nổi dậy khi có thời cơ thuận lợi.

Những vũ khí bằng sắt và bằng gỗ mà địch thu được như đã báo cáo đều là một phần trong sự chuẩn bị nổi dậy của tù chính trị. Đảng bộ của tù chính trị câu lưu mang tên Lưu Chí Hiếu được thành lập ở Trại VI khu B còn chỉ đạo lực lượng tự vệ bí mật dùng giẻ thấm nước muối siết các chấn song cửa sổ cho mòn dần và dùng sắt nhọn soi từng mảng tường trại giam, sau đó quết cơm nguội với tro bếp trét lại để khi có thời cơ sè bẻ song, đạp tường giải thoát.

Bản tài liệu “Sơ kết tình hình Nhà lao Côn Đảo” do Ban An ninh Trung ương Cục thực hiện cho biết, trong nhiều bức thư chỉ đạo từ năm 1969 đến 1973, Trung ương Cục đã trang bị cho tù chính trị tư tưởng tự giải phóng. Bức thư tháng 4-1969 có đoạn xác định chủ trương đấu tranh trong tù: “Đẩy mạnh đấu tranh dân sinh dân chủ, tập hợp rộng rãi quần chúng tham gia, lôi kéo những ai có thể tham gia được, duy trì, giữ vững, không ngừng nâng cao phong trào, có liên tục đấu tranh mới bảo vệ được thanh danh, khí tiết đảng viên. Ra sức xây dựng thực lực nhầm đảm bảo yêu cầu hiện nay, đồng thời sẵn sàng để tự giải thoát thoát mình khi có thời cơ thuận lợi sau này”.

Chủ trương này đã được Đảng ủy Trại III vận dụng như sau: “Đẩy mạnh đấu tranh dân sinh dân chủ làm đòn xeo, mở rộng dân chủ để tạo thế. Qua đấu tranh, ra sức xây dựng thực lực, đưa phong trào tiến lên theo phương hướng chống chào cờ, chống khổ sai tập thể, đòi quyền tự quản trị, đòi trả tự do, đồng thời sẵn sàng tự giải thoát mình khi có điều kiện”.

Nhờ có rađiô, tù chính trị Côn Đảo ở nhiều trại đã theo dõi sát tình hình chiến sự từ cuối năm 1974 cho đến đầu năm 1975. Tin tỉnh Phước Long hoàn toàn giải phóng (1-1975) làm nức lòng tù chính trị. Đảng ủy Lưu Chí Hiếu nhận định cuộc tiến công quyết định của quân và dân ta đã bắt đầu.

Giải phóng Nhà tù Côn Đảo

Tháng 3-1975, khi chiến dịch Tây Nguyên mở màn cho cuộc Tống tiến công mùa xuân 1975 thì Mỹ – ngụy tăng cường phòng thủ Côn Đảo. Chúng sửa lại con đường từ thị trấn qua Hàng Dương lên Sở Tiêu. Từ con đường bọc sau lưng suốt 8 trại này, địch mở thêm 2 nhánh nữa, một nhánh chạy thẳng vào khu vực Trại VI, Trai VII, Trại VIII, một nhánh vào khu vực Trại I, Trại IV, Trại V. Với hệ thống dường này, địch có thể khống chế các trại từ phía chân núi. Trong trường hợp tù nhân nổi dậy, chúng có thế cơ động lực lượng và bố trí hỏa lực đàn áp, hất lực lượng nổi dậy ra phía biển và nhanh chóng tiêu diệt.

Tháng 4-1975, Nhà tù Côn Đảo có 7.448 tù nhân, trong đó có 4.234 tù chính trị (494 phụ nữ), còn 3.214 là tù thường phạm, quân phạm. Trong số 4.234 tù chính trị, có 2.488 người đang chịu chế độ cấm cố ở Trại I, Trại V, Trại VI và Trại VII. Những người này đã chống chào cờ ngụy, chống học tố cộng, chống nội quy nhà tù từ nhiều năm trước, 1.746 người còn lại chịu làm khổ sai chung với tù thường phạm ở Trại II và Trại III.

Bộ máy kìm kẹp của địch gồm một tiểu đoàn bảo an (khoảng trên 500 tên), một Đại đội cảnh sát (gần 100 tên), 89 giám thị, 130 công chức và gần 1.000 trật tự an ninh được tuyển chọn trong số tù thường phạm, quân phạm lưu manh nhất, tất cả khoảng 2.000 tên. Như vậy, cứ hơn 2 tù chính trị thì có một tên trong bộ máy kìm kẹp. Đó là chưa kế đến hệ thống trại giam kiên cố, hệ thống khu kỷ luật với 20 hầm đá (Trại II), 14 xà lim (Trại III), 31 phòng biệt giam (chuồng bò) 384 chuồng cọp Mỹ (Trại VII) và một số xà lim, hầm tối ở Trại I, Trại V và Trại VI (chuồng cọp Pháp đã bị phá bỏ từ năm 1970); cũng chưa kể đến nội quy khắc nghiệt của nhà tù, sẵn sàng cấm cố biệt lập tất cả những ai chống đối.

Trước ngày giải phóng, 58,7% tù chính trị đang ở trong các trại cấm cố. Hiếm có một nơi nào trong đất liền lại có điều kiện bảo vệ an ninh cho ngụy quyền như vậy.

Ngày 29-4-1975, trong khi quân giải phóng tiến vào Sài Gòn, ở Côn Đảo các trại tù cấm cố bị canh gác chặt chẽ. Bọn gác ngục, trật tự, an ninh lầm lì. Một sự im lặng, căng thẳng đáng sợ bao trùm. Bầu trời Côn Đảo náo loạn bởi các chuyến bay quân sự các loại lên xuống sân bay Cỏ Ông chở quân tướng Mỹ, ngụy di tản. Canô, tàu há mồm cặp bãi Cỏ Ống, chuyển tiếp ra các tàu đón người di tản đang đậu ngoài khơi.

16 giờ 30 phút, bọn cố vấn Mỹ đóng ở Côn Đảo rút chạy. Đêm ấy chúa đảo Lâm Hữu Phương tự lái xe chở vợ con qua chi khu Bến Đầm, bí mật xuồng ca nô trốn ra tàu di tản, bỏ lại cả phương án tử thủ Côn Đảo và lũ tay chân đang hoang mang nhốn nháo.

Sáng 30 tháng 4 năm 1975, đại úy Phạm Huỳnh Trung – Chỉ huy phó Đặc khu Côn Sơn triệu tập một cuộc họp liên tịch giữa các sĩ quan và công chức có quyền thế trên đảo, cùng đám gác ngục ác ôn nhất như Lê Văn Khương, Đồ Văn Phục… Chúng quyết định khóa chặt tất cả các phòng giam, bố phòng nghiêm ngặt trong, ngoài lao, tổ chức di tản ra tàu bằng mọi phương tiện trên đảo và âm mưu thủ tiêu toàn bộ tù chính trị bằng lựu đạn vào giờ chót.

Nhưng cách mạng đã chặn bàn tay khát máu, không để lũ quỷ dữ kịp thực hiện tội ác cuối cùng. Kế hoạch di tản và thủ tiêu tù chính trị vừa bàn ngớt miệng thì cơn bão táp cách mạng ập đến. Tin Dương Van Minh đầu hàng, thành phố Sài Gòn hoàn toàn giải phóng như tiếng sét đánh ngang tai làm chúng rụng rời chân tay, kinh hoàng tháo chạy. Cuộc di tản hỗn loạn trên đảo kéo dài đến nửa đêm.

Trong khi đó linh mục Phạm Gia Thụy tích cực vận động giáo dân trong họ đạo Côn Sơn không di tản, ở lại giúp tù chính trị giải thoát khỏi ngục tù. Đại úy Kiều Văn Dậu, Trưởng ban 3 (hành quân – tác chiến) Đặc khu Côn Sơn ở lại cùng 49 binh sĩ bảo an. Số binh sĩ này đã góp phần bảo vệ an ninh trên đảo trong phút giao thời. Linh mục Phạm Gia Thụy bàn bạc với Kiều Văn Dậu và một số công chức về việc mở của nhà lao giải thoát cho tù chính trị. Tù chính trị bị cấm cố và bị bỏ đói suốt ngày 30-4-1975.

Bằng nhiều nguồn tin, anh em đều phán đoán trong đất liền có biến động lớn, nhưng chưa biết là Sài Gòn đã được giải phóng. Ban lãnh đạo các khu của Trại VII quyết định tổ chức kỷ niệm trọng thể ngày Quốc tế Lao động (1-5) để phát huy uy thế của tù chính trị đồng thời thăm dò phản ứng của địch. Các trại khác cũng đều chuẩn bị làm lễ kỷ niệm.

Vào lúc 23 giờ, khi các trại đang khẩn trương chuẩn bị khẩu hiệu, bài trí nơi làm lễ để sáng ra làm đồng loạt vào lúc kẻng tan nghiêm thì đại úy Kiều Văn Dậu cùng Trưởng ty Thanh niên Nguyễn Văn Đồng và anh Nguyễn Văn Sơn, nhân viên Hợp tác xã tiêu thụ Côn Đảo vào Trại VII. Họ mở phòng 24 khu H, gặp nhóm cán bộ quân báo để báo tin Dương Văn Minh đầu hàng, Sài Gòn được giải phóng, bọn ác ôn trên đảo đã bỏ chạy hết, bọn trật tự an ninh gốc thường án, quân phạm, lưu manh đang cướp bóc, gây rối loạn trên đảo. Nhóm binh sĩ, công chức yêu cầu anh em tù chính trị ra giải phóng Côn Đảo, duy trì trật tự an ninh và đảm bảo tính mạng, tài sản cho những người còn lại trên đảo.

Các đồng chí có trách nhiệm trong Khu H nhanh chóng hội ý và nhận định: Có thể Sài Gòn đã được giải phóng, cần tranh thủ thời cơ tự giải phóng cho mình, song cần hết sức cảnh giác âm mưu thủ tiêu tù chính trị của địch. Anh em yêu cầu nhóm công chức báo tin cho mượn rađiô để nghe tin tức và cử người ra ngoài trại để nắm tình hình.

Rađiô được mang tới, mọi người hồi hộp lắng nghe giọng nói thân thương của Đài tiếng nói Việt Nam phát bản tin Dương Văn Minh đầu hàng, thành phố Sài Gòn hoàn toàn được giải phóng, Ủy ban Quân quản Sài Gòn – Gia Định đã được thành lập và công bố 12 chính sách trong vùng mới giải phóng.

Ngay sau phút bàng hoàng vì sung sướng, những người có trách nhiệm ở Khu H quyết định hành động; chớp thời cơ giải phóng Côn Đảo. Lực lượng tù nhân giải phóng thu ngay khẩu súng cácbin và chùm chìa khóa Trại VII, người mở cửa, người phát loa thông báo cho các khu. Tiếng reo hò từ Khu H lan ra các khu Trại VII. Được tin Sài Gòn đã giải phóng, nhiều phòng chưa kịp mở khóa, anh em đã bẻ song, phá cửa, đạp tường ra. Lúc ấy là 1 giờ sáng ngày 1 tháng 5 năm 1975. Ba giờ sáng, cả 8 khu (A-B-C-D-E-F-G-H) của Trại VII hoàn toàn được giải phóng.

Các đồng chí có trách nhiệm ở Trại VII triệu tập ngay một cuộc họp và quyết định thành lập Đảo ủy lâm thời (gồm 7 người) đế lãnh đạo cuộc nổi dậy. Đồng chí Trịnh Văn Tư được cử làm Bí thư. Đồng chí Phan Huy Vân (Hai Tân) Phó Bí thư, đồng chí Mai Xuân Công là ủy viên thường vụ. Ban chấp hành còn có các đồng chí Nguyễn Nam (Hà), Lê Văn Triết (Đoàn Cao Hồng)… Đảo ủy lâm thời đề ra chương trình hành động, gồm 3 điểm chính:

– Cử người đi giải phóng các nhà lao, trước hết là lao phụ nữ.

– Tổ chức ngay lực lượng võ trang, chiếm trại lính và các vị trí quan trọng.

– Thành lập chính quyền cách mạng để quản lý và giải quyết mọi việc trên đào.

Hai đồng chí Trần Ngọc Tự và Lê Viết Lành nhận nhiệm vụ tổ chức lực lượng võ trang. Các đồng chí chọn một số thanh niên khỏe mạnh, thành lập ngay một trung đội, võ trang bằng khẩu carbine vừa chiếm được và các loại vũ khí thô sơ đến chiếm trại lính Bắc Bình Vương ở khu vực Lò Vôi (gần Trại VI, Trại VII). Trung đội thứ 2 được tổ chức ngay sau đó, đến chiếm trại lính Bình Định Vương ở khu vực Sở Ruộng (gần Trại I, Trại IV, Trại V). Bọn lính ở hai trại này đã chạy hết, bỏ lại mấy thùng lựu đạn và vài khẩu súng.

Trong lúc đó, Đảo ủy lâm thời tổ chức lực lượng chia thành nhiều tốp, từ Trại VII đến giải phóng các trại. Trại VI khu B lúc ấy giam gần 500 phụ nữ, có một số vừa bị đày ở đất liền ra trước đó 10 ngày. Chị em giấu được một chiếc rađiô, nghe được tin Sài Gòn giải phóng từ trưa 30-4-1975 nhưng không thể báo tin cho các trại và không tìm cách nào ra được. Mãi đến 3 giờ sáng, các chị mới vận động được tên Trưởng trại mở cửa cho ra. Cùng lúc ấy, lực lượng giải phóng của Trại VII cũng vừa đến. Các chị cử đại diện đến Trại VII nhận sự chỉ đạo của Đảo ủy lâm thời. Theo đề nghị của Đảo ủy lâm thời, các chị Hai Nhân và Tư Cúc tham gia Đảo ủy, chị Phạm Thị Đào tham gia chính quyền cách mạng.

Rạng sáng 1-5-1975, tù nhân ở Trại I, Trại IV và Trại V vần chưa biết gì, Mọi người đang chờ kẻng tan nghiêm để kỷ niệm ngày Quốc tế Lao động thì lực lượng giải phóng từ Trại VII tràn vào mở cửa. Đến bây giờ, nhiều người vẫn chưa quên được giây phút kinh ngạc và sung sướng ấy. Ở Trại V có phòng không dám tin, đòi phải có đại diện của tù câu lưu ớ Trại VI khu B cũ đến, anh em mới ra khỏi nhà lao và hành động.

Tù chính trị ở Trại VIII, Trại II, Trại III biệt giam Chuồng Bò lần lượt được mở cửa. Khoảng 8 giờ sáng, lực lượng tù nhân đã hoàn toàn làm chủ thị trấn Côn Đảo. Lực lượng võ trang giải phóng phát triển lên một đại đội. Trung đội thứ 3 đến chiếm Ty cảnh sát, thu được một kho súng, đủ trang bị cho một tiểu đoàn. 10 giờ, Đài truyền thanh phát sóng báo tin Côn Đảo hoàn toàn giải phóng và công bố danh sách các thành viên trong chính quyền cách mạng. Chính quyền được tố chức theo tinh thần “hòa hợp – hòa giải dân tộc”, gồm 15 người, lấy tên là Ủy ban Hòa hợp – Hòa giải Dân tộc tỉnh Côn Sơn.

Linh mục Phạm Gia Thụy được cử làm Chu tịch. Bảy ủy viên là tù chính trị vừa được giải phóng, trong các chức vụ: Phó Chù tịch thứ nhất, tống thư kí, ủy viên quân sự, ủy viên an ninh, ủy viên chính trị và thông tin, ủy viên kinh tế và xã hội; 7 ủy viên khác là sĩ quan, công chức, giám thị đã tham gia giúp tù chính trị trong cuộc nổi dậy giải phóng cỏn Đảo.

Trưa 1-5-1975, lực lượng võ trang của tù nhân giai phóng phát triển lên một tiểu đoàn. Đồng chí Võ Thanh chỉ huy một đại đội lên chiếm sân bay Cỏ Ống. Trung đội bảo an và một số nhân viên bảo vệ sân bay nộp vũ khí đầu hàng. Ta thu 27 máy bay, nhiều chiếc còn nguyên vẹn.

18 giờ, đại đội thứ 3 của lực lượng võ trang giải phóng đã chiếm chi khu quân sự Bến Đầm. Tù chính trị hoàn toàn làm chủ Côn Đáo, không phải nổ một phát súng nào. Buổi tối, Đảo ủy lâm thời họp mở rộng, có đại diện của tất cả các trại. Ban chấp hành được củng cố, gồm 14 đồng chí. Đảo ủy bàn việc quản lý, bảo vệ đảo và liên hệ với đất liền.

Chiều 1-5-1975, tại thành phố Vũng Tàu vừa giải phóng, Trung tướng Lê Trọng Tấn – Tư lệnh cánh quân Duyên Hải đã họp với đại diện Bộ Tư lệnh Hải quân, Khu ủy miền Đông, Sư đoàn Sao Vàng và Thành ủy thành phố Vũng Tàu, bàn phương án giải phóng Côn Đảo bằng một cuộc hiệp đồng quân chủng Hải-Lục – Không quân. Tiểu đoàn 445, bộ đội địa phương tỉnh Bà Rịa cùng Tiểu đoàn 6, thuộc Trung đoàn 12 của Sư đoan Sao Vàng anh hùng dược lệnh tập kết về cảng Rạch Dừa, đế xuống tàu ra giải phóng Côn Đảo. Đảng bộ và nhân dân thành phố Vũng Tàu đã gửi hàng chục tấn lương thực, thực phẩm, rau xanh, thuốc chữa bệnh cho các chiến sĩ Côn Đảo.

Chiều 2-5-1975, đài Vô tuyến điện Côn Đảo phát sóng, chuyển bức điện của chính quyền cách mạng ở Côn Đảo về đất liền: “Ủy ban Hòa giải Hòa hợp Dân tộc ở Côn Sơn đã thành lập 7 giờ sáng ngày 1-5-1975. Chúng tôi nhiệt liệt chào mừng thành phố Sài Gòn đã được giải phóng. Sẵn sàng thi hành mệnh lệnh của Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam”.

Đài phát sóng liên tục, đến 15 giờ ngày 3-5-1975 thì liên lạc được với Thành ủy Sài Gòn – Gia Định. Khi được hỏi Côn Đảo cần gì để đất liền chi viện ngay thì đồng chí đại diện cho Đảo ủy lâm thời đã nghẹn ngào trả lời: “Chúng tôi cần ảnh Bác Hồ!”.

Rạng ngày 4-5-1975, tàu V.609 và tàu V.683 hải quân chở bộ đội ra đến nơi thì những người tù chính trị Côn Đảo đã hoàn toàn làm chủ và ổn định tình hình trên đảo. 500 tấm ảnh Bác Hồ được tù nhân giải phóng rước về các phòng, các trại. Giờ phút ấy trang nghiêm ấy, không gian Côn Đảo dường như lắng lại, tan vào những giọt nước mắt nóng hổi trên gò má hóp của những người tù. Ủy ban Quân quản Côn Đảo được thành lập. Cuộc đấu tranh của những người tù chính trị Côn Đảo đâ giành được thắng lợi trọn vẹn sau gần 20 năm thư thách nghiệt ngã, từng trải qua biết bao gian khổ hi sinh và những bước thăng trầm.

Cuộc nổi dậy giải phóng Côn Đảo là sự biểu hiện sinh động của tư tưởng bạo lực cách mạng trong nhà tù. Trong lúc phát huy sức mạnh tổng hợp của các hình thức và lực lượng vào cuộc đấu tranh chính trị, những chiến sĩ cách mạng trong nhà tù đã kết hợp chặt chẽ với đấu tranh chống khổ sai, đòi quyền dân sinh, dân chủ và đặc biệt chú trọng duy trì, phát triển tư tưởng bạo lực cách mạng. Sức mạnh chính trị kết tinh từ ý chí của những tập thể và cá nhân tiêu biểu, kiên cường đấu tranh chống ly khai, chống tố cộng, chống chào cờ từ hơn mười năm trước đã được nhân lên nhiều lần trong cuộc Đồng khởi chống chào cờ và chống khổ sai của hơn 4.000 người năm 1970.

Đấu tranh vũ trang được sử dụng hạn chế trong một số cuộc vượt ngục tiếp tục được duy trì dưới hình thức võ trang tự vệ chống khủng bố trong thời kì đấu tranh trên cơ sở pháp lý Hiệp định Paris và kết hợp rất sinh động với sức mạnh chính trị trong đêm nổi dậy.

Đấu tranh chống các thủ đoạn tố cộng, cưỡng bức ly khai Đảng Cộng sản tại Côn Đảo (1955-1963)

Từ năm 1955, tù chính trị – những người được coi là “nguy hiểm”, được thanh lọc từ các nhà lao trên tòan miền nam – bị Mỹ-Ngụy đày ra Côn Đảo để tiếp tục “tố cộng” trong tù với mức độ ác liệt hơn bằng thủ đọan cưỡng bức ly khai cộng sản rất thâm độc và tàn ác. Kể từ đó, tù chính trị Côn Đảo bị phân thành hai tuyến : tuyến thứ nhất là những người trực tiếp chống ly khai ở trại I (trại cộng sản) ; tuyến thứ hai là những người chịu ly khai ở trại II (trại quốc gia). Mỹ-Ngụy đã dùng những phương tiện hiện đại, tinh vi nhất kể cả dã man như thời trung cổ để khủng bố tù chính trị trại I, bắt họ phải ký tên ly khai cộng sản, hô khẩu hiệu đả đảo Hồ Chủ tịch ; phải chào cờ ngụy, suy tôn Ngô Đình Diệm, thừa nhận chính phủ Quốc Gia. Người tù chống ly khai phải chịu đau đớn tột cùng về thể xác, bị truy bức căng thẳng tột độ về tâm lý, chết đi sống lại, chết dần chết mòn, từng giờ từng phút.

Trại I – Trại Cộng sản

Sau cuộc bạo động của tù nhân ở Chí Hòa (4-1956) và nhất là cuộc nổi dậy tự giải thoát của 462 tù chính trị tại Trung tâm Huấn chính Biên Hòa (2-12-1956), Ngô Đình Diệm quyết định chuyến tất cả chính trị phạm nguy hiểm ra Côn Đảo và chỉ thị thành lập Ủy ban Liên bộ Nội vụ – Tư pháp – Quốc phòng để thực hiện việc thanh lọc và di chuyển. Ủy ban Liên bộ đã khảo sát và phúc trình hiện trạng như sau:

– “Lao I: hiện trạng còn tốt, chắc chắn và sạch sẽ, hiện là nơi giam giữ các tội nhân. Lao này có 10 khám, có thể chứa 1.500 tội nhân.

– Lao II: mới tu bổ xong, hiện còn bỏ trống. Lao này kiên cố, sạch sẽ như Lao I và có 13 khám, có thể chứa 1.950 tội nhân.

– Lao III: gồm một lao chính và một lao phụ. Lao chính hư hỏng nhiều, nếu sửa chữa có thể chứa lối 1500 tội nhân… lao phụ trước là nơi giam giữ tù binh, chỉ hư hỏng bề ngoài, có thể sử dụng để chứa tới 1.000 tội nhân.

– Ngoài ra, tại các sở tù, còn có 4 lao nhỏ có thể chứa 320 tội nhân. Tổng số tội nhân hiện giam giữ tại Côn Đảo là 674 người”.

Ngày 11-1-1957, chuyến lưu đày Côn Đảo đầu tiên chở 360 tù chính trị thuộc các tỉnh miền Đông từ nhà lao Biên Hòa rời cảng Sài Gòn, trong đó có 36 phụ nữ. Tính đến ngày 3-12-1957 ngụy quyền đày ra Côn Đảo 10 chuyến, tổng cộng 3.080 tù nhân. Lớp tù nhân đầu tiên thời Mĩ – ngụy bị đày ra Côn Đảo tháng 1-1957 là tù chính trị không án, bị câu lưu (giam giữ, chỉ định nơi cư trú). Họ là những người mà ngụy quyền cho là “nguy hiểm nhất” được thanh lọc từ tất cả các nhà lao, đày ra Côn Đảo để tiếp tục các thủ đoạn “tố cộng” trong tù với mức độ ác liệt hơn.

Theo phúc trình không số ngày 5-9-1958 của Nguyễn Văn Hòa, công an biệt phái tại Trung tâm huấn chinh Côn Sơn, tính đến ngày 24-3-1957, ngụy quyền đã lưu đày ra đảo 4 chuyến, tổng số 1.264 tù chính trị câu lưu. Cuối tháng 3-1957, ngụy quyền Côn Đảo bắt đầu thực hiện “tố cộng” đối với tù chính trị câu lưu bằng thủ đoạn cưỡng bức li khai Đảng cộng sản, chúng thành lập Trại quốc gia (Trại II), vận động số tù chính trị ly khai Việt cộng, trở về với “quốc gia”. Đợt đầu tiên, chỉ có 269 người chịu ly khai, về Trại quốc gia, còn 995 người kiên quyết chống, ở lại Trại I, mang tên Trại cộng sản.

Kể từ khi đó, tù chính trị câu lưu bị phân thành hai tuyến: tuyến thứ nhất là những người trực diện chống ly khai ở Trại I mà địch gọi là “Trại cộng sản”, tuyến thứ hai gồm những người chịu điều kiện ly khai ở Trại II mà địch gọi là “Trại quốc gia”.

Trong các văn bản của nhà tù, ngụy quyền Côn Đảo gọi Lao I là Trại I, Trại cộng sản. Công văn số 204/TTHC/CS/2M ngày 15-4-1958 của Quản đốc nhà tù ghi rõ: “Trại I là nơi an trí bọn Việt cộng ngoan cố, chống học tập cải tạo tư tưởng, không nhìn nhận chủ nghĩa quốc gia, biểu hiện dưới các hình thức: không dự lễ chào cờ, suy tôn Ngô Đình Diệm, không hô khẩu hiệu huấn chính: “Ủng hộ Ngô Tổng thống, đả đảo Hồ Chí Minh”.

Chống ly khai cộng sản là hình thức đấu tranh cao nhất, là không thừa nhận chế độ độc tài Ngô Đình Diệm, là đấu tranh cho mục tiêu hòa bình thống nhất nước nhà, là bảo vệ đường lối giải phóng dân tộc của Đảng, bảo vệ lý tưởng cộng sản, bảo vệ uy tín của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đấu tranh chống ly khai là ngọn cờ, là linh hồn trong phong trào đấu tranh của tù chính trị Côn Đảo trong thời kỳ này.

Những người tù chống ly khai đã trải qua nhiều cực hình đày đọa: cấm cố, nhốt chật, đóng cửa cây (cửa gỗ), bớt cơm, bớt nước uống, cúp nước tắm, không cho thuốc khi đau ốm.

Tù nhân Trại I bị giết bằng đủ các kiểu: tra tấn cho đến chết, đày ải trường kỳ sinh bệnh chết, bị bệnh cho trái thuốc để giết luôn. Y tá của nhà tù được đào tạo thành những tên mật vụ chống cộng. Nhiều trường hợp bệnh kiết lỵ chúng cho quinine, thương hàn chúng cho sulfamiđe, tù nhân uống vào đau quặn ruột rồi chết.

Ngày 1-8-1957, anh Kinh Chi quê Tây Ninh, người tù chính trị đầu tiên thời chống Mỹ đã chết tại Trại I. Ngày hôm sau, anh Hoàng Văn Khải chết vì kiệt sức. Ngày 5-8-1957, anh Bùi Văn Khá chết vì bệnh thương hàn. Cả 3 anh đều không được nhà tù cho một viên thuốc nào. Theo phúc trình không số của Nguyễn Văn Hòa, công an biệt phái làm đồng Trưởng trại I, từ tháng 8-1957 đến tháng 8-1958, đã có 118 tù chính trị Trại I chết.

Tên thiếu úy Võ Văn Nguyệt – Phó quản đốc còn nghĩ ra lối giết tù bằng cách cho ăn gạo trắng nhằm hủy hoại nhanh những cơ thể đã suy dinh dưỡng nặng. Kiết lị, nha chu (sưng chân răng) và đen chân là những căn bệnh phổ biến nhất. Có người bị rụng sạch cả hai hàm răng như Hồ Phi Long ở Kon Tum, có người bị đen dần từ chân lên bụng rồi chết.

Kẻ thù lợi dụng cả những phút hấp hối của tù nhân để cưỡng ép họ ly khai. Tên Bảy Nhiên, mật vụ của Ty y tế mỗi lần chích thuốc đều hỏi: “Chịu ly khai không?”. Ai lắc đầu là nó rút kim ra, xịt thuốc xuống đất. Các anh Lê Văn Khá (ở Trà Vinh), Nguyễn Hà, Nguyễn Ngọc Anh, Nguyễn Trọng (ở Bình Định), Huỳnh Nghinh (ở Quảng Ngãi) bị kiết lỵ nặng, đều bị Bảy Nhiên dụ dỗ và cưỡng bức ly khai. Cả năm anh đều thà chết chứ không chịu ly khai đế nhận liều thuốc cứu mạng nhục nhã ấy. Chê độ trị bệnh kết hợp với truy bức tư tưởng đã biến bệnh xá Trại I thành nhà xác. Trong vòng một tháng kế từ khi thành lập (6-8-1957), đã có 23 tù nhân chết tại bệnh xá.

Có một sô đông những người chống ly khai chưa phải là đảng viên cộng sản, thậm chí, có người chưa giác ngộ cộng sản, có người thuộc các đảng phái, tôn giáo đối lập bị chính quyền Ngô Đình Diệm đàn áp. Theo báo cáo cùa đồng chí Trần Tấn Lộc, Trưởng ban liên lạc tù chính trị tỉnh Đồng Nai, trong số 1.478 người ở Trại I (thời điểm thống kê) có 23% là đảng viên, 73% là quần chúng cách mạng và 4% là tề, hương chức cũ và các đảng phái khác, không liên quan gì đến cộng sản.

Ông Nguyễn Văn Mua, 62 tuổi, nông dân ở Thủ Đức, bị bắt vì bị vu oan là hoạt động cộng sản đã chống li khai từ đầu. Ồng thường nằm lặng lẽ ở một góc khám, trầm ngâm nhìn lên mái nhà, không trò chuyện, thổ lộ gì với ai. Khi bệnh nặng, vào phút lâm chung, ông ngồi dậy, dựa lưng vào tường, vuốt lại nếp áo, hô to: “Hồ Chí Minh muôn năm” rồi từ từ nằm xuống, nhắm mắt xuôi tay, không trăn trối thêm điều gì nữa.

Anh Nguyễn Hiền, đảng viên Đảng Đại Việt cũng chống ly khai từ ngày đặt chân lên đảo. Nguyễn Hiền đã chịu chung cảnh lon nước, lưng cơm, nằm nghiêng không lọt. Những người tù cộng sản dành cho anh một chỗ nằm thoáng mát và khẩu phần ưu tiên về cơm ăn, nước uống, thuốc chữa bệnh. Anh xúc động tâm sự: “Tôi không phải là. đảng viên cộng sản, quan điểm lập trường khác các anh. Tôi có ly khai cũng không tội lỗi gì, nhưng ngặt một nỗi là ly khai thì chúng bắt hô đả đảo Bác, đó là điều tôi không thể nào làm được. Bác Hồ là người tiêu biểu nhất cho dân tộc Việt Nam cả về đạo đức tác phong và lòng yêu nước. Bởi vậy tôi ở lại đây chiến đấu cùng các anh, nếu cần sẽ chết cùng các anh”.

Chống ly khai cộng sản, chống chế độ Ngô Đình Diệm là lập trường hết sức kiên quyết của anh. Trong con mắt của anh, Bác Hồ là một lãnh tụ vẹn toàn, tài ba siêu việt, còn Ngô Đình Diệm chỉ là một kẻ sát nhân tàn bạo. Anh hi sinh cuối năm 1957 trong vòng tay những người cộng sản. Phút hấp hối, anh nói: ‘Bây giờ tôi đã hiểu cộng sản. Cộng sản là các anh”. Nói xong anh hô: “Hồ Chí Minh muôn năm” rồi nhắm mắt, xuôi tay.

Tập hồ sơ “Tù nhân Côn Đảo với Bác Hồ” lưu tại Phòng lịch sử Đảng tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu cho biết, ở Trại I có trên một ngàn quần chúng cách mạng tham gia phong trào chống ly khai Đảng cộng sản. Nhiều người đã chiến đấu rất kiên cường và hy sinh anh dũng. Ông Huỳnh Văn Mau tự Lẹ, một tín đồ đạo Hòa Hảo ở Long Xuyên bị đánh chết trong một trận khủng bố. Anh Dư Sanh, một tín đồ đạo Cao Đài ở Tây Ninh bị đánh đập đến lột tròng mắt. Sau lần ấy anh bỏ ăn chay và cùng tập thể kiên quyết chiến đấu đến cùng.

Mỗi lần địch khủng bố, thay vì niệm thần chú, anh hô khẩu hiệu “Hồ Chí Minh muôn năm”. Đối với anh cũng như hàng trăm đồng bào các tôn giáo tham gia cuộc đấu tranh chống ly khai thì tên tuổi Hồ Chí Minh cũng thiêng liêng như một tín ngưỡng trẽn đời. Khát vọng giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc mà Chủ tịch Hồ Chí Minh là biểu tượng đã trở thành lẽ sống mà anh tin đến trọn đời, trọn đạo.

Trại I khi ấy có đủ mặt cán bộ từ cấp Xứ ủy, Khu ủy, Tỉnh ủy, Huyện ủy cho đến quần chúng cách mạng ở tất cả các tỉnh, từ Quảng Trị đến Cà Mau, Rạch Giá. Hình thức tổ chức buổi đầu chưa phải là chi bộ mà là những Ban lãnh đạo bí mật trong từng phòng, trên cơ sở tín nhiệm và liên hiệp giữa các địa phương: từng tỉnh, liên tỉnh, các miền (miền Trung, miền Đông Nam bộ, miền Tây Nam Bộ và Sài Gòn – Gia Định), để tập hợp ý kiến, thống nhất chủ trương.

Chưa có Nghị quyết của tổ chức Đảng về chủ trương và hình thức đấu tranh trong tù, những người tù chính trị chống ly khai truyền miệng nhau học Kinh nhật tụng của người chiến sĩ, xem đó là tiêu chuẩn về phẩm chất đạo đức của người chiến sĩ cách mạng trong tù. Kinh nhật tụng gồm 12 phần, 196 câu theo thể song thất lục bát, do Khương Hữu Dụng biên soạn với sự cộng tác của Nguyễn Đình và Nguyễn Đình Thư, xuất bản tại Liên khu V tháng 5-1946, trên cơ sở tập Tuyên truyền Việt Minh (Tủ sách huấn luyện, Việt Bắc, 1944), được những người tù chính trị Côn Đảo xem như một “cẩm nang để ứng xử trong mọi tình huống, như một vũ khí sắc bén để đấu tranh một mất một còn với kẻ thù, để trui rèn phẩm chất cách mạng, giáo dục tình đồng chí và nhân cách con người”.

Đầu năm 1958, bọn cải huấn mở đợt trắc nghiệm tư tưởng tù chính trị Trại I bằng cách đánh dấu chữ “o”, chữ Chúng phát cho mỗi người một mảnh giấy và bảo: “Ai theo quốc gia thì đánh chữ “+”, ai theo cộng sản thì đánh chữ “o”. Trong lúc chưa có sự chỉ đạo tập trung, thống nhất, anh Hồ Bồi (ở Phù Mỹ, Bình Định) đã nêu ý kiến: “Cái gì địch muốn thì ta không làm, cái gì địch không muốn thì ta làm”. Ý kiến của Hồ Bồi trở thành phương châm hành động của mỗi người tù chính trị, khi phải đối phó với thủ đoạn mới của địch, nhất là trong trường hợp bị phân tán hoặc thiếu sự chỉ đạo tập trung, thống nhất. Hầu hết anh em chọn chữ “o” làm thất bại một lần nữa âm mưu phân hóa của địch .

Số phụ nữ chống ly khai, địch giam tại hầm đá Trại I. Bọn gác ngục sử dụng nhiều thủ đoạn để khuất phục các chị. Xà lim đôi rộng hơn 4 mét vuông, thời Pháp chỉ nhốt 2 người, nay nhốt 18 chị, 7 ngày mới cho đổ thùng cầu một lần, ngày chỉ một lon nước uống, không nước tắm. Nóng bức và bệnh tật làm sức khoẻ các chị suy sụp. Các chị phải cắt tóc ngắn, ở trần truồng và thay phiên quạt cho nhau, chịu đựng qua mùa hè trong xà lim chật chội, ngột ngạt và oi bức. Nhiều chị có kinh nguyệt phải ngồi trên tấm nilon hoặc trên thùng cầu rồi dùng nước tiểu của mình thay cho nước làm vệ sinh.

Ngụy quyền không từ một thủ đoạn nào đối với những người phụ nữ chống ly khai. Chị Đỗ Hữu Bích gửi đứa con còn đang bú cho chị Sửu ở Trại II nuôi giúp để tham gia chống ly khai, bảo vệ khí tiết. Địch bắt chị Sửu trả đứa bé vào hầm đá Trại I với mẹ. Cuối cùng, theo lời khuyên của tập thể, chị Bích đành gạt nước mắt, chịu ly khai để cứu cháu bé khỏi chết trong hầm đá.

Biết chị Nguyễn Thị Tú trong Ban đại diện phụ nữ chống li khai thuộc thành phần trí thức, chúng tìm mọi cách mua chuộc, mời chị ra nói chuyện rồi bố trí cho chị ở riêng một xà lim, có chiếu, mền, gối, nhưng chị đã từ chối, trở về nơi cấm cố với tập thể. Không khuất phục được các chị và bị dư luận tố cáo, ngụy quyền Sài Gòn buộc phải đưa tất cả nữ tù chính trị về đất liền vào tháng 4-1958.

Kháng chiến và cộng sản

Thực hiện quốc sách “tố cộng” ngụy quyền Côn Đảo tìm mọi cách cưỡng bức Trại I học tố cộng. Ngày 16-7- 1958 chúng gắn loa cho tên Nguyễn Kim Sáu, Bí thư Đảng “Cần lao Nhân vị” Trưởng ty thông tin kiêm Trưởng ban dẫn đạo chính trị tỉnh Côn Sơn đọc bản “Tuyên cáo 8 điểm toàn dân đòi hỏi chính quyền miền Bắc”. Bản tài liệu có nội dung xuyên tạc miền Bắc, nói xấu Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bị tù nhân tẩy chay, chúng gắn loa vào cửa mỗi phòng, tiếp tục cuộc phát thanh theo kiểu cưỡng bức nhằm: “Nếu không tác động có lợi cho chính sách chủ trương của chính phủ (ngụy) thì cũng làm mệt mỏi vì những giờ phát thanh này để không có thì giờ nghĩ đến cuộc chống đối. Hy vọng lôi kéo lần hồi một số không phải là cộng sản mà chỉ bị ảnh hưởng xu hướng theo cộng sản”.

Cuộc phát thanh được Quản đốc Nguyễn Văn Giỏi biến thành một chiến dịch tác động tinh thần, thành một hình thức tra tấn, đày ải tù nhân. Tiếng loa dội vào khám làm tù nhân nhức óc, mất ăn, mất ngủ, mệt mỏi rã rời, nhưng không đạt kết quả. Ngày 24-7-1958, địch kết thúc “chiến dịch loa” và tiếp tục tác động tinh thần bằng phân hóa “kháng chiến và cộng sản”.

Từ cuối tháng 7-1957, ngụy quyền tiến công những người chống ly khai bằng chiến dịch phân hóa kháng chiến và cộng sản. Chúng đề cao những người kháng chiến là yêu nước, kiên quyết đấu tranh cho độc lập tự do, nhưng cộng sản đã “cướp công kháng chiến”, lái kháng chiến theo “chủ nghĩa tam vô, độc tài, đảng trị”, Bây giờ ai nhận là theo kháng chiến sẽ được “quốc gia” Ưu đãi, trọng dụng, ai nhận theo cộng sản sẽ bị trừng trị nghiêm khắc. Một bộ phận nhỏ tù chính trị chống ly khai Trại I đã nhận theo kháng chiến, còn đại bộ phận đã kiên quyết chống thủ đoạn phân hóa của địch.

Theo báo cáo tháng 8-1958 của Quản đốc nhà tù, trong số 1.190 người ớ Trại I, có 320 người nhận là kháng chiến (25,9%), 657 người nhận là cộng sản hoặc theo cộng sản, theo Hồ Chí Minh. Địch đưa những người nhận là “kháng chiến” vào hai phòng 1 và 2, gọi là Khám – kháng chiến, các phòng còn lại của Trại I là Khám cộng sản. Khám cộng sản chịu chế độ cấm cố, bị đóng cửa cây, bớt cơm, bớt nước, ốm đau không thuốc.

Khám kháng chiến được đưa ra sân chơi, tắm giặt thoải mái, tuần vài lần đi tắm biển, chơi chùa. Khám cộng sản ăn tương chua, khô đắng, mắm thối, còn Khám kháng chiến thì hàng tuần có rau tươi thịt cá.

Thấm thìa nỗi đau và âm mưu chia rẽ của kẻ thù. Khám kháng chiến đã đấu tranh đòi trả về ở chung với các Khám cộng sản.

Thất bại hoàn toàn, Tỉnh trưởng Bạch Văn Bốn kết luận: “kháng chiến” với “cộng sản” cũng là một mà thôi.

Tổng kết thất bại của chiến dịch, Nguyễn Kim Sáu, Trưởng ban dẫn đạo chính trị đã rút ra một nhận xét: “Họ chỉ có một lập trường tuyệt đối tin tưởng Hồ Chí Minh”.

Đầu năm 1959, ngụy quyền Sài Gòn dưa trung úy Nguyễn Đắc Dận, một tên ác ôn từ nhà lao Phú Lợi ra làm Trưởng ban an ninh trung tâm cải huân Côn Sơn. Nguyễn Đắc Dận vừa tốt nghiệp hạng ưu khóa “Nhân vị”, khóa học chuyên huấn luyện các mánh khóe tố cộng, diệt cộng của chính quyền Ngô Đình Diệm. Dận tổng kết tất cả những điều đã học được trong một câu: “Cứ tẩn tợn giết tợn là ly khai hết”.

Nguyễn Đắc Dận có lối truy bức đến cùng, khuất phục bằng được. Hắn có thể ngồi rỉ rả thâu đêm để khêu gợi bản năng sống từng người, có thể vờ vịt xót xa trước mỗi cảnh ngộ éo le, oan trái, nhưng rồi bất thần, hắn chộp lấy giây phút lo âu, mệt mỏi, núng thế của từng người mà tấn công, tăng đòn, khuất phục.

Dận chế tạo ra một loại chày vồ bằng gỗ cứng, đường kính một tấc, dài 2 tấc, nặng một ki-lô-gam, có tay cầm. Hắn bắt người tù úp mặt hoặc lưng vào tường, rồi dang tay, quật chày vồ thẳng cánh vào lưng, vào ngực. Người nào khỏe lắm chỉ chịu được 5-7 chày là hộc máu, ngất xỉu. Dận là hiện thân của chính sách “bàn tay nhung – bàn tay sắt” của chế độ Ngô Đình Diệm mà bàn tay nào cũng dẫm máu.

Chiến dịch “chày vồ” kéo dài trong một tháng, Dận cưỡng bức được gần ba chục người. Ân hận và hổ thẹn vì sự yếu hèn của mình, ông Nguyệt, quê Bến Tre đã xé quần áo, bện thành dây treo cổ tự vẫn trong cầu tiêu. Anh em Trại II cứu được, đưa ông ra bệnh xá. Khi được hỏi vì sao tự vẫn, ông đã trả lời: “Tôi bị đánh đập dã man, sức già không chịu được, phải qua đây, chứ thật lòng không li khai, không bao giờ phản lại Cụ Hồ. Tôi nghĩ ở Lao II cũng chết vi đòn bông khổ sai, cho nên tôi chết luôn cho khỏi nhục”.

Phó tỉnh trưởng Nguyễn Văn Giỏi nghe nói vậy đã xé bản cam kết ly khai của ông và ra lệnh ngưng “chiến dịch chày vồ”, trả tất cả số vừa bị cưỡng bức ly khai về Trại I.

Tết âm lịch (1959), địch cho phép mở cửa 3 ngày, cho tù chính trị Trại I được ra chơi ngoài sân, theo khuôn viên từng phòng. Tù chính trị Trại I đã tổ chức mặc niệm các đồng chí hy sinh, bồi dưỡng ý chí kiên cường tranh đấu, tổ chức múa lân, ca kịch vui chơi, xé rào thăm nhau và trao đổi tình hình, thống nhất nhận định và xây dựng kế hoạch phối hợp tranh đấu.

Ngày mồng hai tết, bức thư trao đổi kế hoạch đấu tranh 6 tháng đầu năm từ phòng 8 chuyền qua phòng 4 (đối diện) bị địch phát hiện. Chúng bắt anh Sơn, đại diện phòng 8 đi khai thác. Sáng mồng ba tết, phòng 8 phát động đấu tranh đòi thả đại diện, bằng hình thức hô la tập thể được toàn thể tù chính trị Trại I hưởng ứng. Nhiều phòng nêu thêm các khẩu hiệu đòi cải thiện đời sống tù nhân, mở rộng dân sinh dân chủ, tranh thủ binh sĩ địch. Tiếng hô la đồng thanh của hơn một ngàn tù chính trị vang động cả thị trấn Côn Đảo làm cho bọn thống trị hoang mang, hoảng loạn. Nhiều tên trật tự, giám thị bỏ chạy.

Tỉnh trưởng Bạch Văn Bốn xuống trấn an, hứa hẹn giải quyết, đồng ý cho đại diện phòng 8 nói chuyện với anh em trên loa trong buổi tối hôm ấy. Cuộc đấu tranh bằng hình thức hô la lắng dịu. Địch tăng cường tra tấn và truy bức khiến anh Sơn không chịu nổi, buộc phải khai Trần Văn Sáu (Sáu Cao) bí thư chi bộ phòng 8 và Sơn lên loa nói chuyện, chấp nhận ly khai, qua Trại II. Sự yếu hèn của Sơn đã làm phá sản hoàn toàn cuộc đấu tranh hết sức quyết liệt của hàng ngàn con người, vì khẩu hiệu cuộc đấu tranh là đòi thả Sơn.

Hôm sau, địch đưa lực lượng đến phòng 8 bắt Sáu Cao. Cả phòng 8 đã chịu một trận khủng bố ác liệt, hàng chục người thịt rơi, máu đổ nhưng không ai chỉ mặt Sáu Cao. Cuối cùng, địch phải đưa Sơn qua chỉ mặt Sáu Cao đế bắt. Sáu Cao nguyên là Tỉnh ủy viên của tỉnh Vĩnh Long. Anh đã chịu nhiều trận đòn chết đi sống lại nhưng không khai báo một lời nào. Tỉnh dậy giữa 2 trận đòn thù, anh vẫn khảng khái tuyên bố: “Đảng dạy tao làm cách mạng chứ không dạy tao khai với tụi bây”.

Thái độ kiên cường của Sáu Cao khiến đám công an khai thác anh cũng phải kính phục.

Dời trại, vẫn là Trại I

Trại I nằm giữa trung tâm thị trấn Côn Đảo, trước mặt là Văn phòng Giám thị trưởng, bên phải là trại lính, bên trái là Trại II, sau lưng là cư xá giám thị. Cuộc đấu tranh của tù nhân Trại I trực tiếp ảnh hưởng đến binh lính và công chức trên đảo. Khác với bọn công an, cải huấn thường được tuyển chọn từ những tên chống cộng hoặc phản bội, đầu hàng, những người lính Bảo an vốn xuất thân từ nông dân lại có cảm tình với tù chính trị. Phần lớn gia đình họ có quan hệ với cách mạng, từng được chia ruộng đất trong kháng chiến. Nhiều người lính bất bình với sự tàn bạo của chế độ “quốc gia” và bày tỏ tình cảm với tù chính trị.

Lính bảo an thường lén cho anh chị em Trại I từng nhúm muối, nắm rau, viên thuốc. Một bác lính già người Khơme tên là Chim cứ đến phiên gác lại xách nước cho chị em chống ly khai ở hầm đá tắm và giặt quần áo cho chị em. Những người vợ lính bán quà bánh, tạp hóa theo từng tốp tù đi làm khổ sai thường giúp anh em nhắn tin về đất liền và “bán vốn” cho anh em. Nhờ đó mà Đài Tiếng nói Việt Nam và Phái đoàn quân sự của Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa có tài liệu xác đáng để đấu tranh với địch trước dư luận và trước Ủy hội quốc tế, Ủy ban liên hợp quân sự hai bên.

Những người vợ lính cũng học theo cách của tù chính trị Trại I mà đấu tranh. Họ ghét cay ghét đắng trò tố cộng, chào cờ, chào sĩ quan mà mỗi lần chào lại phải hô khẩu hiệu ủng hộ Diệm, đả đảo Cụ Hồ. Mỗi lần đi theo bán hàng cho tù nhân Trại I, gặp lúc chào cờ, thấy tù chính trị ngồi xuống là các chị cũng ngồi theo. Tết 1959, Trại I đấu tranh bằng hình thức hô la tập thể phản đối khủng bố, đòi trả đại diện về khám và đòi cải thiện đời sống tù nhân. Tiếng hô đồng thanh cả trên một ngàn người làm chấn động cả thị trấn Côn Đảo, làm xôn xao dư luận trong binh lính và công chức. ít lâu sau, một người lính bị phạt giam trong xà lim Trại I. Cả tốp vợ lính cùng kéo vào thăm nuôi và đồng thanh hô theo vợ anh:

– Yêu cầu thiếu tá tỉnh trưởng thả chồng tôi,

– Yêu cầu! Yêu cầu! Yêu cầu!

Chị em hô la đến gần một tiếng đồng hồ. Tỉnh trưởng Bạch Văn Bốn phải cho thả người lính và răn đe dám vợ lính, cấm “không được theo đuôi cộng sản Trại I”.

Trại I là cái gai trước mắt kẻ thù. Ngô Đình Diệm đã ra luật 10/59 đặt cộng sản ra ngoài vòng pháp luật, vậy mà ngay trước mũi bộ máy bạo lực của chúng vẫn sừng sững một “Trại cộng sản” không thừa nhận chế độ “quốc gia” không ly khai cộng sản. Nhiều phái đoàn của Bộ Nội vụ ngụy và đích thân Bộ trưởng Lâm Lễ Trinh đã ra Côn Đảo nghiên cứu biện pháp đối phó với Trại I. Ngày 15-7-1959, địch chuyển 1.445 tù chính trị Trại I về Trại III và Trại IV và Chuồng Cọp nhằm chia cắt, cô lập triệt để, khủng bố quyết liệt hơn trước, tiến tới xóa sổ “Trại công sản”.

Mặc dù bị phân tán ở 3 nơi, địch vẫn gọi là Trại I, có chung Trưởng trại, chung bộ máy cải huấn và phòng vệ, với ý nghĩa đây là Trại cộng sản, là nơi giam giữ những phần tử ngoan cố theo Hồ Chí Minh. Các khám Trại III mang số hiệu từ một đến 8, các khám đánh số từ 9 đến 16 là thuộc Trại IV. Chuồng Cọp là khu kỷ luật chung nằm giữa 2 lao.

Tháng đầu xuống lao mới đã có 11 tù nhân chết vì các bệnh kiết lỵ, thổ tả, thương hàn. Nhiều tù nhân bức xúc, đề nghị thống nhất lực lượng, đấu tranh bằng hình thức cao nhất là tuyệt thực. Ngày 21-7-1959, khám 12 Trại IV tuyên bố tuyệt thực với các yêu sách đòi cải thiện đời sống tù nhân. Do chưa chuẩn bị đầy đủ tinh thần nên lực lượng bị phân hóa khi địch đàn áp, chỉ còn 4 anh: Ân, Bảo, Bào, Lành kiên quyết không ăn để bảo vệ yêu sách. Địch đưa các anh xuống chuồng cọp, giam mỗi người một chuồng.

Theo báo cáo của Chi công an Côn Sơn, vào hồi 12 giờ ngày 18-8-1959, chúng bắt được 2 tù nhân làm hoả thực là Trần Dũng (tự Tấn), 30 tuổi và Nguyễn Anh (tự Kiêm) 29 tuổi mang 4 bức thư bọc trong nilon nội dung như sau:

– Bốn anh tuyệt thực gần chết.

– Ngày qua nó bắt ở Lao 4 sáu người bỏ kỷ luật.

– Phạt uống nước lạnh toàn Lao 4.

– Đã có phòng 14 và phòng 9 trả lại cơm không ăn.

– Tin các anh rõ để phối hợp.

– Xem xong hủy liền.

Đây chính là 4 trong nhiều bức thư liên lạc giữa Ban lãnh đạo Trại II với các đồng chí có trách nhiệm trong lực lượng chống ly khai đang bị cấm cố tại Trại III và Trại IV để phối hợp đấu tranh. Ba đợt tuyệt thực liên tiếp của 4 anh Ân, Bảo, Bào, Lành trong vòng một tháng đã thôi thúc tập thể tù chính trị sớm thống nhất ý chí và hành động. Ngày 24-8-1959, 100 tù chính trị khám 14 mở đầu cuộc tuyệt thực. Chiều ấy khám 12 và khám 16 hưởng ứng, ngày hôm sau toàn thể tù nhân Trại IV tuyệt thực. Ngày 24-8-1959, tại Trại III, khám 6 tuyệt thực.

Ngày hôm sau, các khám 2, 3, 4, 5, 7 và 8 cũng đồng loạt tuyên bố tuyệt thực. Bọn trật tự, công an xông vào từng khám, đánh đến dập nát nhiều bó mây tầm vông rồi kéo từng người ra sân đánh tiếp. Ai chịu ăn chúng nhốt riêng, ai không chịu ăn chúng lôi xuống Chuồng Cọp. Khi tất cả các khám đã đồng loạt tuyệt thực thì bọn địch thay đổi thái độ. Ngày 28-8-1959, Tỉnh trưởng Bạch Văn Bốn xuống Trại III chấp nhận các yêu sách, trừ vấn đề trả tự do. Kỳ sư Lê Văn Thả, đại diện khám 2 được cử đi các khám thông báo sự nhượng bộ của nhà tù.

Địch trả những người bị giam ở Chuồng Cọp về các khám. Riêng 4 anh An, Bảo, Bào, Lành chúng cho là cầm đầu nên vẫn biệt lập tại Chuồng Cọp. Các anh tiếp tục tuyệt thực cho đến ngày 2-9-1959 mới kết thúc đợt tranh đấu, tổng cộng 34 ngày. Các anh là lớp người mở đầu những trang sử tranh bất khuất của tù chính trị tại Chuồng Cọp Côn Đảo trong thời kì này.

Sự nhượng bộ của Bạch Văn Bốn chỉ là một thủ đoạn trì hoãn để chuẩn bị cho đợt khủng bố quy mô hơn. Dãy Chuồng Cọp II bị hư hại nhiều được khẩn trương tu sửa lại. Giữa tháng 10-1959, địch đàn áp từng khám để thanh lọc cốt cán. Trên 300 tù nhân đã bị đưa xuống Chuồng Cọp bằng hèo, gậy, thoi, đá và vôi bột. Cuối tháng 10-1959, Tỉnh trưởng Bạch Văn Bốn đã đưa cả 120 gian Chuồng Cọp ở 2 khu vào sử dụng, một kỉ lục mà bọn chúa ngục thời Pháp chưa bao giờ đạt tới.

Sáng sớm, chuồng cọp mở cửa, tù nhân ra đổ cầu đã bị đánh, bữa trưa ra lấy cơm lại đánh, chiều lấy cơm đánh nữa. Buổi tối địch gọi từng người ra đánh, hoặc bất chợt mở cửa một chuồng nào đó xông vào đánh. Bọn công an, trật tự xoi mói theo dõi từng cử chỉ của tù nhân. Thấy ai nhìn lên chúng lôi ra đánh. Người đứng hoặc ngồi, buồn hoặc vui đều bị đánh. Bất chợt chúng hỏi ngày, hỏi thứ. Ai nói trúng là bị đánh về tội “ở tù tính ngày để làm lễ, đấu tranh”, trả lời sai cũng bị đánh về tội “ở tù ngồi không mà ngày tháng cũng không nhớ”. Chuồng cọp Côn Đảo chính là nơi phơi bày những tội ác man rợ, thú vật, chà đạp nhân quyền con người của ngụy quyền Sài Gòn nhân danh tự do dân chủ dưới sự bảo trợ của đế quốc Mỹ.

Phẫn nộ trước hành động khủng bố tàn bạo của kẻ thù, nhiều tù nhân đã trực diện phản đối bằng nhiều hình thức, kể cả việc vũ trang chống lại. Có lần, anh Trần Văn Huy (Trần Nga) ở Nha Trang đã đánh trả quyết liệt làm bọn trật tự phải dạt ra. Anh chụp được tên Lê Văn Yên, một trật tự gian ác, ấn đầu nó xuống rãnh nước. Bọn trật tự xúm lại đánh anh ngất lịm. Sau này tù nhân Côn Đảo còn nhiều lần đánh trả bọn khủng bố và trừng trị những tên gian ác.

Chiến dịch “chuyển hướng”

Từ giữa năm 1959, Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã nhiều lần tố cáo chế độ lao tù Côn Đảo của Mỹ- Diệm trước dư luận trong và ngoài nước. Phái đoàn liên lạc của ta gửi đến Ủy ban Quốc tế 2 công văn số 319/CT/VII/B ngày 2-7-1959 và số 493/CT/VII/B ngày 30-9-1959 tố cáo Mỹ Diệm khủng bố 3.402 người kháng chiến cũ tại Côn Đảo.

Bản cáo trạng tình hình Trại tập trung Côn Đảo tháng 12-1959 của Ban Thống nhất Trung ương đã đề cập tình trạng giam giữ tồi tệ ở Lao I, mỗi tù nhân chỉ được một diện tích 0,36 mét vuông để ở và 1,44 mét khối để thở. Cáo trạng còn cho biết, từ năm 1957 đến giữa năm 1959, Mỹ Diệm đã giết hại 360 tù chính trị Lao I. Cáo trạng kêu gọi đồng bào từ Bắc chí Nam, ở trong nước cũng như ngoài nước đoàn kết đấu tranh, đòi: “Thả hết những người yêu nước bị giam cầm ở Côn Đảo và các nhà ngục khác ở miền Nam, chấm dứt chính sách khủng bố, trả thù những người yêu nước, những người khảng chiến cũ…”.

Đài Tiếng nói Việt Nam và nhiều tổ chức, đoàn thể chính trị tại Hà Nội đã lên tiếng tố cáo tội ác của Mỹ – Diệm, ủng hộ mạnh mẽ cuộc đấu tranh anh dũng của tù chính trị Côn Đảo.

Địch không chùn tay. Chúng đối phó lại bằng cách chuẩn bị một chiến dịch đánh phá quy mô nhằm xóa số Trại I – Trại cộng sản. Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu đã nhiều lần chỉ thị cho Bộ Nội vụ ngụy nghiên cứu, giải quyết tình trạng các can cứu chính trị cộng sản tại Côn Đảo. Ngô Đình Cẩn, tên lãnh chúa Trung phần đã cử Dương Văn Hiếu, trùm mật vụ miền Trung vào giúp Diệm – Nhu thanh toán Trại I.

Dương Văn Hiếu là tên phản bội nguy hiểm, nhờ thành tích đánh phá các tổ chức cộng sản mà leo lên chức Trưởng ty công an ngụy tỉnh Thừa Thiên, Trưởng đoàn công tác đặc biệt miền Trung tại Sài Gòn, Phụ tá Khối Cảnh sát đặc biệt. Hiếu ra Côn Đảo nghiên cứu tình hình rồi vận dụng kinh nghiệm “chuyến hướng” ở Trại Vân Đồn, Trại Lê Văn Duyệt (Sài Gòn), Trại Toà Khâm (Huế), trình Nội các ngụy một chiến dịch quy mô nhằm: “Giải quyết tình trạng phản ứng, chống đối Chính phủ VNCH của các phạm nhân chính trị ở Côn Sơn, cải huấn tất cả số phạm nhân ngoan cố, đưa vào kỉ luật để học tập, khai thác tổ chức lãnh đạo V.C ở trại giam để cô lập và loại trừ”.

Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu phê chuẩn kế hoạch của Hiếu và quyết định thành lập Ban chỉ huy Trung ương chiến dịch gồm:

– Thiếu tướng Mai Hữu Xuân, Tổng giám đốc an ninh quân đội ngụy là chỉ huy trưởng.

– Đại tá Nguyễn Văn Y, Tổng quản đốc các trung tâm cải huấn là chỉ huy phó.

– Dương Văn Hiếu, Trưởng đoàn công tác đặc biệt Trung Việt tại Sài Gòn là chỉ huy phó.

Theo phiếu trình số 135/ĐCT/ĐB/TV/M ngày 23-4- 1960 của Dương Văn Hiếu, Ban chỉ huy Trung ương tổ chức 5 tiểu ban: Y tế, Tuyên huấn, Điều tra khai thác, Liên lạc, An ninh quân sự, tất cả hành quân từ Sài Gòn trên chiếc Hải vận hạm 400, tập kết tại Côn Đảo vào ngày 31-3-1960. Ngay buổi tôi hôm ấy, Tiểu ban điều tra khai thác đã tập trung thẩm vấn 88 can cứu Trại I vừa ly khai để tìm hiểu cơ cấu tổ chức và lãnh đạo của tù chính trị, 36 cốt cán của Trại I bị phát giác trong cuộc thẩm vấn bị cách ly tại Chuồng Cọp.

Sáng 1-4-1960, địch dồn toàn bộ tù chính trị “Trại Cộng sản” đang bị giam giữ ở Trại III, Trại IV và Chuồng Cọp ra 4 địa điểm tập trung ngoài trời:

– Địa điểm I ở Lò Vôi: 316 can cứu.

– Địa điểm II ở Chợ Côn Sơn: 285 can cứu.

– Địa điểm III ở An Hải: 257 can cứu.

– Địa điểm IV ở Hàng Dương: 285 can cứu.

Các điểm tập trung đều có hàng rào kẽm gai có lính bảo an, công an, mật vụ và trật tự an ninh uy hiếp. 12 tên cán bộ cải huấn, hầu hết là số đầu hàng phản bội đã từng được Dương Văn Hiếu đào tạo chia làm 4 tốp, thuyết trình “chuyển hướng”. Từ dinh Tỉnh trưởng, Ban chỉ huy chiến dịch theo dõi diễn biến tại các địa điểm và chỉ đạo qua máy bộ đàm.

Nhận thấy trình độ của bọn cán bộ cải huấn còn non yếu, chưa ứng phó được sự chất vấn của tù chính trị, 2 tên đầu sỏ Nguyễn Văn Y và Dương Văn Hiếu đã trực tiếp xuống các địa điểm, luân phiên thuyết trình vào ngày 2-4-1960. Vừa tác động tinh thần, chúng vừa dùng vũ lực uy hiếp. Ai tỏ thái độ chống đối là chúng bắt giữ, khai thác rồi cách ly tại Chuồng Cọp.

Ngày thứ 3 của chiến dịch, chúng dồn số tù nhân còn lại ở ba địa điểm về Hí Viện. Nắm được diễn biến tư tưởng của những tù nhân vừa ly khai, địch đánh trúng vào tâm lý muốn chuyển hướng đấu tranh lúc đó. Nguyễn Văn Y, Tổng quản đốc các trung tâm cải huấn đã dùng từ “chuyển hướng”, “qua Trại II” thay cho khái niệm “ly khai” có vẻ nặng nề về chính trị. Hắn nói: “Theo chủ nghĩa nào là quyền tự do của các anh. Tôi chỉ yêu cầu các anh qua Trại II để chúng tôi có thể đề nghị lên Chính phủ thả các anh về. Như vậy tôi thực hiện được chính sách nhân đạo mà các anh cũng không sứt mẻ gì về lý tưởng, lại được sum họp gia đình”.

Sau hơn ba năm đấu tranh, trực diện chống li khai, chống tố cộng, tù chính trị Trại I đã chịu nhiều hi sinh, tổn thất. Bảo vệ khí tiết là lập trường nguyên tắc, song về hình thức đấu tranh, nhiều người đã đưa ra quan điểm chuyển hướng đấu tranh, lùi một bước để bảo vệ cán bộ. Nếu cứ tiếp tục trực diện chống ly khai thì kẻ thù có thế tiêu diệt hết lực lượng trung kiên của Đảng. Trước nguy cơ tan vỡ không tránh khỏi, những đồng chí có trách nhiệm ở Trại I đã nhanh chóng thảo luận, nhận định tình hình và truyền miệng những ý kiến chỉ đạo sau:

1. Địch có thể dùng hộ máy khủng bố khổng lồ, dùng bạo lực để đánh bức số tù nhân Lao I qua Lao II, nhưng chúng sẽ phải trả giá đắt, phơi trần bản chất chế độ phát xít bạo tàn và vĩnh viễn không thể chinh phục được trái tim và khối óc của những tù nhân chính trị mà chúng đã cưỡng ép bằng lưỡi lê, họng súng.

2. Địch có thể tiếp tục đánh giết cao hơn, nhưng dù phải hy sinh đến người cuối cùng thì truyền thống bất khuất của Lao I cộng sản sẽ sống mãi với non sông, đất nước. Những anh em còn lại hãy quyết tâm quyết tử chiến đấu đến hơi thở cuối cùng, giữ vững ngọn cờ Đảng giữa lao tù Côn Đảo.

5. Những người sức chịu đựng có hạn, buộc phải qua Lao II phải đoàn kết thành Mặt trận tù nhân, tiếp tục cuộc đấu tranh chống mọi âm mưu thủ đoạn của kẻ thù, vươn lên khôi phục khí tiết, giành lại vị trí Lao I vinh quang”.

16 giờ ngày 3-4-1960, Mai Hữu Xuân ra lệnh kết thúc chiến dịch. Vài trăm người còn lại bị đưa ra sân banh, chia nhỏ ra từng tốp 10 người. Bọn cải huấn, thông tin, chiêu hồi, công an, trật tự bu lại, vừa dụ dỗ dọa dẫm vừa lôi kéo cưỡng bức. Từng người tù đều bị kiểm soát, giám sát, không được bàn bạc gì với nhau. Mỗi cá nhân phải chịu trách nhiệm về mình trước Đảng, tự chọn lấy một trong hai con đường: hoặc là quyết tử chống ly khai để nhận lấy cái chết trong sự đày ải nghiệt ngã, hoặc là chuyển hướng đấu tranh, chịu ly khai để sống trở về tiếp tục hoạt động.

Đến 19 giờ ngày 3-4-1960 còn lại 59 người kiên quyết nhất bị áp giải về Chuồng Cọp. Đoàn người lặng lẽ đi vào cửa tử thần. Họ tự nguyện chấp nhận cái chết để bảo toàn khí tiết, chết cho lí tưởng cộng sản, cho sự nghiệp giải phóng dân tộc.

Chiến dịch Bác Ái

Ngay sau chiến dịch, ngụy quyền cải tổ lại bộ máy nhà tù, tăng cường bóc lột khổ sai và cưỡng bức học tố cộng đối với tù chính trị đã ly khai, đồng thời tiếp tục mở chiến dịch Bác Ái nhằm thanh toán dứt điểm số can cứu chống ly khai còn lại. Bác Ái là một trong những chiêu bài của chủ nghĩa “Cần lao”, “Nhân vị” mà Diệm -Nhu đem ra lừa mị. Bác Ái là tên mới mà chúng đặt cho Trại III và Trại IV trong đó có hai dãy chuồng cọp đang giam giữ những chiến sĩ chống ly khai kiên cường nhất, song thực chất Chiến dịch Bác Ái là chiến dịch đẫm máu.

Mở đầu chiến dịch Bác Ái, mỗi ngày, bọn công an, trật tự khủng bố tù nhân ở chuồng cọp 3 lần vào buổi sáng, buổi trưa và buổi chiều. Ngoài ba trận đánh theo thường lệ, người tù chuồng cọp còn bị đánh bất kỳ lúc nào, không nhất thiết phải có lí do gì. Mỗi buổi chiều uống rượu say, chúng lôi tù ra đánh. Bị cấp trên khiển trách, chúng trút uất ức lên đầu người tù. Không có chuyện gì, chúng đánh tù để tiêu khiển. Bọn công an trật tự, cải huấn được chúng tuyển chọn từ những tên đầu hàng, phản bội, có tinh thần chống cộng và được kích thích bản năng thú tính để cắn xé đồng loại. Thấy người tù nào còn sức chịu đựng, chúng đánh cho kiệt quệ. người nào ốm yếu, chúng tăng đòn cho mau chết. Không khuất phục được thì chúng đánh cho tàn tật, mãn tù về cũng không bốc nổi hột cơm mà ăn. Bọn gác ngục đã nhiều lần công khai tuyên bố ý đồ của quan thầy chúng như vậy.

Trong gần 3 tháng đầu của chiến dịch Bác Ái, nhiều chiến sĩ trung kiên đã chết thê thảm ở chuồng cọp. Người đầu tiên là Nguyễn Văn Mai tức Nguyễn Thiện, tiếp đó là Lương Bằng (tự Trần Cửu) quê Bình Thuận. Anh Trần Văn Vị, bị đánh đến hấp hối, bọn trật tự khiêng anh ra bệnh xá chữa trị. Anh kiên quyết không đi và nói: “Tao thà chết ở chuồng cọp, ở vị trí chống li khai này chứ không đầu hàng tụi hay”. Vài giờ sau, anh tắt thở. Sinh viên y khoa Trần Hữu Đại bị đánh đến dập nát phổi, ho ra máu và sau đó đã hi sinh tại nhà thương Chợ Quán (Sài Gòn).

Anh Nguyễn Thanh Tâm bị đánh đập đến phát điên. Vài ngày trước khi chết, anh thường kêu tên mẹ, tên cha, tên vợ, kêu nhiều đến nỗi số anh em ở chuồng cọp lúc ấy thuộc hết tên tuổi, cha, mẹ, vợ anh. Tiếng kêu gào của anh cồn cào, đau đớn, nghe xé ruột xé gan giữa đêm âm u trong chuồng cọp lạnh vắng: “Ba má ơi! con thương ba má lắm nhưng bè lũ Mỹ – Diệm chúng giết con rồi”.

Thấy mặt bọn gác ngục là anh hô: “Đả đảo Ngô Đình Diệm”. Gặp người tù chính trị nào anh cũng tuyên bố: “Tao chưa phải là đảng viên nhưng tao chiến đấu cho chủ nghĩa cộng sản. Đứa nào ly khai tao bắn. Đứa nào động đến Hồ Chí Minh tao bắn”. Anh bắn súng miệng: “Pằng, pằng, pằng… pằng, pằng, pằng…” cho đến lúc giọng anh nhỏ dần và lịm hẳn. Anh ngã xuống khi mới ngoài hai mươi, độ tuổi đầy sức sống yêu đời.

Theo báo cáo đặc biệt ngày 28-6-1960 của Trưởng ty công an Côn Sơn, từ 25-5 đến 25-6-1960 “có 4 người đã chết tại chuồng cọp. Nhân số của Trung tâm cải huấn I lúc đó là 2.884. Riêng Trại Bác Ái có 2.591 trong đó có 40 người bị phạt kỷ luật và 53 người chưa ly khai”.

Dám chết cho lý tưởng cao đẹp đã khó, nhưng sống, chiến đấu bảo vệ lý tưởng trong xiềng xích, nanh vuốt, cạm bẫy của kẻ thù cũng khó khăn không kém phần. 53 chiến sĩ còn lại đã xác định lập trường dứt khoát không ly khai cộng sản, không đả đảo lãnh tụ của mình. Họ đã sẵn sàng hy sinh để vẹn toàn khí tiết, để bảo vệ lý tưởng cộng sản, song kẻ thù lại không cho họ chết một cách dễ dàng. Chúng buộc họ phải chết dần chết mòn, chết lay chết lắt, chết từng làn da thớ thịt, chết trong đau đớn dày vò triền miên, chết đi sống lại nhiều lần.

Không phải ai cũng có được sức chịu đựng phi thường như vậy, nhất là khi một mình trong chuồng cọp, không có đồng đội bên mình, không có tấc vũ khí trong tay, không có chút thông tin về ta và địch, không có một lời chỉ dẫn hoặc cổ vũ nào của tổ chức và đồng đội.

Khi thử thách vượt quá giới hạn chịu đựng của thể xác và tinh thần, đội ngũ trung kiên chống ly khai vơi dần, có người chết đau đớn, thê thảm, có người không chịu đựng được phải rời đội ngũ. Mỗi người một cảnh ngộ. Anh Phan Kiệm (tự Năm Thành) nguyên là Phó Bí thư Thành ủy Sài Gòn – Gia Định trong một lần trao đổi tình hình với anh Nguyễn Đức Thuận thì bị địch phát hiện. Chúng bắt anh đi điều tra và sau đó anh chịu chuyển hướng, ly khai.

Anh Hoàng Dư Khương, nguyên Phó Bí thư Xứ ủy bị đánh đến tàn phế, nằm liệt rồi chịu ra bệnh xá điều trị. Ngụy quyền Côn Đảo đã hạ thấp yêu cầu xuống mức tối thiểu để phân hóa đội ngũ trung kiên nhất. Chúng không bắt ký giấy ly khai, học tố cộng, hô khẩu hiệu, ký kiến nghị ủng hộ Diệm như trước. Bọn cải huấn chỉ yêu cầu “ra bệnh xá” trị bệnh, ai gật đầu hoặc im lặng thì chúng khiêng đi liền và xem như đã thanh toán được một “phần tử ngoan cố” tại chuồng cọp. Gần hai chục người đã rời khỏi đội ngũ vì thủ đoạn này.

Đi bệnh xá lúc ấy đồng nghĩa với việc chịu ly khai. Việc ra đi của các anh Phan Kiệm, Hoàng Dư Khương và một số chiến sĩ trung kiên là một tổn thất lớn, gây tác động tâm lý đối với số chống ly khai còn lại ở chuồng cọp và số đã ly khai ở các trại đang vươn lên phục hồi khí tiết.

Cuộc đảo chính của Nguyễn Chánh Thi (11-11- 1960) đã báo hiệu sự khủng hoảng trầm trọng của chế độ độc tài Ngô Đình Diệm. Dẹp xong cuộc đảo chính, Diệm – Nhu lại tiếp tục đàn áp các phe phái đối lập và những người kháng chiến. Để tỏ rõ lòng trung thành với chế độ Diệm, Tỉnh trưởng Lê Văn Thể đã tổ chức một đợt khủng bố đẫm máu nhằm thanh toán bằng được 18 người chống li khai còn lại.

Đại úy Tăng Tư thay trung úy Nguyễn Văn Út làm Phó Tỉnh trưởng theo Nghị định 129-NV ngày 26-12- 1960. Vừa lên chức, Tăng Tư tổ chức ngay đợt khủng bố với mức độ tàn bạo vượt xa những lần trước. Tăng Tư cho bọn trật tự khiêng lu lên nóc chuồng cọp, đổ đầy nước vào. Đêm đến, bọn này bắt từng người ngồi yên một chỗ rồi xối nước lên đầu. Hơn một tháng dầm mình trong nước lạnh, đêm đông gió rét, da dẻ ai cũng nhợt nhạt, lở loét, bầm tím, sưng phù.

Công an rình rập theo dõi phản ứng, bọn cải huấn thăm dò diễn biến tư tưởng, bọn trật tự đánh đập ban ngày, ban đêm xối nước. Mỗi ngày ở chuồng cọp, người tù phải lãnh đủ 24/24 giờ, căng óc ra mà đối phó. Hầu như lúc nào cũng có cặp mắt rình mò, soi mói. Bất thần chúng hiện ra, thấy một tiếng thở dài là bám riết tác động, có cử chỉ núng thế là lôi ra đánh ngay, phản ứng yếu ớt là chúng tăng đòn, lấn tới.

Trong cảnh ngộ đó, người tù phải cân nhắc mỗi ý nghĩ, hành vi, cử chỉ, khi nào ăn, khi nào không ăn, nói điều gì, không nói điều gì, lúc chịu đựng, lúc phản đối, sao cho không mắc cạm bẫy của kẻ thù, cố sống thêm từng giờ, từng phút mà đấu tranh, đẩy lùi tội ác, giành lại sự sống. Mỗi người tù chông ly khai còn lại đều ý thức được rằng, sự tồn tại của họ không chỉ có ý nghĩa cho riêng mình mà là hiện thân của chính nghĩa trước bạo tàn, của cái thiện trước cái ác.

Cuộc đấu tranh chống ly khai là nơi đối đầu cao nhất giữa những người cộng sản trung kiên và những tên đao phủ của một chế độ cực đoan đã đưa tố cộng, diệt cộng lên hàng “quốc sách”.

Kẻ địch thường đẩy người tù đến bên miệng hố tử thần, để họ phải day dứt, trăn trở, chết dần mòn từng giờ từng phút. Thế rồi chúng lại cho ăn uống bình thường để bản năng sinh tồn trỗi dậy, khát khao sự sống. Chập chờn giữa hai thái cực, giữa sự sống và cái chết, tư tưởng con người bị căng thẳng cao độ. Hầu như mỗi người tù chuồng cọp đều đã trải qua hàng chục, hàng trăm lần trăn trở, dao động, tìm đủ mọi thứ lý luận để biện hộ cho sự sống và cái chết, cho việc ly khai hay không ly khai.

Ngày 11-3-1961, Tỉnh trưởng Lê Văn Thể đã ký Sự vụ lệnh số 042/CS/VP/SVL nhằm thanh toán 18 can cứu chống li khai ở chuồng cọp. Sau hai tuần dùng đủ các thủ đoạn đường mật dụ dỗ không kết quả, bọn cải huấn bắt từng người viết bản xác nhận lập trường, cam kết chịu trách nhiệm về việc không ly khai cộng sản để chuyển giao cho công an, trật tự thanh toán bằng bạo lực.

Anh Nguyễn Văn Vinh tức Vạn quê ở Bình Định bị đánh đập và truy bức tư tưởng đến phát bệnh tâm thần. Có lúc anh ngẩn ngơ như người mất hồn, có lúc lại thương vợ nhớ con, gào khóc thảm thiết. Lúc tỉnh ra anh lại trăn trở, tâm tư cùng anh em. Bị giằng xé giữa hai thái cực, ly khai thì có tội với Đảng với Bác mà chống ly khai thì chết không thấy mặt vợ con. Anh đã chọn cái chết khi không đủ sức chịu đựng, chết để trọn lòng trung với Đảng, để khẳng định niềm tin tất thắng vào con đường đấu tranh, chết để chặn bàn tay tội ác của kẻ thù. Một tối, anh dùng đũa mài nhọn cứa cổ lấy máu viết lên khẩu hiệu “Hồ Chủ tịch muôn năm”. Sau đó anh hô to ba lần khẩu hiệu đó rồi cắt cuống họng để kết thúc, nhưng không thành.

Bọn trật tự xông vào chuồng cọp, đưa anh đi cấp cứu rồi tách riêng, tác động mạnh. Chúng đã thành thạo việc lợi dụng từng khe rạn nứt trong tư tưởng, tình cảm của mỗi người để đánh phá. Anh Vinh chấp nhận ly khai ngày 13-3-1961, sau 3 ngày của chiến dịch “can vận”. Kể từ đó, anh cấm khẩu luôn, không nói năng, không làm gì có hại cho Đảng, cho tập thể. Trường hợp của anh Vinh là một bi kịch thật xót xa.

Mười bảy chiến sĩ kiên cường còn trụ lại đã viết bản xác định lập trường. Anh Phan Trọng Bình viết ngắn nhất. Bản xác định lập trường của anh vẻn vẹn có 6 từ: Tôi không thể ly khai được và ký tên: Vũ Văn Mậu (tên trong tù của anh).

Anh Nguyễn Đức Thuận viết dài nhất, kín hai mặt tờ giấy ô vuông khổ lớn. Mỗi người một tâm tư, một đối sách với kẻ thù. Ai cũng khẳng định lập trường không ly khai Đảng, Bác. Từng nét chữ, từng gương mặt, từng cuộc đời đều gợi lên vẻ đẹp của những tấm lòng trung hiếu. Anh Nguyễn Minh (tự Sơn), sinh năm 1928 tại phường Đức Thắng ở thị xã Phan Thiết khẳng định đường lối kháng chiến chống Pháp và đường lối đấu tranh thông nhất nước nhà của Đảng Lao động Việt Nam và lãnh tụ Hồ Chí Minh là hoàn toàn đúng đắn, vi vậy anh dứt khoát không ly khai, dẫu có chết cũng vui lòng.

Anh Phạm Thành Trung (tự Đua) quê làng Mỹ Thuận, quận Cái Bè, tỉnh Mỹ Tho đã xác nhận lập trường như sau: “Tôi không thể ly khai Bác và Đảng cộng sản được. Tôi không biết quốc gia là gì. Vì vậy mà không ly khai”.

Anh Lê Văn Một (tự Phan Thành Trung) sinh năm 1928 tại Sóc Trăng viết: “Tôi không thể đả đảo Hồ Chí Minh được…”

Cùng nhóm với Lê Văn Một còn có Hoàng Chất và Phạm Quốc Sắc. Tờ xác nhận lập trường của Phạm Quốc Sắc nội dung như sau: “Tôi tên Phạm Quốc Sắc, xin xác nhận là không li khai Đảng cộng sản vì tư tưởng tin tưởng vào đường lối của cộng sản…”.

Tên cán bộ cải huấn Ngô Tứ Trung chịu trách nhiệm “can vận” ba anh đã bất lực phản ánh qua tờ trình ngày 27-3-1961: “… trong thời gian công tác, các can y được tôi săn sóc chu đáo, giải quyết thoả mãn các nhu cầu, giải thích cặn kẽ, ân cần khuyên nhủ, nhưng đến kêt luận là các can y vẫn một mực tôn thờ chủ nghĩa cộng sản đến cùng cũng như không thể đả đảo Hồ Chí Minh được. Trân trọng phúc trình thiếu tá để có thái độ trừng trị thích ứng đối với các can y đã tỏ thái độ ngoan cố”.

17 chiến sĩ chống ly khai còn lại đều phải trả giá bằng máu và mạng sống cho lập trường chống ly khai. Trận khủng bố đêm 27-3-1961 đẫm máu. Ông già Cao Văn Ngọc (Bà Rịa), các anh Phạm Thành Trung (Mỹ Tho), Ngô Đến (Khánh Hòa), Hoàng Chất (Hà Nội), Nguyễn Công Tộc (Bạc Liêu) hy sinh ngay trong đêm ấy. Anh Nguyễn Văn Mười (tự Hoàng Sơn) hấp hối, sáng hôm sau thì tắt thở. Anh Nguyễn Văn Định ngấm đòn đến 16 ngày sau mới chết.

Nguyễn Văn Mười sinh năm 1917 tại Cai Lậy (Mĩ Tho), xuất thân là dân giang hồ, theo kháng chiến, đánh giặc rất gan, làm Tiểu đoàn trưởng Bộ đội Hoàng Thọ. Anh xóa dần đi dấu vết giang hồ và xăm lên ngực hàng chữ “Suốt đời trung thành với Hồ Chủ Tịch”. Bọn gác ngục điên cuồng đánh đập anh không biết bao nhiêu trận. Chúng tuyên bố là sẽ đánh cho đến khi anh “từ bỏ lãnh tụ” mới thôi. Hoàng Sơn bộc trực, thẳng thừng nói: “Chúng mày có lột da, xẻo thịt, róc xương thì tao củng không từ bỏ lãnh tụ, tao cũng không ngừng chiến đấu”.

Trong trận đòn thù đêm 27-3-1961, anh luôn miệng hô khẩu hiệu “Hồ Chủ Tịch muôn năm” cho đến khi tắt thở. Lòng tôn kính vị “Cha già dân tộc” đã nâng anh từ một kẻ giang hồ thành chiến sĩ cách mạng và anh đã đi trọn lẽ sống của mình.

Ông già Cao Văn Ngọc sinh năm 1897 tại làng An Ngãi, quận Long Điền (tỉnh Bà Rịa, nay là tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu), xuất thân là hương quản, tham gia kháng chiến làm thư ký nông hội xã, khi bị bắt chỉ là cơ sở của chi bộ xã, nhưng ông là một trong số những người kiên cường nhất trong cuộc đấu tranh chống ly khai Đảng cộng sản, chống hô khẩu hiệu đả đảo Hồ Chí Minh.

Bọn cải huấn đã nhiều lần khiêu khích, vì sao ông không là đảng viên mà chống ly khai Đảng cộng sản, ông duyên nợ gì với Hồ Chí Minh mà lại phải chống hô khẩu hiệu? Ông đã hóm hỉnh trả lời: “Cụ Hồ giải phóng cho dân tộc khỏi ách nô lệ, tôi mang cái nợ đó, tôi phải trả suốt đời”.

Khi chỉ còn vài chục người chống ly khai trong chuồng cọp, không ít người đã dao động, suy tính chuyện sống hay chết thì ông động viên anh em: “Mấy chú là đảng viên, mấy chú được chiến đấu cho lí tưởng cộng sản, được chết cho lí tưởng cộng sản thì còn vinh dự nào hằng”.

Ông già Cao Văn Ngọc và sau đó là Lưu Chí Hiếu đã được tù chính trị xếp vào hàng những ngôi sao sáng nhất, những con người mà tâm hồn, tư tưởng và phẩm chất sáng trong như viên ngọc quý.

Cam kết quyết tử chống ly khai

Hơn một tháng sau trận đòn thù, mười người còn lại vẫn chưa gượng dậy được. Kẻ thù tiếp tục đày ải và đánh đập để truy bức, nhanh chóng xóa sổ những “phần tử ngoan cố” cuối cùng.

Anh Trần Trung Tín đã tuyệt thực đến chết để phản đối đợt khủng bố man rợ này. Anh tuyệt thực được 20 ngày thì Tỉnh trưởng Tăng Tư ra lệnh cúp nước. Anh trút hơi thở cuối cùng vào ngày 13- 8-1961. Lúc hấp hối, bọn cải huấn đem thư của vợ anh ra đọc, lấy hình vợ con vừa gửi đến cho xem, anh nhắm mắt, lặng im, quyết tử để giữ vẹn tấm lòng trung với Đảng với Bác Hồ, để lên án, ngăn chặn tội ác kẻ thù.

Cái chết của Trần Trung Tín đã chấm dứt đợt khủng bố ghê rợn của địch. Chúng mở cửa chuồng cọp, cho 9 người còn lại ra sân chơi, tắm giặt, ăn uống bình thường.

Kẻ địch đã ngỏ cửa, hạ thấp điều kiện đến tận cùng hòng thanh toán những can cứu chống ly khai ngoan cố nhất bằng các thủ đoạn lừa lọc. Ai khai bệnh là chúng đưa đi bệnh xá ngay, cho chữa trị dài ngày, không động đến chuyện ly khai, không bắt kí kiến nghị, hô khẩu hiệu như trước. Bọn cải huấn không đề cập đến hai từ “ly khai” nữa mà xúm vào vận động những người còn lại ra bệnh xá trị bệnh để chúng “đóng cửa chuồng cọp, dùng vào việc khác”.

Ngày 8-8-1961, anh Nguyễn Đình Đông xin ra bệnh xá điều trị.

Ngày 21-8-1961, anh Nguyễn Văn Điển cũng chấp nhận ra bệnh xá.

Việc ra đi của Nguyễn Đình Đông và Nguyễn Văn Điển khiến những người còn lại phải lượng sức chiến đấu của mình, của đồng đội. Trong đợt địch ngưng khủng bố, bảy người còn lại đã thảo luận về hai nguy cơ đặt ra lúc ấy là cái chết và sự ly khai. Nếu người cuối cùng trong họ không chết tại Chuồng Cọp mà ly khai thì có nghĩa là cuộc đấu tranh trong chống ly khai cộng sản trong gần sáu năm qua hoàn toàn thất bại. Bảy người còn lại là những “hạt gạo cội” trên sàng, là ngọn cờ cho hàng ngàn người tù chính trị đang vươn lên phục hồi khí tiết.

Theo báo cáo của đồng chí Nguyễn Đức Thuận tại Trung ương Cục khi được trả tự do (5-1964), Nguyễn Đức Thuận, người có cương vị lãnh đạo cao nhất trước khi bị bắt đã trao đổi với Phan Trọng Bình rồi đưa ra chủ trương “Nhượng bộ một phần trăm để cứu mạng sống”.

Lưu Chí Hiếu là người phản đối đầu tiên. Anh lết đến gặp Nguyễn Đức Thuận và Phan Trọng Bình tại sân tắm nắng trước cửa chuồng cọp nói:

– Các anh bàn gì thì bàn, nhưng đừng bàn chuyện ly khai Đảng, đừng quyết định cho tôi ly khai, tôi không đi đâu.

Anh còn nói với mọi người rằng:

– Đảng dạy chúng ta chiến đấu chứ không dạy chúng ta đầu hàng, dẫu chúng ta có hy sinh đến người cuối cùng thì thời gian và lịch sử sẽ báo cáo lại với Đảng, với Bác. Không thể ly khai được. Ly khai là làm sai tiếng nói lịch sử đấu tranh cách mạng của Đảng ta. Ly khai là cướp không xương máu của những người đã hi sinh.

Sau Lưu Chí Hiếu, các anh Nguyễn Minh, Lê Văn Một, Phạm Quốc sắc cũng phát biểu ý kiến, bày tỏ lập trường quyết tử chống ly khai. Anh Huỳnh Văn Khi đã cấm khẩu từ tháng trước, lúc đó cũng phều phào nói với Nguyễn Đức Thuận: “Các anh sao tôi vậy”.

Cuộc thảo luận trong những ngày ngắn ngủi giữa hai đợt khủng bố trở thành một đợt sinh hoạt chính trị vô cùng quan trọng, góp phần củng cố lập trường quan điểm cho bảy chiến sĩ kiên cường. Họ không nhượng bộ một phần trăm nào nữa mà cam kết cùng nhau Quyết tử chống ly khai với tinh thần tự lực chiến đấu, còn một người cũng chiến đấu, trong bất kì hoàn cảnh nào đều phải chống ly khai, chống tố cộng, chống chào cờ, bảo vệ bằng được khí tiết của người cách mạng, bảo vệ lý tưởng cộng sản, bảo vệ uy tín của Đảng, của Bác Hồ kính yêu.

Lưu Chí Hiếu đã thể hiện nối bật bản lĩnh của người cộng sản trong lần quyết định vận mệnh cuộc đấu tranh ly khai vào lúc hiểm nghèo.

Cam kết Quyết tử chống ly khai giống như một nghị quyết quan trọng nhất mà sau sáu năm với biết bao tổn thất hy sinh, những người tù chính trị đã có được.

Cam kết Quyết tử chống ly khai là lời tâm huyết của bảy con người đã sức cùng lực kiệt, đã chết đi sống lại hàng trăm lần trong đọa đày cùng cực. Họ đang chết dần, chết mòn từng phần, từng phần trên cơ thể để rồi hội tụ tất cả tinh hoa, khí phách anh hùng của chính mình và của đồng đội mình đã ngã xuống, tận hiến cho cuộc đấu tranh bảo vệ lý tưởng cộng sản quyết liệt nhất trong lao tù.

Bảy thân hình tiều tụy xiết chặt tay nhau trước dãy chuồng cọp. Họ ôm hôn, vĩnh biệt nhau. Từ giờ phút ấy, không ai còn thuộc về mình nữa. Họ đã tự nguyện đi vào cõi vĩnh hằng để gieo mầm cho lý tưởng cộng sản chiến thắng ngay trong ngục tù đế quốc.

Trong số bảy người, tình trạng sức khoẻ của anh Huỳnh Văn Khi là bi đát nhất. Huỳnh Văn Khi tự Nguyễn Văn Chỉ, sinh năm 1917 tại xã An Phước, quận Long Thành, tỉnh Biên Hòa (nay thuộc tỉnh Đồng Nai). Trận đòn thù đêm 27-3-1961, anh bị gãy 11 xương sườn, 2 xương quai sanh, mang thêm chứng kiết lỵ mãn tính. Hơn ba tháng ròng anh chỉ ngồi bó gối cạnh thùng cầu tiêu. Khi tấm thân tàn phế không còn lết được trên hai cánh tay gầy guộc nữa, địch khiêng Huỳnh Văn Khi ra bệnh xá (5-9-1961), đưa anh và những người bệnh nan y về đất liền rồi trả cho vợ anh một nắm da bọc xương chỉ còn thoi thóp thở. Đội ngũ chống ly khai còn lại 6 người.

Mùa đông năm 1961, địch xối nước nhiều hơn. Có đêm, chúng còn múc cả phân, nước tiểu, nước dơ, dầu nhớt xối xuống người các anh. Những trận đòn không kỳ hạn cùng cơm gạo trắng với mắm thối làm suy sụp nghiêm trọng cơ thể sáu ngọn cờ chống ly khai còn lại. Mạng sống của sáu người mong manh, lay lắt. Thấy Lưu Chí Hiếu ói ra máu mỗi ngày vài lần, địch tăng cường khủng bố hòng buộc anh hoặc là chết, hoặc ly khai.

Lưu Chí Hiếu đã chọn con đường quyết tử chống ly khai. Anh tuyên bố với bọn ác ôn chuồng cọp rằng, nếu còn tiếp tục hành hạ, truy bức tư tưởng tồi tệ kiểu này thì anh sẽ đập đầu chết ngay tại chuồng cọp. Bọn ác ôn điên cuồng tấn công. Đêm 24-12-1961, chúng xối xuống đầu anh 44 thùng nước. Anh hy sinh ngay trong đêm Chúa giáng sinh.

Lưu Chí Hiếu sinh năm 1913 ở làng Hương Cát, nay là thôn Hương Cát, xã Trực Thành, huyện Nam Ninh, tỉnh Nam Hà. Cha mẹ mất sớm, anh được người chú ruột nuôi dưỡng, cho học nghề thợ giày rồi lưu lạc từ Hải Phòng lên Hà Nội, sau đó vào Sài Gòn, tham gia phong trào Thanh niên Tiền phong (1945), rồi Ban công tác 4 (1946), Tiểu đoàn quyết tử Sài Gòn (1951), bị bắt ngày 6-7-1955, đày ra Côn Đảo (1957). Lưu Chí Hiếu là người chống ly khai cuối cùng hy sinh tại chuồng cọp.

Cái chết oanh liệt của Lưu Chí Hiếu đã chặn đứng đợt khủng bô của kẻ thù. Cuộc đời chiến đấu của Lưu Chí Hiếu, của ông già Cao Văn Ngọc và những đồng chí đã ngã xuống trong chuồng cọp Côn Đảo là những bản anh hùng ca bất diệt.

“Vũ lực không thể thắng được trái tim những người cộng sản”. Đại úy Bùi Văn Tám, phụ tá Tỉnh trưởng Côn Đảo đã một chân quỳ, một chân co trước cửa chuồng cọp mà nói với năm anh: Nguyễn Đức Thuận, Phan Trọng Bình, Phạm Quốc sắc, Nguyễn Minh, Lê Văn Một vào buổi sáng 11-1-1962 như vậy, khi chúng đã hoàn toàn bất lực, không thể khuất phục được các anh.

Toàn thể tù chính trị đã tôn vinh các anh là Năm

Anh – Năm ngồi sao sáng. Nhiều người tôn vinh các anh là Năm vị anh hùng dân tộc.

Tròn 5 năm kể từ chuyên lưu đày tù chính trị đầu tiên ra Côn Đảo (11-1-1957), kẻ thù đã thực hiện tất cả những thủ đoạn thâm độc nhất, tàn bạo nhất nhưng không khuất phục được trái tim và khối óc của những người cộng sản kiên cường. Năm trăm người đã ngã xuống nhưng năm người còn lại cuối cùng vẫn giương cao ngọn cờ quyết tử chống ly khai. Họ tồn tại như một chiến lũy của chủ nghĩa cộng sản giữa sào huyệt kẻ thù, giữa bốn bề nanh vuốt khủng bố của một chế độ chống cộng cực đoan và tàn bạo nhất.

Năm Anh còn phải chịu đựng nhiều trận đàn áp từ chuồng cọp, về Phú Lợi và trở lại Côn Đảo, song kẻ thù đã chịu thua, không còn truy bức tư tưởng, cưỡng ép li khai đối với năm Anh. Sau khi Ngô Đình Diệm đổ, năm Anh được trả tự do. Kinh nghiệm chiến đấu và chiến thắng của năm Anh được toàn thể tù chính trị Côn Đảo học tập và noi theo, vươn lên trong cuộc đấu tranh bảo vệ khí tiết.

Trại II – “Trại quốc gia” và những quan điểm đấu tranh

Trại I – Trại cộng sản, Trại chống ly khai là ngọn cờ, là đỉnh cao phong trào đấu tranh bảo vệ khí tiết của tù chính trị Côn Đảo. Bên cạnh đó, tù chính trị Trại II cùng tham gia cuộc đấu tranh bảo vệ khí tiết với những mức độ và hình thức khác nhau.

Nhân số Trại II tính đến tháng 12-1957 có 1.642 người, trong đó có 59 nữ, gồm đủ các thành phần: các giáo phái Hòa Hảo, Cao Đài, Bình Xuyên; thường dân bị tình nghi là cộng sản; nhân viên chính quyền Diệm do mâu thuẫn nhau mà phải ở tù và một bộ phận là tù chính trị. Ngụy quyền gọi Trại II là “Trại quốc gia”, nơi giam giữ những người đã ly khai cộng sản, quy thuận “chánh nghĩa quốc gia”, chịu học tố cộng.

Một số tài liệu trước đây, trong đó có tác phẩm Bất Khuất của Nguyễn Đức Thuận đã đánh giá không đúng về tù chính trị Trại II, cho rằng những người đã ly khai là đầu hàng, phản bội. Thật ra, không kể số tù giáo phái, chỉ có một số ít tù chính trị thuộc loại khuất phục, đầu hàng, còn đại bộ phận là do sức chịu đựng yếu và có những quan điểm khác nhau về mức độ và phương pháp đấu tranh.

Một quan điểm cho rằng đấu tranh trực diện như Trại I là quá tả, khi đã thất thế sa cơ, nằm trong tay giặc thì không thể chống lại bộ máy bạo lực khổng lồ. Chống là chết, mà chết hết thì còn ai tranh đấu. Nay cứ tạm chịu điều kiện của địch, sau được thả về sẽ hoạt động trở lại. Số người theo quan điểm này không nhiều, và sau đó, họ đã nhận thức được cuộc sống của người chiến sĩ cách mạng bao giờ cũng gắn liền với phẩm chất chính trị. Nếu dễ dàng chấp nhận điều kiện của kẻ thù thì họ sẽ bôi đen, bị đẩy tới con đường phản bội hoặc bị vô hiệu hóa.

Một quan điểm khác cho rằng cán bộ đảng viên phải bám sát quần chúng mà lãnh đạo. Trình độ giác ngộ và ý chí đấu tranh của quần chúng có hạn nên không thể nêu khẩu hiệu đấu tranh ở mức độ cao. Đảng viên phải hòa mình trong phong trào mà dẫn dắt quần chúng từng bước từ thấp lên cao. Song thực tiễn tranh đấu của Trại I cũng đã chỉ ra câu trả lời đúng đắn. Ngọn cờ chống ly khai của những chiến sĩ tiên phong Trại I là ngọn cờ, là ánh sao chỉ đường cho Trại II và toàn thể tù chính trị noi theo.

Quan điểm thứ ba, là khi chưa cần thiết, chưa bộc lộ lực lượng. Người cộng sản ở đâu cũng phải tổ chức và tranh đấu, với tất cả các hình thức từ thấp đến cao. Những người theo quan điểm này là nòng cốt trong các cuộc đấu tranh của tù nhân Trại II lúc ấy.

Trình độ giác ngộ và tinh thần chiến đấu của mỗi người đều có sự khác biệt, bởi thế, trước những thủ đoạn khủng bố ác liệt của kẻ thù, sự phân hóa về quan điểm đấu tranh trong lực lượng tù chính trị là không tránh khỏi, thậm chí không loại trừ tư tưởng cầu an ẩn chứa trong những quan điểm ấy. Tuy nhiên, mặt trận tranh đấu trong tù không loại trừ hình thức, mức độ đấu tranh nào, không loại trừ việc tập hợp lực lượng rộng rãi, kể cả những người cầu an, cả những người chỉ đủ sức tham gia những hình thức đấu tranh ở mức độ thấp.

Ngày 7-7-1957, kỷ niệm 3 năm chấp chánh của chính quyền bù nhìn, địch bắt tù nhân Trại II ký kiến nghị ủng hộ Ngô Đình Diệm, bôi nhọ Chính phủ Hồ Chí Minh. Theo Báo cáo ngày 29-7-1957 của Quản đốc Bùi Văn Năm, có 422 trong tổng số 1.375 tù nhân chống kiến nghị. Đây là cuộc đấu tranh chính trị đầu tiên của tù chính trị Trại II. Đợt chống kiến nghị phản động khẳng định rằng một bộ phận tù chính trị ở Trại II đả xác lập cuộc đấu tranh bảo vệ khí tiết với hình thức, mức độ, và trình độ nhận thức của họ lúc đó.

Tháng 5-1958, ngụy quyền tổ chức học tập bản “Tuyên cáo 6 điểm” ngày 26-4-1958 của Ngô Đình Diệm. Sau gần 2 tháng học tập, ngày 6-6-1958, địch bắt tù chính trị Trại II ký kiến nghị ủng hộ tuyên cáo của Ngô Đình Diệm để trắc nghiệm tư tưởng. Ngày đầu chúng thu được 705 chữ ký, còn 908 người không ký. Địch tăng cường khủng bô, rún ép, vớt vát thêm được 232 người chịu kí. Phúc trình không số của công an biệt phái Nguyễn Văn Hòa ngày 6-6-1958 đã xếp những người này vào diện kém tinh thần ký kiến nghị. Tất cả bị biệt giam, cấm cố trong các phòng 1, 2, 3. Một thời gian sau, 352 người không chịu nổi cảnh cấm cố phải xin ra, còn 324 người, kiên quyết chống bản kiến nghị phản động.

Cũng trong bản phúc trình nói trên, địch phát hiện số can cứu không kí kiến nghị ngày 7-7-1957 và ngày 6- 6-1958 “Hầu hết là người miền Trung, họ có tổ chức kết cấu từ tỉnh để tranh đấu mọi hình thức khi cần thiết”.

Địch phát hiện khá chính xác. Chuyến lưu đày tù chính trị miền Trung ngày 17-5-1957 ra Côn Đảo địch đưa thẳng về Trại II giam vào 5 phòng, trong một tuần lễ, chúng chưa đặt điều kiện gì. Đoàn gồm 409 tù chính trị (12 nữ) thuộc các tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên – Huế, Quảng Nam – Đà Nẵng, Quảng Ngãi.

Theo Bản tổng kết của Ban liên lạc tù chính trị Côn Đảo tỉnh Thừa Thiên – Huế, thực hiện tháng 4- 1989, do Nguyễn Xuân Tốn chấp bút thì ngay khi lên tàu, đại diện của 4 tỉnh đã liên hệ với nhau, hình thành bộ phận trách nhiệm, tập hợp và chỉ đạo lực lượng tù chính trị theo từng tỉnh.

Cũng theo bản tổng kết này, những người có trách nhiệm trong đoàn tù bốn tỉnh mới ra đã liên hệ được với Huỳnh Văn Tửng trong số ra trước đó, nắm được thủ đoạn phân hóa, cưỡng bức ly khai của địch, biết rõ lực lượng kiên cường chống ly khai đang bị biệt giam tại Trại I – Trại cộng sản, còn Trại II là Trại “quốc gia” đang giam giữ số chịu ly khai cộng sản. Nội bộ đoàn tù 4 tỉnh có 3 loại ý kiến:

– Có khoảng 60 anh em quan niệm rằng nếu địch không đặt điều kiện cũng không ở lại Trại II (trại ly khai) mà phải đấu tranh, đòi hỏi địch đưa qua Trại 1 (Trại cộng sản kiên cường).

– Một số khác nêu ý kiến vì mới ra đảo, sức khỏe yếu, có thể tạm thời chịu điều kiện, để bồi dưỡng sức khỏe, củng cố đội ngũ rồi hãy đấu tranh.

– Ý kiến thứ 3, được đông đảo những người có vai trò lãnh đạo tán thành là người tù không đòi hỏi ở trại nào. Nếu địch để ở Trại II mà không bắt ký giấy ly khai thì cứ ở. Nếu địch đặt điều kiện xúc phạm khí tiết thì tuyên bố chống. Ý kiến này đã trở thành chủ trương chỉ đạo trên 400 tù chính trị ra ngày 17-5-1957.

Hơn một tuần sau, đại úy Quản đốc nhà tù Bùi Văn Năm ra lệnh cho đại diện 5 phòng mới ra lập danh sách ly khai tập thể, đại diện ký vào để báo cáo lên Ban Quản đốc.

Sau đợt chống ký kiến nghị ngày 7-7-1957, đại diện các tỉnh đã bí mật họp tại khám 2 cử ra Đảng ủy lâm thời do Trần Quang Hiệu (Phú Yên) là Bí thư cùng các Đảng ủy viên: Lê Quang Ngọc (Quảng Ngãi), Nguyễn Quýnh, tức Tôn (Thừa Thiên), Hoàng Văn Tửng, Phan Văn Ký (Nam Bộ).

Việc một bộ phận tù chính trị không chịu đựng được mức đày ải, truy bức trường kỳ và tàn bạo ở Côn Đảo, phải chấp nhận điều kiện của địch là không tránh khỏi. Song sự kiện một số người có cương vị cao trước khi bị bắt, tự tập hợp thành bộ phận trách nhiệm (có lúc lấy danh nghĩa Đảng), chủ trương ở lại Trại II – Trại “quốc gia” đã có ảnh hưởng lớn đến tinh thần chiến đấu của tập thể đoàn tù chính trị miền Trung.

Ký giấy ly khai tập thể, chịu điều kiện của địch ngay từ khi đặt chân lên đảo là chưa đánh giá đúng phẩm chất cách mạng và tinh thần chiến đấu của đội ngũ tù chính trị. Điều đó dẫn tới sự phản ánh sai lạc tương quan lực lượng chung, làm giảm sức chiến đấu và phẩm chất khí tiết của tù chính trị, nhất là khi đã biết rõ âm mưu phân hoá, thủ đoạn tố cộng của địch, biết địch đã thanh lọc tù chính trị thành Trại cộng sản (Trại I, chỏng ly khai) và Trại quốc gia (Trại II, chịu ly khai) mà vẫn dùng lý luận ngụy biện cho hành động hạ thấp khí tiết của mình.

Tuy nhiên, về phương diện khác, nhiều thành viên trong Ban lãnh đạo đoàn tù chính trị miền Trung đã tham gia Đảng ủy lâm thời, trở thành hạt nhân đoàn kết, lãnh đạo cuộc đấu tranh của tù chính trị Trại II từ thấp lên cao, hình thành mặt trận tù nhân, phôi hợp với Trại I, và hỗ trợ được nhiều cho cuộc đấu tranh của Trại I. Hai đợt chống kiến nghị ngày 7-7-1957 và ngày 6-6-1958 đã khởi đầu cuộc đấu tranh vươn lên bảo vệ khí tiết của tù chính trị Trại II.

Trong lúc Trại I giương cao ngọn cờ chống li khai thì Trại II liên tục đấu tranh chống học tập tố cộng bằng nhiều hình thức. Năm 1958, Ban tố cộng Trại II thuyết trình tài liệu “Cộng sản với cuộc kháng chiến của dân tộc Việt Nam”, nội dung xuyên tạc lịch sử, rằng cuộc kháng chiến chống Pháp lúc đầu có tính chất quốc gia, sau cộng sản khủng bố các đảng phái, cướp công kháng chiến, lái kháng chiến theo con đường cộng sản, thực hiện chủ nghĩa tam vô: không gia đình, không tài sản, không tôn giáo…

Tài liệu này đã gây một luồng phản ứng mạnh mẽ khắp Trại II. Nhiều tù nhân Trại II đã dũng cảm đứng lên vạch mặt “quốc gia” giả hiệu của ngụy quyền tay sai, bảo vệ chân lý lịch sử, bảo vệ uy tín của Đảng và Bác Hồ, bảo vệ chính nghĩa của sự nghiệp cách mạng. Mỗi buổi học tố cộng, bọn công an, cải huấn, trật tự thường theo dõi và cảnh cáo “phần tử ngoan cố” tra khảo, phạt xà lim, tạo cớ đánh đập. Biện pháp “cứng rắn” thì nhà tù không thiếu, nhưng chúng luôn luôn bất lực là không thể đem “chủ nghĩa quốc gia” để cải tạo tư tưởng cho tù nhân và không thể nào bôi nhọ được uy tín của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Mùa hè 1959, Ban cải huấn tổ chức trình diễn vở kịch “Giấc mơ kinh khủng” do Nguyễn Phương, một tù tay sai trong Ban văn nghệ soạn. Vở kịch nói về một nữ sinh từ bỏ đô thành tham gia kháng chiến, sau bị bạc đãi. Kết cục là những lý tưởng cao đẹp của cô đã biến thành “giấc mơ kinh khủng”. Hàng trăm tù chính trị câu lưu ở các phòng 1-2-12 và một số phòng khác đã phản đối, không xem. Ngày hôm sau, địch bắt tất cả số tù nhân không xem kịch ra lội nước, vét bùn, đắp đập Hồ Sen, không cho đội nón, không cho uống nước một ngày ròng dưới nắng hè đổ lửa và roi vọt. Ai say nắng, khát nước, ngơi tay là chúng đánh đập tàn tệ. Máu tù nhân loang đỏ bờ đập. Từ đấy, đập Hồ Sen mang tên đập “Giấc mơ kinh khủng”.

Ngày 26-10-1959, “quốc khánh” Việt Nam cộng hòa, ngụy quyền Côn Đảo bắt tù chính trị Trại II ký kiến nghị ủng hộ Ngô Đình Diệm. Lực lượng chống ký kiến nghị vượt quá con số 800, song cũng giống như 2 lần trước, sau khi địch đàn áp, chỉ còn gần 400 trụ lại được. Đó là những người đã được sàng lọc qua hơn một năm tranh đấu. Một số người được Ban lãnh đạo Trại II giao nhiệm vụ liên lạc, địch vận, trật tự đã phải cắn răng nuốt hận ký vào bản kiến nghị phản động, chịu trá hàng để hoạt động nội tuyến phục vụ cuộc đấu tranh lâu dài.

Những người chông kí kiến nghị bị cấm cố tại khám một và khám 13, sau đó cưỡng bức lao động khổ sai với mức rất nặng. Bốn tháng sau, đến Tết nguyên đán Canh Tý (1960), địch mới giải toả đợt khủng bố này, ba tù chính trị Trại II đã chết vì tra tấn, đày ải. Trong thời gian này, Ban lãnh đạo Trại II đã liên hệ với tù án chính trị ở Trại III, dự kiến hình thành Đảo ủy, gồm:

– Một ủy viên ở Trại I (tượng trưng bằng ý kiến của tập thể Trại I).

– Hai ủy viên ở Trại II: Nguyễn Hài (tức Hân ở Huế), Tôn Diêm (Quảng Ngãi).

– Hai ủy viên ở Trại III: Lê Minh Nê, Nguyễn Thế Vịnh.

Trên thực tế, lực lượng ưu tú nhất của tù chính trị Trại I, trung tâm của cuộc đấu tranh bảo vệ khí tiết không tham gia Đảo ủy. Vì thế, những cố gắng của Ban lãnh đạo tù chính trị Trại II và Trại III để hình thành Đảo ủy mang tính chất mặt trận tù nhân, liên hiệp tranh đấu hơn là một Bộ tham mưu chiến đấu. Tổ chức Đảo ủy này chưa tiêu biểu cho bộ phận ưu tú nhất của tù chính trị đang đấu tranh một mất một còn để bảo vệ khí tiết cách mạng, chống ly khai Đảng, chống mọi thủ đoạn tố cộng, diệt cộng của kẻ thù.

Các thủ đoạn “tố cộng – diệt cộng” trong tù của Mỹ ngụy đã làm phân hóa và chia cắt rất sâu giữa các trại tù, giữa tù chính trị có án và không án, giữa tù cấm cố và tù khổ sai, giữa những người chống trực diện, chống toàn diện và những người chống có mức độ, chống từng lúc, từng phần. Chính vì vậy mà các tổ chức từng xưng danh là “Đảo ủy” trong giai đoạn này đều không tương xứng với danh xưng, bởi lẽ những đại biểu ưu tú nhất đã bị cấm cố nghiêm ngặt, không có điều kiện tổ chức và chỉ đạo. Ngược lại, người tù chính trị ở khu vực khổ sai có điều kiện liên lạc, tổ chức và hoạt động lại không đủ phẩm chất, năng lực và bản lĩnh trong vai trò “Đảo ủy”.

Đầu năm 1959, địch phát hiện ra bức thư của Ban lãnh đạo Trại II gửi Trại I qua anh Dũng ở kíp hoả thực (Nhà bếp), chúng bắt Nguyễn Hài, Nguyễn Quýnh, Phan Hoè, sau bắt thêm Cao Viết Bảo (cơ sở binh vận), tra tấn dã man nhưng không khai thác được tổ chức. Sau 20 ngày, Cao Viết Bảo anh dũng hy sinh, địch ngưng tra tấn, chuyến ba người còn lại sang chế độ cấm cố trường kỳ.

Ngày 19-10-1959, Trưởng ty công an Phú Yên đã lập hồ sơ gửi Tỉnh trưởng Phú Yên, đồng gửi Tổng giám đốc cảnh sát công an (Sài Gòn), phúc trình vụ “Đảo ủy Côn Đảo” qua cung xuất của Nguyễn Cước, cán bộ của tỉnh Phú Yên, giữ mối liên hệ với một tù chính trị tên là Mạng. Ty công an cỏn Sơn đã tổ chức điều tra, phối kiểm nguồn tin theo lệnh của Tổng giám đốc cảnh sát công an (Sài Gòn). Các anh Trần Quang Hiệu, Lê Quang Ngọc, Nguyễn Đình Thành, Thái Thọ Dương, Nguyễn Văn Biểu, Bùi Dục, Nguyễn Chiến và hàng chục người có liên quan bị bắt đi khai thác, cấm cố tại xà lim Trại II. Hồ sơ phúc trình thẩm vấn ngày 23-11-1959 của Ban An ninh cho biết 7 người có danh sách trên nằm trong Đảng ủy Trại II.

Bản phúc trình còn phát hiện 74 đội viên Đội cảm tử được chuẩn bị cho cuộc võ trang cướp đảo. Để đôi phó và răn phạt số chống đối ở Trại II, đồng thời ngăn ngừa một cuộc võ trang bạo động có thể xảy ra, bọn chúa ngục thanh lọc 285 người trong số đã 3 lần chống kí kiến nghị về Trại III, áp dụng chế độ cấm cố nghiêm ngặt. Những người bị khai báo, lộ mặt bị biệt giam tại chuồng cọp.

Sau 3 năm nỗ lực vươn lên, bộ phận tích cực nhất của tù chính trị Trại II đã đứng chung với Trại I trong một trận tuyến bảo vệ khí tiết, chịu chung một cảnh ngộ đày ải khắc nghiệt nhất. Họ đã cùng chịu chung chiến dịch khủng bố tháng 4-1960 do Mai Hữu Xuân cầm đầu. Sau trận ấy, 285 tù chính trị cốt cán thuộc Trại II cũ cùng với 799 người từ Trại I vừa bị rớt đã sát cánh vươn lên đấu tranh kiến tạo lập trường khí tiết.

Trung tâm Cải huấn I và chủ trương kiến tạo lập trường khí tiết

Kết thúc chiến dịch chuyển hướng (4-4-1960) địch xóa sổ cả Trại I “Trại cộng sản” và Trại II “Trại quốc gia”, thiết lập Trung tâm cải huấn I giam giữ tù câu lưu gồm các trại: Nhân Vị (Trại II cũ), Bác Ái (Trại III và Trại IV cũ) và Cỏ Ống. Có lúc, do nhu cầu của công việc khổ sai, địch mở thêm chi nhánh với các trại ở Bến Đầm, Sở ruộng Quang Trung.

Trại I cũ mang tên Trại cộng hòa, thuộc Trung tâm cải huấn II, giam tù án. Bản nguyệt trình số 235/NA/TTCH/M ngày 25-5-1960 của Tỉnh trưởng Lê Văn Thế cho biết: “Tổng số can cứu thuộc Trung tâm cải huấn I là 2.898, chết trong tháng 7 người, hiện diện đến 25-5-1960 là 2.891, tất cả là đàn ông, được phản chia thành hai loại: Loại A (đã ly khai): 2788; Loại B (chưa ly khai và bị kỷ luật): 103”.

Báo cáo đặc biệt của Ty công an Côn Sơn đề ngày 28-6-1960 cho biết: “Số can cứu thuộc Trung tâm Cải huấn I tính đến ngày 25-6-1960 là 2884, chết trong tháng 4, số chưa ly khai là 53, số bị kỉ luật là 40, còn lại được phân bổ như sau: Trại Nhân Vị: 1.414; Trại Bác Ải 959; Trại cỏ Ổng: 425”.

Địch nhận định rằng trong chiến dịch vừa qua, chúng mới làm được việc là dùng bạo lực cưỡng bức những người tù chính trị ly khai chứ chưa chinh phục được trái tim, khối óc họ. Bản Phúc trình số 135/ĐCT/ĐB/TV/M ngày 23-4-1960 của Dương Văn Hiếu, Trưởng đoàn công tác đặc biệt miền Trung, đã nhận định rằng việc chuyển hướng tư tưởng trên một ngàn tù nhân trong chiến dịch vừa qua “chỉ mới là thắng lợi trong giai đoạn đầu, vì chính trong phạm nhân li khai củng còn nhiều thành phần và động cơ tư tưởng phức tạp”.

Bản phúc trình đã dẫn có đoạn nhấn mạnh: “Côn Đảo là một trung tâm có địa thế biệt lập với đất liền, có hoàn cảnh dễ cô lập và trừng phạt củng như có điều kiện thuận tiện để cải huấn những phạm nhân Việt cộng nguy hiểm, cho nên phải biến Côn Sơn thành một trường huấn luyện quốc gia, cải tạo phạm nhân trở thành lực lượng chống cộng chứ không để cho chúng có thể lợi dụng để rèn luyện thêm ý thức cộng sản, càng tập trung đông đảo càng thành ra mối nguy cơ thường trực cho chế độ ta được”.

Trong thời điểm này, tâm trạng của tù chính trị câu lưu diễn biến rất phức tạp, phần lớn đã mệt mỏi về tinh thần, suy kiệt về thể xác. Không ít người mặc cảm, bi quan về sai lầm của mình, về thất bại tạm thời của cuộc chiến đấu. Một bộ phận tù chính trị hoài nghi về mục tiêu đấu tranh, về khả năng giành thắng lợi. Sự tan vỡ của Trại I – Trại cộng sản là một bài học đau xót. Hàng trăm người đã kiên cường tranh đấu và hi sinh anh dũng, nhưng rốt cuộc cả ngàn người vẫn thất bại, chịu điều kiện của kẻ thù. Vài chục người trực diện chống li khai cuối cùng trong chuồng cọp có thể bị địch giết hết nay mai. Liệu có tiếp tục đem thân xác và ý chí của người tù ra đấu chọi với đòn roi, súng đạn và sự bạo tàn không giới hạn mà có thể giành được thắng lợi?

Song chính vào lúc thấm thìa thất bại chua xót, thấm thìa nỗi cay đắng ê chề khi bị khuất phục, những người có trách nhiệm đã nung nấu ý chí vươn lên khôi phục lại vị trí đấu tranh bảo vệ khí tiết. Các anh Lương Chi (Lương Thạnh), Đặng Ngọc Cảnh, Nguyễn Hào (Nguyễn Thành), Nguyễn Ngọc Cao (Trần Văn Cao), Nguyễn Văn Nghĩa, Phan Xuân Nhị (tự Bình), cùng hàng chục anh ở Trại I vừa bị đánh rã còn điều trị ở bệnh xá đã tập họp nhau lại, bàn phương án đấu tranh vươn lên, khôi phục lại vị trí Trại I.

Một số người có trình độ lý luận như Hoàng Dư Khương, Trần Xuân Lê, Phan Kiệm (Năm Thành), Nguyễn Văn Hai (tự Quảng) cũng đã đóng góp ý kiến đế tổng kết kinh nghiệm đấu tranh của Trại I, xây dựng phương án đấu tranh vươn lên theo chủ trương kiến tạo lập trường khí tiết. Buổi đầu, chủ trương kiến tạo lập trường khí tiết được xác định là:

– Hạn chế tố cộng

– Củng cố đội ngủ, phá hệ thống mật vụ của địch

– Chống các kiến nghị tố cộng.

Sau nhiều cuộc thảo luận trong từng nhóm, từ bộ phận có trách nhiệm đến từng người tù trung kiên ở tất cả các trại, lực lượng tù chính trị ở Trại I vừa tan rã và lực lượng tù chính trị trung kiên ở Trại II cũ đã đoàn kết thành một khối, sát cánh bên nhau trong cuộc đấu tranh vươn lên kiến tạo lập trường khí tiết.

Một bản Quy ước chung được đúc kết từ các cuộc thảo luận thống nhất trong bộ phận trách nhiệm, rồi phổ biến (truyền miệng) đến từng người tù mang nội dung cơ bản như sau: “Kiên quyết đấu tranh chống học tố cộng, chống khổ sai, chống siết bóp đời sống, tiến tới xóa bỏ nội qui phản động, bảo vệ quyền lợi chính trị và dân sinh dân chủ của người tù, đồng thời sớm phục hồi vị trí chính trị, chuyển thế đấu tranh mạnh lên, buộc địch bị động đối phó để chia đòn, bảo vệ số anh em trực diện chống li khai trong chuồng cọp”.

Phương châm cơ bản của cuộc đấu tranh là:

– Kết hợp đấu tranh chính trị với dân sinh dân chủ, kiên trì, đấu tranh giành thắng lợi từ thấp đến cao, kết hợp các hình thức đấu tranh hợp pháp, bán hợp pháp và bất hợp pháp.

– Củng cô hệ thống tổ chức của tù nhân từ trên xuống dưới, từ trong trại đến các bộ phận ngoài trại, tăng cường giáo dục chính trị tư tưởng, xây dựng khối đoàn kết tù nhân.

– Phát động một phong trào sâu rộng trong đảng viên và quần chúng trung kiên, quyết tâm vươn lên chống học tố cộng, chống chào cờ ngụy, chống ký kiến nghị phản động. Trong bất kì tình huống nào, dù địch đưa đi đâu, dùng thủ đoạn gì, mỗi cá nhân mỗi bộ phận đều phải nắm vững phương châm hành động, tự lực chiến đấu.

– Đẩy mạnh công tác binh vận, mỗi người tù chính trị đều phải làm binh vận, tranh thủ, phân hóa cao độ kể thù, cô lập triệt để bọn ác ôn.

Cuối năm 1960, Quy ước chung và Phương châm cơ bản đã được bộ phận trách nhiệm phổ biến từng nhóm tù, kíp tù. Ban lãnh đạo chung của tù câu lưu được hình thành ở Trại Nhân Vị (Trại II) gồm: Nguyễn Văn Nghĩa (Biên Hoà), Nguyễn Hào (tức Nguyễn Thành ở Quảng Nam), Lê Tam tức Ngọc (Thừa Thiên), Lê Cân (Quảng Ngãi).

Trong các cuộc đấu tranh chống khổ sai hà khắc, tù nhân thường giữ thế hợp pháp, vận dụng những yếu tố pháp lý để tố cáo sự hà khắc của nhà tù và kiên trì đấu tranh. Song trên lĩnh vực đấu tranh chính trị, chống tố cộng, chống nội quy thì tù chính trị phải đứng ở thế bán hợp pháp và bất hợp pháp, nghĩa là bằng hành động hoặc trực diện không thừa nhận nội quy, quy định của nhà tù.

Bất cứ một thắng lợi nào đạt được ở nhà ngục này, tù nhân cũng phải đổi bằng máu của chính họ. Ngày làm khổ sai cật lực, tối học tố cộng đến khuya, theo phương châm bán hợp pháp, tù chính trị chống học tố cộng bằng cách ngồi ngả nghiêng, ngủ gà ngủ gật, nghe lơ đễnh, phát biểu xuyên tạc tài liệu, viện cớ làm khổ sai quá mức không học được.

Có một kiểu chống khá phổ biến ở các phòng là không nghe, không phát biểu ý kiến. Bọn cải huấn ra chỉ tiêu, khoán cho mỗi phòng mỗi đêm phải phát biểu từ 15 đến 20 ý kiến mới được nghỉ. Có đêm, chúng phạt bằng cách không cho đi tiêu đi tiểu, viện cớ mất trật tự. Anh Trần Nhơn người Bình Định đau bụng đi cầu, bị bọn trật tự ngăn lại làm anh té cả ra quần, chúng mới chịu thua.

Tổng kết đợt học tố cộng, bọn cải huấn tập trung tù nhân trước sân trại, bày trò phát thưởng. Sau bài diễn văn khai mạc của Đoàn cán bộ cải huấn, thiếu tá Tỉnh trưởng Lê Văn Thể được mời lên trao lá cờ vàng cho đại diện phòng 8 có thành tích xuất sắc trong học tập. Bọn cải huấn vỗ tay lẹt dẹt.

Tiếp đó anh Đặng Chí Hiền, đại diện phòng 1, phòng học kém nhất được mời lên nhận lá cờ đen từ tay vợ thiếu tá Thể, chủ tịch “phụ nữ liên đới” Côn Sơn trao tặng. Tiếng vỗ tay vang dội cả sân lao rồi chuyển thành nhịp vỗ 3 tiếng một, đón người đại diện của phòng học tố cộng kém nhất. Bọn chúa ngục phải thừa nhận rằng, tràng vỗ tay hoan nghênh lá cờ đen chính là cái tát vào chính sách cải huấn của chúng.

Biết tù chính trị đấu tranh có tố chức, địch bắt trên 40 người mà chúng nghi là cầm đầu đưa về chuồng cọp biệt giam, tra tấn suốt ngày, xối nước suô’t đêm. Cảnh đày ải cùng cực nhưng không ai còn trăn trở giữa cái sống và cái chết như trước nữa. Trái lại, những ngày tháng trở về chuồng cọp lần này là niềm an ủi, là sự chuộc lại lỗi lầm. Nhiều anh em bền bỉ chịu đựng và quyết tâm chiến đấu vươn lên. Trong đợt khủng bố bằng cách xối nước và cho ăn gạo trắng cuối năm 1960, anh Lê Thành Thân chịu đựng đến mức kỷ lục 34 ngày đêm liền. Anh đã tuyệt thực liên tục 29 ngày cho đến khi dịch phải ngưng xối nước. Anh Lê Quyết Chiến (Phú Yên) bị xối nước lạnh đến cấm khẩu không nói được. Các anh Trần Nga, Võ Đình Hiếu (Khánh Hoà), Đỗ Hằng (Gia Lai), Lê Quang Ngọc (Quảng Ngãi)… cũng bị xối nước ngót một tháng, đến khi gần chết địch mới ngừng lại.

Năm 1961, ngụy quyền Côn Đảo xin kinh phí 200.000 đồng trùng tu ngôi mộ chí sĩ Nguyễn An Ninh, lợi dụng tên tuổi ông để sơn phết cho chủ nghĩa “quốc gia” giả hiệu. Tù nchính trị câu lưu đã đấu tranh quyết liệt chống đào mồ cuốc mả tù nhân để mở con đường vào ngôi mộ của ông. Tỉnh trương Lê Văn Thể đến tận Nghĩa trang Hàng Dương trực tiếp chỉ huy cuộc khủng bố. Trên 50 tù chính trị vừa đấu lý với địch vừa gồng mình chịu đòn. Từ sáng đến trưa, bọn gác ngục đánh nát lưng tù, dập từng bó roi mây, máu người tù sống thấm đẫm xương cốt người tù quá cố. Cả kíp tù, lớp vào bệnh xá, lớp vào biệt giam, Chuồng Cọp.

Ngày hôm sau, kíp tù thứ 2 cũng chịu đòn và không ai nỡ đào bới xương cốt đồng đội mình. Con số chống đào mồ cuốc mả, chống nội quy, chống tố cộng, chống chào cờ bị đưa vào chuồng cọp cuối năm 1961 đã lên tới 70 người.

Trong lúc lực lượng tù chính trị câu lưu đang củng cố đội ngũ, đẩy mạnh đấu tranh chống địch thì Nguyễn Văn Hai (tự Quảng) phản bội. Hai Quảng là con một điền chủ ở Bạc Liêu, học đến tú tài, từng làm Bí thư nhiều tỉnh ở miền Tây Nam bộ, trước khi bị bắt là Thành ủy viên Sài Gòn – Gia Định. Quảng ra đầu thú tháng 10-1960, khai báo trên 30 cốt cán trong bộ phận trách nhiệm của tù chính trị câu lưu với toàn bộ hệ thống tổ chức từ Ban lãnh đạo trại đến các phòng giam, các chi nhánh Bến Đầm, Cỏ Ống, khai báo toàn bộ chủ trương, phương châm, biện pháp đấu tranh vươn lên kiến tạo lập trường khí tiết của tù chính trị.

Vụ phản bội của Hai Quảng làm đổ máu hàng chục tù nhân cốt cán, làm cho các cuộc đấu tranh của tù chính trị đều bị địch khủng bố ngay từ khi mới nổ ra. Tù chính trị đối phó bằng cách phản cung, cô lập và bác bỏ hoàn toàn lời khai của Hai Quảng làm cho địch không tin hắn. Tiểu ban điều tra cho đối chất cũng không ai nhận. Hai Quảng nổi khùng xông vào đấm đá, cắn xé, bóp huyệt anh Trần Xuân Lê.

Hai Quảng còn hiến kế cho địch Kế hoạch tranh thủ gồm 5 bước nhằm đánh gục hoàn toàn những người mang tư tưởng lừng chừng, xây dựng hạt nhân điển hình tố cộng và trừng phạt, ngăn chặn ảnh hưởng của số ngoan cố vẫn giữ lập trường cộng sản. Dấn sâu vào con đường tội lỗi, Hai Quảng làm bản phản tỉnh lần thứ nhất vào ngày 10-4-1961, phản tỉnh lần thứ 2 ngày 12- 4-1961 và lần thứ 3 ngày 15-4-1962, khai báo và vẽ sơ đồ 62 cơ sở tại Sài Gòn mà các đồng chí Nguyễn Văn Linh, Trần Bạch Đằng, Huỳnh Tấn Phát, và nhiều cán bộ Thành ủy thường qua lại, khai báo lộ trình giao liên của Xứ ủy từ Sài Gòn đi Nam Vang.

Mấy năm sau, Hai Quảng được trả tự do với điều kiện nhận làm mật báo viên cho Tổng nha cảnh sát và công an ngụy, rồi bị bỏ rơi vì không được việc. Nhục nhã vì thân phận của một tên phản bội, hắn tự sát sau ngày miền Nam được hoàn toàn giải phóng.

Ngoài Hai Quảng, còn có vài tên phản bội, tình nguyện làm tay sai cho địch, trở thành trật tự ác ôn như Dương Thành Tâm, Lý Ngọc Phẩm, Võ Tâm Tư… Một số khác chừng vài chục người tham gia vào Ban chấp hành trại, Ban trật tự an ninh, Ban tố cộng, Ban văn nghệ với thái độ và mức độ chống cộng khác nhau.

Nhúm người này bị chìm trong phong trào đấu tranh của hàng ngàn tù chính trị, kể cả những người đã từng sai lầm, vấp ngã. Chính nỗi đau đớn, dày vò cả về thể xác và tinh thần khi bị thất bại, sai lầm đã giúp họ sức mạnh để giành lại vị trí chính trị trên mặt trận đấu tranh trong tù.

Công tác địch vận đã góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh của tù chính trị. Các anh Phan Phước, Nguyễn Văn Hưởng, Nguyễn Tấn Thanh (tự Trạch), anh Yến được cài vào Ban trật tự từ nhiều năm trước đã giữ thế hợp pháp để hoạt động.

Ban lãnh đạo tù chính trị cử anh Lê Văn Thả chỉ đạo bộ phận y tế chăm lo sức khoẻ cho anh em. Lê Văn Thả là kĩ sư điện tử, tốt nghiệp ở Pháp về, có nghiên cứu về y, dược. Kíp y tá có Phan Thanh Nhàn, Trần Tiên, Phạm Đồng, Lê An, Lê Bá, Lê Siêng, Huỳnh Văn Long (tự Hộ), Lê Trắc (tự Dậu), Nguyễn Văn Chung, Phan Chấp, Bùi Văn Tám, Nguyễn Ba (tự Long), Huỳnh Công Táng, Huỳnh Công Hải, Lê Thành Ân, Trần Thanh Chí phục vụ tại bệnh xá và một số người khác phục vụ tại các trạm xá trung tâm. Có người từng là y tá, cứu thương trong kháng chiến, có người mới học nghề y khi vào tù.

Phan Thanh Nhàn là y tá cứu thương trong bộ đội Hoà Hảo nhưng tích lũy được nhiều kinh nghiệm và chịu khó nghiên cứu sách y học. Công chức, gác ngục gọi anh là “bác sĩ tù” khi anh xử lý thành công một ca đẻ khó, có nguy cơ dẫn đến tử vong cả hai mẹ con sản phụ. Nhờ ân tình từ ca bệnh ấy, thượng sĩ Nguyễn Viết Hội, trưởng trại Bác Ái đã tạo điều kiện cho Phan Thanh Nhàn và tổ y tế vào điều trị, cấp thuốc cho các chiến sĩ chống ly khai ở chuồng cọp.

Được trưởng trại Nhân Vị Nguyễn Văn Liêu và Trưởng Ty y tế Lê Vân Trang đồng ý, tổ bào chế thuốc đã mượn các dụng cụ y tế huy động các loại nguyên liệu kiếm được trên đảo như cóc, khỉ, dê, huyết bò, huyết heo để bào chế thành filatov viên, hépathémo và nhiều loại thuốc bổ khác. Sau khi thử nghiệm thành công, tố bào chế đã cấp thuôc, cấp filatov dạng viên cho 400 tù chính trị. Trong quá trình điều trị chứng suy nhược cơ thế cho vợ Thượng sĩ Liêu, tổ điều chế đã cung cấp hàng ngàn liều thuốc bổ cho tù chính trị.

Phan Thanh Nhàn còn nâng cao uy tín cho lực lượng y tế tù chính trị thông qua ca chữa bệnh đặc biệt cho Huỳnh Đại, một tù chính trị người Hoa. Huỳnh Đại là chủ sòng bạc Đại Kim Chung, nhà hàng Đại La Thiên, chủ khu Đại Thế Giới cùng nhiều cơ sở ăn chơi nổi tiếng trong giới tài phiệt ở Chợ Lớn. Đại bị tù trong đợt chính quyền Diệm tảo thanh Bình Xuyên vì tội cung cấp tài chính cho Bảy Viễn. Trải qua nhiều nhà lao, tất ca các chúa ngục đều nể Đại. Đại mắc một chứng bệnh nan y về đường ruột mà các bác sĩ của ngụy quyền đều không chẩn đoán được.

Bằng tất cả kinh nghiệm thực tiễn và dày công học hỏi, Phan Thanh Nhàn phát hiện ra một viên sạn lớn đã tích tụ lâu năm trong ruột bệnh nhân và xử lý thành công, đẩy viên sạn trôi dần về phía hậu môn, gắp ra. Sau lần ấy, Huỳnh Đại tạ ơn cứu mạng, viết thư về nhà nhờ mua hàng trăm lọ Pénixinine và nhiều loại thuốc bổ tặng tủ thuốc của tù chính trị. Đại từ bỏ cả đặc quyền mà phó tỉnh trưởng Tăng Tư cho ở lại tư dinh, xin được vào trại ở chung với tù chính trị.

Phan Phước tức Phan Đình Phước sinh năm 1926 tại ấp Dạ, núi Tròn, xã Tịnh Minh, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi, con ông Phan Tuy và bà Bạch Thị Tôn. Nhờ có bản lý lịch suôn sẻ, là giáo viên chỉ tham gia liên lạc cho Việt cộng nên đã được bộ phận trách nhiệm cấy vào hàng ngũ trật tự từ những ngày ra đảo, chui sâu vào trật tự chuồng cọp. Anh giữ đầu mối liên lạc, tiếp tế rất quan trọng, góp phần đắc lực trong việc nuôi dưỡng, bảo vệ tính mạng các chiến sĩ chống ly khai ở chuồng cọp.

Phan Phước là con thoi phối hợp chủ trương và hành động giữa lực lượng chống ly khai và lực lượng vươn lên kiến tạo lập trường khí tiết ở các trại. Do công tác yêu cầu tuyệt đối bí mật, anh phải chịu tiếng là phần tử ly khai, phản bội, làm tay sai cho địch. Đến ngày được trả tự do, trở về với đội ngũ, tiếng xấu còn mang theo cho đến khi anh ngã xuống trên chiến trường miền Trung. Phan Phước chỉ là một trong nhiều trường hợp thầm lặng hy sinh, chịu đựng những nỗi cay nghiệt trên mặt trận nhà tù thầm lặng ấy.

Ở Côn Đảo còn có 50 tù nhân người Hoa mang quốc tịch Trung Quốc bị câu lưu vì tội chống chủ trương cưỡng bức nhập quốc tịch Việt Nam cộng hoà dưới chế độ Diệm. Ngoại trừ một vài trường hợp tham gia bộ máy trật tự, đàn áp tù nhân như Huỳnh Bắc, Lý Sanh, còn đại bộ phận đã tham gia mặt trận đấu tranh của tù chính trị. Họ có quan hệ tốt, giúp việc cho nhiều công chức, kể cả Phó Tỉnh trưởng Tăng Tư. Nhờ đó, số tù chính trị Hoa kiều đã thu thập được nhiều tin tức quý từ báo, đài và từ miệng các công chức, gác ngục.

Năm 1961, Mỹ – ngụy đánh giá công tác cải huấn đã đạt được nhiều kết quả trong các nhà tù, kể cả Côn Sơn là nơi giam giữ các phần tử cứng đầu nhất. Những can cứu xét tội trạng không có gì nguy hiểm được đề nghị trả tự do. Hành động chống đối của họ được giải thích là do bị giam giữ lâu ngày nên sinh ra bất mãn. Hai đợt trả tự do số lượng lớn diễn ra vào tháng 7 và tháng 10-1961, 75 can cứu chống ký kiến nghị “tri ân Ngô Tổng thống” trước khi được trả tự do đã bị giữ lại Côn Đảo.

Ngày 30-8-1962, địch chuyển 500 can cứu về đất liền, trong đó có 153 can cứu mãn hạn sẽ phóng thích vào dịp Quốc khánh ngụy (26-10) và 347 can cứu sắp mãn hạn, đưa về an trí tại Trung tâm Cải huấn Phú Lợi. Lực lượng tù chính trị Côn Đảo về Phú Lợi đã tạo ra một phong trào chống nội quy nhà tù sôi nổi, lôi kéo nhiều tù nhân ở Phú Lợi tham gia. Bị chuyển về Tân Hiệp (Biên Hòa), lực lượng tù chính trị đã trở thành hạt nhân đoàn kết và tranh đấu ở nhà lao này.

Một bộ phận tù chính trị ở Côn Đảo về bị đưa đi làm ấp chiến lược ở Năm Căn (Cà Mau) đã tổ chức vượt ngục về kháng chiến. Một bộ phận khác được coi là “phần tử nguy hiểm” bị địch chuyển qua các nhà lao Tàng Thơ (Huế), Thanh Tân Ồ Ồ (Quảng Trị). Đi đến đâu, lực lượng tù chính trị Côn Đảo cũng tuyên bố chống chào cờ, chống nội quy, cổ vũ tinh thần tranh đấu của tù nhân các nhà lao ở đất liền. Sau cùng, ngụy quyền Sài Gòn đã gia hạn an trí, đày họ trở lại Côn Đảo (5-2-1964).

Vươn lên khôi phục khí tiết, lập lại Trại I

Từ tháng 8-1962, lực lượng tù chính trị câu lưu còn ở lại Côn Đảo đã phát triển cuộc đấu tranh kiến tạo lập trường khí tiết lên một giai đoạn mới. Đó là giai đoạn vươn lên quyết liệt, giành lại vị trí bảo vệ khí tiết, chống toàn bộ nội quy nhà tù.

Chủ trương dùng bạo lực cách mạng, võ trang khởi nghĩa của Đảng ta và tin tức về phong trào cách mạng miền Nam từ khi có Nghị quyết 15 đến Côn Đảo làm cho tù chính trị rất phấn khởi. Bộ phận trách nhiệm của tù chính trị câu lưu chỉ đạo đẩy mạnh đấu tranh chống khố sai quá sức đi đôi với nâng cao nhận thức tư tưởng, sẵn sàng vươn lên chống toàn diện khi có điều kiện và chỉ đạo một đợt học chính trị trong toàn lực lượng, quán triệt sâu sắc các tài liệu: Đường lối cách mạng miền Nam, Chỉ thị bảo vệ khí tiết, Bôn quan niệm về nhà tù của Lênin, Sáu tiêu chuẩn đảng viên, Tám kinh nghiệm chiến đấu của Năm Anh.

Tám kinh nghiệm do các anh Nguyễn Đức Thuận, Phan Trọng Bình cùng tập thể chiến đấu trong chuồng cọp tổng kết, phổ biến truyền miệng, trở thành bài học “nằm lòng” vô cùng quý giá cho lực lượng tù chính trị đang đấu tranh vươn lên. Nội dung cơ bản của Tám kinh nghiệm là: “Đặt lên hàng đầu nhiệm vụ đấu tranh bảo vệ khí tiết; Thống nhất tư tưởng, ý chí và hành động;

Đoàn kết chiến đấu; Biết tranh thủ, thuyết phục kẻ thù; Tránh bộc lộ lực lượng, hạn chế tổn thất; và kinh nghiệm quan trọng nhất là Quyết tâm – Quyết tử – Tự lực – Trường kỳ”.

Không quán triệt sâu sắc khẩu hiệu này thì không bao giờ chiến thắng trên mặt trận bảo vệ khí tiết trong tù. Mỗi một từ, một ý trong Tám kinh nghiệm đều được từng nhóm tù nhân thảo luận thật kĩ, trân trọng và quán triệt như là học tập các nghị quyết của Đảng. Đợt học tập chính trị lần này mang tính chất dân chủ với tinh thần tự phê bình sâu sắc.

Mặc dầu chưa thành chủ trương, tù chính trị câu lưu đã chống chào cờ dưới nhiều hình thức: khai bệnh, giả đau bụng, ngồi trong nhà cầu không ra chào, đòi đi làm khổ sai sớm trước giờ chào cờ, hoặc ra chào cờ không hô, không hát. Năm 1962 có kiểu chống chào cờ tập thể của những người bị thần kinh.

Do bị tra tấn và truy bức tư tưởng nhiều năm, có hàng chục chính trị mang bệnh thần kinh nặng. Đến buổi chào cờ, khi trật tự hô “nghiêm” là những người này lên cơn động kinh té sấp, té ngửa, chân tay co giật, sùi bọt mép, mắt trợn ngược làm hàng trăm người khác phải xúm lại cấp cứu. Buổi chào cờ nào cũng rối loạn. Trưởng trại Nguyễn Văn Liêu quả quyết rằng số tù nhân này vờ động kinh để chống chào cờ, phá nội quy và đem nhốt tất cả vào xà lim, hàng ngày cho công an, trật tự tra khảo. Ba tháng liền theo dõi, trắc nghiệm tâm lý, cuối cùng chúng phải công nhận rằng họ bị động kinh thật.

Chính sách “tố cộng” đã làm cho nhiều người đau đớn, bị dày vò đến ngơ ngẩn, mất hồn. Anh Trần Đình Hoa bị điên cứ đi lang thang các phòng. Gặp bọn công an, cải huấn là anh thét lên: “A, Ngô Đình Diệm đây rồi, mày giết vợ tao, mày ăn thịt con tao. Bây giờ tao giết mày”. Thế là anh lao vào chúng để cào cấu và lần nào cũng bị chúng đánh chết ngất.

Sau này, trong Luận án Tiến sĩ y khoa, bảo vệ thành công năm 1972, bác sĩ Nguyễn Minh Triết đã gọi những căn bệnh thần kinh trong tù, bị kích động mạnh theo các phản ứng dây chuyền là bệnh Nộ Kinh. Các nhà y học có thể giải thích được hiện tượng suy nhược thần kinh, dẫn đến bệnh tâm thần do bị khủng bố, truy bức, hoặc do dấu tranh tư tưởng quá căng thẳng. Song có một điều mà bọn cai ngục không thể chấp nhận được là hầu hết những người mắc bệnh tâm thần ở Côn Đảo đều chống chào cờ ngụy, chống học tố cộng, đả đảo Ngô Đình Diệm, hoan hô Hồ Chí Minh. Trong lúc thần kinh rối loạn thì ý thức chính trị của họ lại rất tỉnh.

Theo bản báo cáo số 429/BQĐ/HC/01 ngày 12-10- 1962 của Ban quản đốc Trung tâm cải huấn, Côn Đảo khi ấy chỉ còn 499 tù chính trị câu lưu. Biên bản bàn giao ngày 16-7-1963 giữa cựu tỉnh trưởng Lê Văn Thể và tân tỉnh trưởng Nguyễn Văn Sáu cho biết, tổng số tù chính trị câu lưu khi đó là 519 người, bị giam ở Trung tâm cải huấn I, Thượng sĩ Nguyễn Văn Nghĩa làm trưởng Trung tâm, trung sĩ Ngô Thạnh Trị là trưởng an ninh trung tâm. Địch phân tán tù chính trị câu lưu, một bộ phận ở Trại IV (làm Nhà bếp và nội trợ), khoảng 60 người, còn đại bộ phận giam ở Trại III, bắt đập đá xây Trại V, cưỡng bức cả chủ nhật, gọi là ngày “cộng đồng”.

Lực lượng tù chính trị câu lưu củng cố tổ chức, bước vào một thời kỳ đấu tranh mới, vươn lên khôi phục toàn bộ khí tiết. Anh Lương Chi quê Quảng Ngãi, nguyên là cán bộ tỉnh Plâycu, được tập thể tín nhiệm trong cương vị lãnh đạo chung. Anh Đỗ Hằng (Plâyku) được cử cùng Trần Thám (Bình Định) và một vài người có trách nhiệm soạn thảo tài liệu Vươn lên khôi phục toàn bộ khí tiết, gọi tắt là Vươn lên.

Tài liệu được tổng hợp từ các cuộc thảo luận tập thể đã đúc kết khẩu hiệu đấu tranh lúc này là Toàn bộ khí tiết, nghĩa là không chỉ chống chào cờ ngụy, chống khẩu hiệu phản động nữa mà chống mọi thủ đoạn cưỡng bức tư tưởng, xúc phạm nhân cách tù chính trị. Tài liệu được những người có trách nhiệm truyền đạt, tố chức học tập và thảo luận theo từng nhóm, đến toàn thể tù chính trị câu lưu.

Vấn đề tổ chức chi bộ Đảng làm hạt nhân lãnh dạo được đặt ra một cách bức thiết. Anh Lương Chi đã nhiều lần tha thiết đề nghị với số cán bộ có trách nhiệm ở các phòng về việc cần phải thành lập tổ chức Đảng làm hạt nhân lãnh đạo cuộc đấu tranh.

Ngày 1-5-1963, trước hiên phòng 4, Trại IV, một bộ phận tù chính trị đã thành lập chi bộ mang tên Lê Hồng Phong, gồm: Lương Chi – Bí thư, Đặng Ngọc Cảnh – Phó Bí thư phụ trách tổ chức; Đỗ Hằng – ủy viên phụ trách tuyên huấn; Hoàng Phùng – ủy viên, đại diện đấu tranh. Chi bộ không kết nạp đảng viên mà chỉ tập hợp một số người theo nhu cầu lãnh đạo, giống như vai trò một cấp ủy. Các ủy viên khác có Trần Thám, Nguyễn Quýnh, Nguyễn Hài, tháng 10-1963 tập hợp thêm Nguyễn Thiện, Lê Quang Ba, Nguyễn Chấn, Bùi Dục. Tháng 12-1963 tập hợp Nguyễn Thành Tây. Chi bộ đề ra 3 nhiệm vụ trước mắt:

– Củng cố nòng cốt ở các phòng giam, các kíp tù.

– Tiếp tục đấu tranh đòi các quyền dân sinh, dân chủ.

– Chuẩn bị thực lực khi có điều kiện sẽ chống chào cờ.

Các cuộc đấu tranh trong thời kỳ “Vươn lên khôi phục toàn bộ khí tiết” đã diễn ra hết sức quyết liệt. Bọn chúa ngục đã phản kích bằng mọi cách: phạt cấm cố, còng xiềng, xà lim, chuồng cọp, bỏ đói, xối nước lạnh, đưa về Ban an ninh tra tấn, khai thác tổ chức, phạt đòn từ 50 đến 100 roi…

Nhiều thanh niên đã gan góc, xung phong đi đầu trong các cuộc dấu tranh chống học cải huấn, chống chào sĩ quan, chống lao công ngày chủ nhật cộng đồng và vươn lên chống chào cờ như Hồ Bồi, Nguyễn Xuân Ái, anh Tánh (ở Bình Định), Lê Quang Ba (ở Quảng Ngãi), Nguyễn Văn Mười tức Thương (Bình Thuận), Huỳnh Hà (Quảng Nam), Nguyễn Văn Sáu, Trần Văn Cam (Mỹ Tho), Trần Văn Tuân (Bến Tre). Các anh đã kiên cường chịu hàng chục hình phạt, hàng trăm trận đòn đến nát lưng, thịt rơi, máu đổ để duy trì phong trào, củng cố đội ngũ, vươn lên bảo vệ vị trí chính trị của người chiến sĩ cách mạng.

Sáng 2-11-1963, được tin giới quân sự ở Sài Gòn làm đảo chính, chi bộ Lê Hồng Phong đã phát động cuộc đấu tranh chống hô khẩu hiệu phản động. Trại IV lúc đó có 450 tù chính trị. Phòng Nhà bếp có khoảng 60 người được chi bộ quyết định ở lại lo việc ăn uống và thông tin liên lạc. Số còn lại được huy động vào cuộc đấu tranh.

Giờ chào cờ sáng 3-11-1963, địch bỏ khẩu hiệu “ủng hộ Ngô Đình Diệm” thay vào đó là “ủng hộ quân lực Việt Nam cộng hoà”. Trên 400 tù chính trị câu lưu đã không hô, không hát. Các anh Lê Quang Ba, Phạm Minh Sáu, Nguyễn Văn Tâm đứng ra tuyên bố không ủng hộ bất cứ tổ chức nào của chế độ Sài Gòn. Ba anh bị đưa vào chuồng cọp.

Những ngày tiếp theo, địch đưa thêm 22 người nữa vào biệt giam. Trừ phòng Nhà bếp, các phòng còn lại đều bị cấm cố, bớt cơm, bớt nước uống, không cho tắm giặt. Gần một tháng bị cấm cố, các phòng trao đổi và quyết định đấu tranh bằng hình thức tuyệt thực. Các anh Đỗ Hằng, Tô Thành, Lê Quang Ngọc đã đặt ra mật mã (MORSE) để liên lạc. Bản mật mã được chia làm 25 ô (mỗi chiều 5 ô). Mỗi chữ cái trong ô ký hiệu bằng 2 chữ số theo hàng ngang, hàng dọc (a: 1-1; b: 1- 2; c: 1- 3…y: 5-5) các phòng cùng dãy nhận mật mã bằng cách gõ vào tường theo những nhịp ngắn dài của từng chữ cái, do mã khóa hàng ngang, hàng dọc quy định. Hai dãy phòng giam đối diện nhận mật mã bằng tín hiệu quạt lên quạt xuống.

Sáng 22-12-1963, các phòng của Trại IV (trừ Nhà bếp) tuyên bố tuyệt thực đòi giải quyết các yêu sách:

1. Giải tỏa cấm cố.

2. Tự do tư tưởng, bỏ hô khẩu hiệu, bỏ chào cờ.

3. Trả tự do cho tù chính trị câu lưu, trong lúc chờ đợi phải đưa tất cả về đất liền.

4. Cơm ăn đủ no, có đủ thức ăn, có rau tươi, thịt cá.

5. Đau ốm có thuốc chữa bệnh, được đi bệnh xá.

6. Được bầu Đại diện phòng, Tổng Đại diện trại.

Cuộc tuyệt thực nổ ra đúng vào đỉnh cao của cuộc khủng hoảng chính trị tại Sài Gòn làm cho ngụy quyền , Côn Đảo rất hoang mang. Tỉnh trưởng Nguyễn Văn Sáu chọn giải pháp nhượng bộ tù chính trị để rảnh tay đối phó nội bộ. Sáng 25-12-1963, Nguyễn Văn Sáu chấp nhận phần lớn yêu sách, bỏ khẩu hiệu huấn chính lúc chào cờ, cho tù nhân được tự do tư tưởng, cải thiện đời sống, cho bầu Đại diện và Tổng Đại diện, riêng việc trả tự do và đưa về đất liền phải chờ ý kiến của Sài Gòn. 1 Cuộc đấu tranh hoàn toàn thắng lợi, đạt được các yêu cầu mà chi bộ đã đề ra.

Ngày 27-12-1963, lần đầu tiên trong lịch sử Nhà tù Côn Đảo, cuộc bầu cử dân chủ, công khai của tù chính trị đã diễn ra tại sân Trại IV, trước sự chứng kiến của Ban Quản đốc. Anh Nguyễn Văn Thọ quê Bến Tre được bầu làm Tổng Đại diện. Anh Thọ chuyển bệnh chết đột ngột (14-1-1964), toàn thể tù chính trị Trại IV đã tổ chức lễ truy điệu trọng thế rồi đưa anh về nơi an nghỉ. Hồ Sĩ Phan (ở Quảng Trị) được tập thể tín nhiệm giữ cương vị Tổng đại diện.

Sau khi lật đổ Diệm, Hội đồng quân nhân cách mạng đã ra sắc lệnh phóng thích tất cả những người bị tù vì chống chính quyền Ngô Đình Diệm từ 7-7-1954 đến 31-10-1963, trừ tù chính trị cộng sản. Anh Hà Minh Trí, dưới danh nghĩa lực lượng võ trang giáo phái Cao Đài, được Trung tướng Mai Hữu Xuân, Tổng Giám đốc Cảnh sát Quốc gia của Nội các mới đề nghị phóng thích ngay vì “thành tích ám sát hụt Ngô Đình Diệm”. Nhân dịp này, tù chính trị bị giam giữ lâu ngày trong các nhà tù cũng đấu tranh đòi tự do.

Tháng 1 năm 1964, bốn chiến sĩ trực diện chống ly khai: Nguyễn Đức Thuận, Phan Trọng Bình, Phạm Quốc Sắc, Lê Văn Một được đưa về đất liền để phóng thích. Anh Nguyễn Minh được chuyển về đất liền và được tự do trước đó. Năm Anh đã toàn thắng trở về, nhưng gương chiến đấu và chiến thắng của các anh còn toả sáng trong cuộc đấu tranh vươn lên bảo vệ khí tiết của tù chính trị Côn Đảo. Thay chỗ năm Anh tại Chuồng Cọp là đội ngũ tù chính trị chống chào cờ ngày càng đông đảo.

Ngày 20-1-1964, ngụy quyền phản kích, chúng đưa lực lượng đàn áp đến bắt tù chính trị câu lưu phải chào cờ ngụy. Tất cả đều nhất loạt phản đối. Địch cho bọn trật tự xông vào đánh đập, đưa 25 người vào biệt giam chuồng cọp, 38 người bị cấm cố tại phòng 8 và 100 người đưa về cấm cố tại Hầm Đá Trại II và Trại III.

Ngay trong lúc địch đàn áp và thanh lọc, Chi bộ Lê Hồng Phong hội ý cấp tốc, nhận định đây là âm mưu phân tán mỏng, cách ly lãnh đạo, hạn chế đấu tranh, chia cắt lực lượng để dễ bề đàn áp, tước đoạt thành quả đấu tranh. Chi ủy phân công Trần Thám, Lê Quang Ba, Nguyễn Quýnh xen vào lực lượng địch phân tán để lãnh đạo anh em. Chủ trương của chi bộ là dù địch phân tán đi đâu, thực hiện những thủ đoạn khủng bố nào cũng phải kiên định mục tiêu khôi phục toàn bộ khí tiết.

Tại hầm đá và chuồng cọp, địch nhốt chật gấp ba lần ngày thường, còng chân, đánh đập, cưỡng bức chào cờ. Lực lượng tù chính trị câu lưu bị giam ở đây đã tuyệt thực để phản đối khủng bố, đòi tự do tư tưởng, không chào cờ ngụy, không hô các khẩu hiệu huấn chính. Sau 5 ngày tuyệt thực, địch nhượng bộ, trả lại đồ dùng cá nhân, cho ra tắm giặt, sinh hoạt bình thường, hứa sau tết âm lịch sẽ trả về trại cũ.

Sau 73 ngày đấu tranh quyết liệt, ngày 4-4-1964, địch phải trả toàn bộ tù chính trị câu lưu bị phân tán ở Chuồng Cọp, Hầm Đá Trại II, Trại III về Trại IV và đổi tên Trại IV thành Trại I, với ý nghĩa là Trại cộng sản trước đây, Trại cứng đầu, không thế khuất phục được, chỉ có thể “xây thêm nhà lao để giam giữ họ suốt đời”.

Liên chi Đảng bộ tù án

Khi thực dân Pháp bàn giao cho ngụy quyền Sài Gòn, Nhà tù Côn Đảo chỉ còn lại tù án mà đa số là tù thường án. Theo báo Tiếng Chuông xuất bản tại Sài Gòn ngày 19-3-1956, “Côn Đảo có 600 tù nhân với 120 gia đình công chức (500 nhân khẩu), không có thường dân, không có chợ búa. Việc tiếp tế do tàu Cửu Long và tàu Đồng Nai đảm nhiệm. Sở rẫy An Hái có đến 50 tù nhân làm việc mỗi ngày, sản xuất rau tươi cho đảo. Sở Lưới hàng ngày đánh cá chia cho công chức, Sở Chăn nuôi có vài ngàn con bồ câu, mỗi tuần bán cho công chức hai lần, giá 5 đồng một con”.

Tháng giêng năm 1956, chính quyền Sài Gòn đã cử một phái đoàn cao cấp ngành Tư pháp do Biện lý Lưu Đình Diệp dẫn đầu ra Côn Đảo nghiên cứu. Cùng đi có vị giáo sĩ người Mỹ và hai giám mục: Lê Hữu Từ, Phạm Ngọc Chi.

Dưới thời Quản đốc Hồ Chí Thiền, nhân số tại đề lao đã tăng lên 674 vào ngày 14-12-1956, có 70 giám thị trông coi. Hai năm 1957-1958, số lượng tù án tăng không đáng kể. Từ khi Ngô Đình Diệm ra Luật 10/59 (tháng 5- 1959), số tù án bị đưa ra Côn Đảo ngày càng đông. Theo Báo cáo số 467/NA/TTHC/CS/ M ngày 25-11-1959 của Tỉnh trưởng Côn Sơn, “tính đến ngày 25-10-1959, Trại Cải huấn có 1.456 tù án, phân loại như sau: thường phạm: 600; thường phạm thuộc toà án quân sự: 16; quân phạm thường án: 198; quân phạm chính trị: 147; chính trị phạm: 484; tử hình: 10; giam cứu (Toà Biện lý Sài Gòn gửi): 1; trong thảng, trại cải huấn chết 2. Nhân số hiện hữu tính đến 25-11-1959 là 1.454 người”.

Những năm sau, số lượng tù án tăng dần, kể cả án tử hình, phần nhiều là tù chính trị. Dưới đây là số liệu tù án trong các báo cáo của nhà tù:

Trong khi tập trung lực lượng truy bức tư tưởng, triệt hạ khí tiết tù chính trị câu lưu thì ngụy quyền chỉ áp dụng chế độ khổ sai đối với tù án. Từ năm 1960, sau khi giải quyết một số lớn tù chính trị chống li khai ở Trại I, địch thành lập Trung tâm cải huấn 2 giam tù án và bắt tù án cũng phải học tố cộng vào buổi tối, với mức độ chiếu lệ so với tù chính trị câu lưu. Hoạt động và tranh đấu của tù án chính trị dưới thời Ngô Đình Diệm còn ở mức độ thấp, với các yêu sách giảm nhẹ khổ sai, cải thiện đời sống, chưa chống các thủ đoạn chính trị của địch.

Lực lượng tù án kế thừa kiểu tổ chức của tù nhân kháng chiến (1946-1954). Sau 3 đợt trao trả tù binh, tù chính trị, đến tháng 3-1955, Côn Đảo còn lại 59 người kháng chiến không được trao trả, cùng với hơn 600 tù án tư pháp (thường phạm). Anh Nguyễn Vãn Mẹo được cử làm Bí thư Liên chi ủy, kiêm Chủ tịch Liên đoàn tù nhân kháng chiến, phụ trách số chưa được trao trả.

Lớp tù án chính trị bị chính quyền Ngô Đình Diệm đày ra sau này đã được kết tập vào Liên chi Đảng bộ tù án do Lê Minh Nê làm bí thư. Mục đích của tổ chức Liên chi Đảng bộ tù án là:

Ngày thángÁn tù Tổng số  Số tù chính trị    Tử hình Tổng số       Tử hình  tù chính trị     
26-6-19601.888799104
21-7-19612.6101.2585944
15-8-19623.3481.794165127
16-9-19633.4691.908205166

1. Tập hợp tất cả các đảng viên để sinh hoạt giữ vững tư thế, tác phong đạo đức của người cách mạng, hun đúc tinh thần chiến đấu bất khuất.

2. Nêu cao tinh thần đoàn kết, tương thân, tương trợ nhau trong hoàn cảnh lao lý.

3. Đấu tranh với nhà cầm quyền đòi dân sinh dân chủ, cảm hóa các phần tử đối lập.

4. Lợi dụng thời cơ thuận tiện của tình hình bên ngoài sẽ đứng lên cướp chính quyền, tự giải phóng.

Tháng 5-1961, Liên chi Đảng bộ tù án củng cố lại, gồm 7 chi bộ. Hồ Văn Nai làm Bí thư Liên chi, Trần Văn Tấn làm Phó bí thư, Nguyễn Văn Vương là ủy viên thường vụ, tổng số đảng viên kết được kết tập trên 50 người. Liên chi tổ chức ra Liên đoàn tù nhân giải phóng, do Trần Văn Tỵ (tự Xuân) là Trưởng ban chấp hanh, với 14 ủy viên. Tháng 4-1961, Trần Văn Tỵ mãn án, giao lại cho Nguyễn Trường Can (tức Thái Hoàng Ân) làm Liên đoàn trưởng. Nhiệm vụ của Liên đoàn là: “Phát triển cơ sở trong mọi tầng lớp tù theo đường lối cách mạng miền Nam, chuẩn bị thực hiện, tiến tới tổng phản công, cướp chính quyền”.

Ngụy quyền Côn Đảo khá thành thạo trong việc dùng tù trị tù. Ban an ninh của nhà tù tố chức một mạng lưới an ninh, tình báo cài vào khắp các phòng giam, các kíp tù khổ sai để theo dõi, kìm kẹp mọi hoạt động của tù nhân. Bản báo cáo số 30/CS/TTCH II ngày 15-8-1962 của Giám thị trưởng Trung tâm cải huấn II cho biết, trong số 3348 phạm nhân thành án, có 460 phạm nhân được tuyển vào Ban an ninh, trong đó trật tự nội trại là 223, trật tự biệt phái là 205, tình báo là 32.

Báo cáo còn đánh giá về hoạt động tình báo, mật báo như sau: “Trung tâm đã lựa chọn số can phạm giác ngộ hạnh kiểm tốt, xây dựng thành một hệ thống mật báo viên chìm để giúp ích cho việc ngăn chặn và hủy diệt ngay các âm mưu vừa chớm nở của số phạm nhân ngoan cố”.

Vụ việc mà bản báo cáo nói trên đề cập đến chính là do Ban tình báo phát hiện ra tổ chức Liên chi Đảng bộ tù án và Liên đoàn tù nhân giải phóng (tháng 5- 1962). Nội vụ kéo dài cho đến cuối năm 1962 mới kết thúc. Theo công văn số 101/AN/M ngày 26-12-1962 của Ban an ninh Trung tâm cải huấn II, trong vòng 6 tháng, chúng đã bắt đi điều tra khai thác 140 tù nhân thuộc hai tổ chức nói trên, tất cả đều bị đưa vào biệt giam, 4 người đã chết trong quá trình điều tra, 339 người khác đã bị khống chế và vô hiệu hóa.

Đây là vụ tổn thất lớn, gây hiệu quả nghiêm trọng. Các thành viên trong tổ chức khi mãn hạn cấm cố đã nghiêm khắc tự kiểm điểm, rút kinh nghiệm về tổn thất đau xót này.

Đường dây Côn Đảo

Trong lúc Liên chi Đảng bộ tù án tan vỡ thì nhóm tù chính trị ở Chí Hòa ra đã chắp nôi được đường dây liên lạc với Trung ương Cục, thông qua Tỉnh ủy Tây Ninh. Đường dây này do Trương Minh (tức Hai Khuynh), cán bộ binh vận Trung ương Cục phụ trách. Trương Minh trước khi bị bắt là cán bộ binh vận của Trung ương Cục, quê ở Tây Ninh. Trương Minh và Nguyễn Xuân Kí đã tham gia Đảng ủy Nhà lao Chí Hòa. Ra Côn Đảo, hai anh bàn nhau chắp nối đường dây liên lạc với Trung ương Cục và xây dựng lại tổ chức các trại tù án.

Đầu năm 1963, Ban lãnh đạo lâm thời trại tù án được tố chức gồm 5 người: Nguyễn Xuân Kí, phụ trách chung; Nguyễn Văn Ngư (tức Hai E), phụ trách Trại I; Võ Văn Thuật, phụ trách Trại II; Trương Minh và anh Hiển phụ trách các sở ngoài. Ban lãnh đạo lâm thời tập hợp một số cốt cán ở các trại, tổ chức mạng lưới thu thập tin tức, binh vận, liên lạc với đất liền, xây dựng phương án đấu tranh, bước đầu đòi các quyền dân sinh dân chủ.

Ngay khi ra Côn Đảo, Hai Khuynh được anh em bố trí cho ra Sở Chăn Nuôi, dạy học cho con giám thị Nguyễn Văn Thượng (Năm Thượng, Nầm Xị), Năm Thượng đã từng được đồng chí Dương Văn Thưa, Tỉnh ủy viên Tây Ninh, Bí thư Huyện ủy Gò Dầu, phụ trách giao liên của tỉnh Tây Ninh tổ chức khi Thượng còn ở Nhà lao Tây Ninh. Khi Thượng bị điều ra Côn Đảo, Dương Văn Thưa đã bàn giao đầu mối này cho Hai Khuynh.

Cuối năm 1963, những bức thư liên lạc đầu tiên của tù chính trị đã về đến cán cứ của Tỉnh ủy Tây Ninh. Cùng trong thời gian này, Ban an ninh Trung ương Cục đã liên lạc được với giám thị Năm Thượng, chủ Sở Chăn Nuôi của nhà tù Côn Đảo, quê Tây Ninh. Giám thị Năm có quan hệ tốt với tù chính trị và đã nhận chuyển tin tức, báo cáo của tù chính trị về đất liền.

Những tù chính trị phục vụ tại Ty tiểu học và dạy học tư gia đã giác ngộ được Nguyễn Văn Đồng, trưởng ty tiểu học và nữ giáo viên Trịnh Thị Thu Hưng làm liên lạc viên giữa Côn Đảo và đất liền. Hai học sinh Nguyễn Thị Thu Hồng và Nguyễn Thị Thu Tâm (con giám thị Nguyễn Văn Trương) cũng được giác ngộ và trở thành những giao liên tin cẩn.

Thư từ, báo cáo được viết bằng mực hóa học, ngụy trang trong sách, báo hoặc giấu kín đáo trong các bưu phẩm. Trương Minh đã gửi mua các loại sách Văn – Sử, từ điển tiếng Anh, tiếng Hoa và cần mẫn soạn bộ từ điển Hán – Việt (13.000 mục từ) gửi về đất liền. Nhiều báo cáo đã được viết bằng mật mã và gửi qua những bản thảo này.

Nhóm tù chính trị người Hoa chiếm được thiện cảm của Tăng Tư, khi ấy là Phó Tỉnh trưởng phụ trách nội an, tạo được nhiều cơ sơ nắm tin tức trong hàng ngũ địch. Trần Hồng, Lý Chấn Á, Hai Phan được đưa vào làm bồi bếp cho Tăng Tư. Trang Dân Kiệt, Đinh Khắc Phong, Ô Bài Huy, Lý Khải Cường và một số tù nhân biết kĩ thuật sửa chữa điện được bố trí phục vụ tại Đài LORAN Cỏ Ống, thu thập tin tức qua rađiô rồi chép lại, chuyển về cho Ban lãnh đạo. Tin tức về những trận thắng Bình Giã, Ba Gia, Đồng Xoài, Phước Long… được chép lại khá chính xác, đem lại nguồn cổ vũ lớn lao cho tù chính trị lúc đó. Anh Quang (tức Han làm bồi cho Tỉnh trưởng, thường xuyên cung cấp thực phẩm tươi cho Cỏ Ống là người trực tiếp chuyển các bản tin tức về Côn Đảo.

Trần Hồng từng là bạn học với Tăng Tư, sinh viên trường Cao đẳng mỹ thuật. Bằng nét vẽ tài hoa, anh tranh thủ được cả Phó tỉnh trưởng Tăng Tư, Tỉnh trưởng Lê Văn Thế và sau đó là Nguyễn Văn Sáu cùng cố vấn Mỹ, nhờ đó, anh thu thập được nhiều tin tức, giúp được nhiều tu chính trị. Bằng mối quan hệ thân tình với Tăng Tư, có lần, Trần Hồng còn thuyết phục được Tăng Tư ngăn chặn đợt khủng bố khốc liệt của trung sĩ Ngô Thạnh Trị, trưởng an ninh chuồng cọp trong vụ đàn áp năm Anh ở chuồng cọp.

Ban lãnh đạo lâm thời các trại tù án (có lúc danh xưng là Đảo ủy) được tổ chức theo kiểu Đảo ủy. Ớ mỗi trại tù án có tổ chức chi bộ tinh gọn từ 3 đến 5 người, liên hệ đơn tuyến, mỗi người chỉ biết một người trực tiếp quan hệ với mình. Chi bộ tìm cách đưa những người cốt cán vào nắm các tổ chức công khai ở từng phòng như Ban đại diện, Ban vệ sinh, Ban trật tự, Ban thư kí.

Tổ chức Đảo ủy các trại tù án được hình thành từ đầu năm 1963 tồn tại trong nhiều năm sau đó. Tổ chức này có vai trò tích cực, ổn định tình hình tổ chức, tư tưởng của tù án chính trị, đặt nền móng, cho phong trào đấu tranh dân sinh dân chủ và đặc biệt là xây dựng được một mạng lưới thông tin, duy trì đường dây liên lạc với Trung ương Cục.

Do sự xáo trộn, biến động trong tù, thành phần Đảo ủy có nhiều thay đổi. Khi phong trào đấu tranh chính trị của tù án bột phát, sôi động hẳn lên với cao trào chống chào cờ mạnh mẽ từ 1965 đến 1967 và đỉnh cao là cuộc Đồng khởi 1970 thì tổ chức mang tên “Đảo ủy” không còn theo kịp phong trào. Khi đó, tổ chức này tồn tại như một bộ phận bên ngoài, chịu làm khổ sai, không chống chào cờ, làm nhiệm vụ thông tin liên lạc, nắm giữ đường dây Côn Đảo.

Phong trào đấu tranh của tù án trong giai đoạn này còn ở mức độ thấp với những yêu sách đòi cải thiện đời sông, giảm nhẹ mức khổ sai, chống học tố cộng theo kiểu không phát biểu ý kiến, chống chào cờ bằng cách tìm lý do né tránh. Sau ngày Ngô Đình Diệm bị lật đổ, tinh thần đấu tranh của tù án chính trị có bước chuyển mạnh hơn.

Cuối năm 1963, anh Nguyễn Văn Mười ở Công xưởng trong lúc hàn con tàu mang tên Phi Yến bị điện giật chết, tù chính trị Công xưởng đấu tranh đòi áo quan, làm lễ truy điệu. Anh em lấy hoa rừng kết tràng hoa, đề khẩu hiệu “Thiên thu duy hận”, hàng trăm người đưa đám. Sau lần ấy, ba người bị phạt giam chuồng cọp.

Phân hóa kẻ thù, tạo cơ hội vượt ngục

Lực lượng tù án chính trị tận dụng mọi cơ hội làm công tác binh vận. Trương Minh cùng một số cán bộ Ban binh vận Trung ương Cục bị bắt đã góp nhiều ý kiến cho Ban lãnh đạo lâm thời về công tác binh vận trong tù. Những người được đưa ra làm bồi bếp, thư ký, công nhân tư gia, dạy học tư gia, đã góp phần phân hóa hàng ngũ địch.

Cuối năm 1963, lực lượng binh vận đã triệt để khai thác mâu thuẫn giữa Tỉnh trưởng Nguyễn Văn Sáu và Đại úy phụ tá Quản đốc Trần Hữu Khoẻ. Theo số liệu của nhiều tù chính trị làm ở Văn phòng Quản đốc và Vãn phòng Giám thị trưởng cung cấp, Sáu đã làm đơn tố cáo Khoẻ, trong thời gian từ tháng 7-1963 đến tháng 5- 1964 đã ăn chặn của tù nhân 63.875 kg gạo, 83 con heo, cùng nhiều khoản tổng cộng 5.600.000 đồng.

Tổng nha Cải huấn và Bộ Nội vụ ngụy đã cử nhiều đoàn ra thanh tra. Khoẻ dựa vào một số tù nhân khác tố cáo Sáu câu kết với nhà thầu Tạ Thị Hiền, ăn chặn cá khô, đường thẻ từ khi còn là Quản đốc Trung tâm Cải huấn Thủ Đức, tống tiền gia đình can phạm Huỳnh Đại, tư sản người Hoa ở Chợ Lớn. Khoẻ tập hợp tài liệu rồi thuê người ở Sài Gòn viết báo. Báo Cải Tạo, xuất bản tại Sài Gòn trong tháng 1 và tháng 2-1965 đã đăng một loạt bài dưới tít “Khẩu phật, tâm xà của thiếu tá Nguyễn Văn Sáu”.

Mâu thuẫn sâu sắc giữa những tên cầm đầu trong bộ máy thống trị ở Côn Đảo giai đoạn này đã tạo cơ hội cho các cuộc đấu tranh bảo vệ khí tiết của tù chính trị giành được thắng lợi.

Thời Mỹ – ngụy, các cuộc vượt ngục của tù nhân thưa hẳn so với tất cả các thời kỳ trước đó, nhưng các cuộc vượt ngục lại diễn ra với nhiều tình huống ly kỳ và không ít cuộc thành công bất ngờ. Bản nguyệt trình từ ngày 25-10-1959 đến 25-11-1959 của Tỉnh trưởng Côn Sơn mang số 467/NA/TTHC/CS/M cho biết, vào lúc 21 giờ 30 phút ngày 25-11-1959 xảy ra vụ bạo động, 15 phạm nhân Trại công xưởng đoạt ghe và đả thương một giám thị đang phiên canh gác. Lệnh truy tầm đã được ban bố.

Vụ này do đại tá Thế chủ mưu. Trước đó, theo nguồn tin mật báo viên do một phạm nhân vừa ở Côn Đảo chuyển về Chí Hòa tiết lộ, thiếu tá Nguyễn Văn Vệ, đương kim Quản đốc khám Chí Hòa đã lập phiếu báo tin số 70/QĐ/M ngày 8-5-1958 gửi Tổng Giám đốc Nha chính trị Bộ Nội vụ ngụy báo tin về âm mưu vượt ngục này.

Phiếu báo tin cho biết, một nhóm phạm nhân tại Đề lao Côn Sơn đang tổ chức vượt ngục bằng cách bạo động, trong đó có đại tá Thế, đại tá Phước, Canh, Cai, Chín F.M, đại diện hoả thực tên Tiến. Tổng Giám đốc Cảnh sát và Công an ngụy đã gửi công điện ra Côn Đảo, yêu cầu dùng biện pháp nghiêm ngặt ngân ngừa và phúc trình rõ. Ngày 16-5-1958, đại úy Nguyễn Văn Giỏi, Quản đốc TTCH Côn Sơn gửi cồng văn số 241/TTCH- CS/2M báo cáo đã tổ chức canh phòng chặt chẽ, cấm cố các phạm nhân có tên kể trên.

Không cam chịu thất bại, đại tá Thế tiếp tục nuôi mộng vượt ngục. Thân phụ Thế là thầy dạy học của Tỉnh trưởng Bạch Văn Bốn nên Thế thoát khỏi cấm cố, về làm đại diện kíp tù nhân ở Công Xưởng. Đại tá Thế chọn sẵn 8 tên đàn em trung thành, khởi sự vào đêm 25- 11-1959, giải thoát cho đồng bọn ở Sở Lưới, Công Xưởng và cướp ghe vượt ngục. Sau nhiều ngày lênh đênh trên biển, chiếc ghe nhỏ đã dạt vào một làng đánh cá ở Thái Lan, trên ghe chỉ còn 3 thường phạm nằm thoi thóp. Đại tá Thế đã chết vì đói, khát và kiệt sức giữa biển.

Để tăng cường các biện pháp an ninh, chống vượt ngục, ngụy quyền Côn Đảo đã cho đặt một trung liên tại đồn canh cầu Tàu, đóng thêm một đồn canh tại Bến Đầm (9 lính bảo an) và một đồn ở bãi ông Đụng (7 lính), rút binh sĩ thuộc các đơn vị thành lập một trung đội biệt kích, huấn luyện chiến thuật, hàng ngày tập leo núi, phối hợp với trật tự thường án canh chòi bãi lùng sục dấu vết của tù nhân. Chúng trang bị máy truyền tin cho trưởng đồn Hải Đăng Bảy Cạnh, liên lạc thường xuyên với bảo an và công an để phát hiện tàu lạ cùng những dấu hiệu nghi ngờ.

Mặc dầu đã áp dụng tối đa các biện pháp phòng ngừa, các cuộc vượt ngục vẫn xảy ra. Kíp đốn củi của tù chính trị câu lưu gồm 6 người đã vượt ngục bằng thuyền khung mây bọc vải vào chiều mồng bảy tháng giêng năm Canh Tý (1960). Cuộc vượt ngục do Võ Ngàn Trân, một ngư dân ở Hàm Tân (Bình Thuận) và Võ Hoàng Sơn tự Nỉ (Lái Thiêu) tổ chức, với sự tham gia của Trương Văn Bi, Nguyễn Ngọc Ân, Nguyễn Hữu Thoại và Nguyễn Lềnh. 13 giờ mồng bảy tết Canh Tý, từ vị trí đốn củi trên Núi Chúa, họ khiêng chiếc thuyền dài 6m, rộng 1,2 mét xuống bãi phía tây đảo, hạ thủy lúc xế chiều, ráng sức chèo ra khơi.

Sau 9 ngày vật lộn với sóng gió, chiếc thuyền con mong manh lạc vào một hoang đảo thuộc hải phận Campuchia. Sáu tù nhân bị giải giao về trại giam Sêrêpôc. Hơn 2 năm sau, họ tham gia cuộc vượt ngục của tù chính trị Campuchia vào đêm 11-11-1963. Hơn một trăm tù chính trị đã thoát khỏi trại giam, cắt rừng về đến Hớn Quản và được Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam tiếp nhận.

Tháng 11-1961, tại công trường làm sân bay Cỏ Ống, sáu tù chính trị đã dùng thùng phuy kết bè vượt ngục nhưng không thành. Công văn số 316/CS/NA/M ngày 21-11-1961 của Trung tâm cải huấn Côn Sơn cho biết rõ 6 can phạm dó là:

– Hồ Văn Xuân (tự Vĩ): Chủ mưu.

– Tông Tấn Thương (tự Cọp): Chủ mưu.

– Phan Xuân Nhị (tự Bình): Tòng phạm.

– Nguyễn Văn Non: Tòng phạm.

– Nguyễn Văn Thân (tự Thọ): Tòng phạm.

– Trần Tấn Lộc (tự Thi): Tòng phạm.

Sáu người nói trên “đều là các phần tử ngoan cổ, không chịu học tập, cải tạo. Cuộc vượt đảo của các can phạm nói trên không ngoài mục đích: về tới đất liền sẽ tiếp tay với Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam của Việt cộng để chống lại chính phủ quốc gia”.

Tù chính trị “quốc gia”

Ở Côn Đảo có loại tù thuộc các phe phái chống đối chính quyền Diệm, được gọi là quân phạm đặc biệt. Từ năm 1957 đến năm 1960 phần lớn quân phạm đặc biệt là số cầm đầu các nhóm vũ trang giáo phái Bình Xuyên, Cao Đài, Hòa Hảo và các “chính khách sa lông” liên minh với các nhóm này. Từ năm 1960, có thêm nhóm sĩ quan quân đội và “chính khách salon” can dự những cuộc âm mưu đảo chính. Theo báo cáo của Trưởng ty cảnh sát quốc gia Côn Sơn, tính đến ngày 14-11-1963, có 161 can phạm thuộc các tôn giáo, đảng phái như sau:

– Mặt trận thông nhất toàn lực quốc gia: 48 tên.

– Bình Xuyên: 16 tên.

– Hòa Hảo: 60 tên.

– Cao Đài liên minh: 25 tên.

– Đại Việt: 5 tên

– Dân chủ: 4 tên.

– Quốc dân đảng: 1 tên.

– Giáo hội hòa bình: 1 tên.

– Sĩ quan quốc gia theo Bình Xuyên: 1 tên.

Phòng 3 Trại I (sau đổi thành Trại II) trong nhiều năm là nơi tập trung những xung đột của nhóm quân phạm đặc biệt. Đấy là nơi giam giữ những tên cầm đầu, có “máu mặt”, trong đó có 10 tên mang án tử hình: Trần Văn Ân, Hồ Hữu Tường, Nguyễn Hữu Thuần, Trịnh Khánh Vàng, trung tướng Cao Đài Nguyễn Thành Phương, thiếu tá Cao Đài Nguyễn Văn Hiểu…

Bọn này háo danh, tự xưng là tù chính trị “quốc gia”, thay vì gọi là quân phạm.

Hồ Hữu Tường là chủ bút báo Phương Đông, Chủ tịch Hội đồng báo chí, cố vấn tối cao của Bộ tổng tham mưu Mặt trận thông nhất toàn lực quốc gia (Bình Xuyên). Bị xử tử, Tường khuyên bọn đàn em đừng xin ân xá, nhưng ra Côn Đảo, Tường lại bí mật viết thư cho Ngô Đình Diệm xin ân xá, nói rằng hắn bị Trần Văn Ân lừa gạt, đẩy qua Bình Xuyên chứ không bao giờ có ý chống lại vị “Tổng thông anh minh”. Tường còn viết thư cho Ngô Đình Nhu, xin cưới con gái Nhu là Ngô Đình Lệ Thủy cho con trai minh.

Chuyện vỡ lở, Trần Văn Ân chửi Hồ Hữu Tường là “thằng điên”. Tuy vậy, Ân và Tường lại câu kết với nhau trong nhiều chuyện khác. Bảy Viễn gửi cho hai triệu đồng, Ân và Tường chia nhau ăn hết, không cho tụi đàn em đồng nào. Thiếu tá Bình Xuyên Nguyễn Văn Phước đã đánh Hồ Hữu Tường gãy răng vì chuyện đó. Trung tướng Cao Đài Nguyễn Thành Phương chửi Hồ Hữu Tường: “Mày hết bán thân cho Nhật, cho Tây, bây giờ lại rắp tâm bán thân cho Mỹ. Nếu may mắn mà tao được về đời, tao sẽ viết báo vạch mặt nạ quốc tế xã hội chủ nghĩa của mày”.

Bọn đàn em của chúng cũng xung đột với nhau luôn vì miếng ăn trong tù. Tranh nhau một con chim sẻ lọt vào trong khám, thiếu tá Bình Xuyên Nguyễn Văn Hiểu đã đánh lộn với Trịnh Khánh Vàng, Chủ tịch Mặt trận quốc gia cứu quốc. Phó tỉnh trưởng Tăng Tư lúc đó đã kể trong một hồi ức khi ở trong trại cải tạo của ta sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng rằng: “Trần Văn Ân, Hồ Hữu Tường, Trịnh Khánh Vàng, Nguyễn Văn Thành, Jean Pastis Đồng… có thể gọi là những trí thức của miền Nam mà khi ở tù tranh nhau từng miếng thịt, chửi bới nhau, thưa kiện đến Tỉnh trưởng xét xử”.

Nhóm “chính khách salon” và sĩ quan quân đội ngụy tham gia vụ đảo chính 11-11-1960 bị đày ra Côn Đảo giữa năm 1962 có phần “dễ thở” hơn. Phan Khắc Sửu xin ra nuôi vịt ở Hồ Sen. Phan Quang Đán xin ra làm phụ tá ở bệnh xá Côn Đảo. Lúc ra toà, Đán khóc hu hu. Bị đày ra Côn Đảo, Đán viết thư nhờ Phó Tỉnh trưởng Tăng Tư chuyển cho Ngô Đình Diệm, lời lẽ thông thiết xin ân xá, hứa từ giã hoạt động chính trị, trở về làm bác sĩ, không tham gia phe phái nào hết. Nói vậy nhưng lúc Ngô Đình Diệm đổ, được ân xá về, Đán nhảy ngay vào Quốc vụ Khanh, leo lên đến Phó Thủ tướng cùa Nội các Trần Thiện Khiêm.

Phan Trọng Chinh, Thiếu tá quân đội ngụy, tham gia Ban cải huấn, thực hiện chính sách tố cộng trong tù. Trước đó, Jean Pastis Đồng (Nguyễn Văn Đồng), một “học giả” quốc tịch Tây đã tham gia Ban tố cộng của nhà tù từ năm 1957. Cũng như Jean Pastis Đồng, Phan Trọng Chinh không thuộc loại “tố cộng” có bài bản, chống cộng có lý tưởng và cũng hoàn toàn không vì phụng sự chủ nghĩa “quốc gia”.

Bọn họ chỉ muốn có được những ngày yên thân trong tù, chờ cơ hội và thời thế trở về với những mưu toan danh vọng. Có lần, vào “cải huấn” năm Anh chống ly khai kiên cường ở Chuồng Cọp, Phan Trọng Chinh đã ngả mũ kính chào. Hắn nói rằng thật sự kính cẩn nghiêng mình trước Năm vị anh hùng dân tộc, mặc dù hắn không cùng lý tưởng. Nếu được làm thủ tướng, hắn sẽ xây nhà lầu cho năm Anh ở.

Không ai tin lời hắn. Khi trở về làm tư lệnh sư đoàn 25, Phan Trọng Chinh đã đổi biết bao xác lính của hắn và tính mạng dân thường để được thăng hàm trung tướng.

Jean Pastis Đồng có được ít chữ nghĩa, tham gia soạn thảo tài liệu tố cộng. Trong tài liệu, Đồng có ý đề cao chủ nghĩa “quốc gia” nhưng thực bụng không phục. Có một loại “quốc gia” kiểu Ngô Đình Diệm đã đàn áp bỏ tù hắn và đồng bọn. Có loại “quốc gia” kiểu Bình Xuyên – Cao Đài – Hòa Hảo liên minh mà hắn đi theo đã tan rã hẳn. Vào tù, chúng nhụt hết ý chí, mỗi tên mưu toan một chuyện và xâu xé nhau từng miếng ăn trong tù.

Trong một đoạn hồi ký, Jean Pastis Đồng đã hé ra nỗi thất vọng về những kẻ mang màu sắc “quốc gia” giả hiệu ấy: “Một đặc tính của khá đông người quốc gia trí thức là thâm nhiễm tận xương tận tủy cả nhân chủ nghĩa. Tuy đi cùng một xuồng, dính chung một vụ, bị nhốt chung một khám, mỗi người là một cái thế giới riêng”.

Sau khi Ngô Đình Diệm bị lật đổ, cả bọn được ân xá, ‘nhường chỗ cho hàng loạt tướng tá thân cận, tay chân trung thành của Ngô Đình Diệm vừa bị bắt, trong đó có đại tá Nguyễn Văn Y – Tổng giám đốc cảnh sát và công an kiêm Đặc ủy trưởng Phủ đặc ủy Trung ương tình báo; Trần Kim Tuyến – Giám đốc Sở nghiên cứu chính trị xã hội; Trần Văn Tư – Giám đốc cảnh sát đô thành; Dương Văn Hiếu – trùm mật vụ miền Trung; Nguyễn Tư Thái (Thái Đen) mật vụ, phụ tá của Hiếu; Nguyễn Văn Thái (Thái Trắng) mật vụ, phụ tá của Trần Kim Tuyến; Nguyễn Văn Đông – Tỉnh trưởng Quảng Trị; Ngô Trọng Hiếu – Bộ trưởng Bộ Công dân vụ…

Những ngày ở tù, bọn này chỉ viết đơn kêu oan, xin ân xá, và đổ tội cho nhau. Cuối cùng, tất cả đều đổ tội cho ba tên đầu sỏ Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu và Ngô Đình Cẩn. Khi được trả tự do, hầu hết bị thất sủng và tiêu tan ý chí chống cộng, vài tên được tái tuyển với mức độ tin tưởng hạn chế, trong đó có Nguyễn Tư Thái làm nhân viên Ban U (phản tình báo) thuộc Phủ đặc ủy Trung ương tình báo. Thái được cử ra Côn Đảo với một kế hoạch hậu chiến, mà đôi tượng là tù chính trị những năm sau này.

Tù chính trị “quốc gia”, quân phạm chính tri, quân phạm thường án, và thường phạm bao giờ cũng là đối tượng được sử dụng vào mục đích “dùng tù trị tù”, để khống chế tù chính trị. Một số tên đã mất hết nhấn tính, trở thành tay sai đắc lực cho bọn thống trị. Cũng có tên nhận ra thân phận, và cảm phục nhân cách của tù chính trị cộng sản mà nương nhẹ tay với người cùng cảnh ngộ.

Nhà tù thời Ngô Đình Diệm

Đặc trưng cơ bản của thời kỳ 1955-1963 là cuộc đấu tranh của tù chính trị chống ly khai Đảng cộng sản và chống các thủ đoạn tố cộng rất cực đoan của chính quyền Ngô Đình Diệm. Lực lượng tham gia cuộc đấu tranh này là gần 4000 tù chính trị câu lưu. Họ là những cán bộ kháng chiến, được bố trí ở lại trong các cương vị chủ chốt từ cấp Xứ ủy, Khu ủy, Tỉnh ủy, Huyện ủy đến cơ sở, tại các tỉnh phía Nam vĩ tuyến 17, được xếp vào loại phần tử “nguy hiểm nhất”, “ngoan cố nhất”, được thanh lọc từ các nhà tù miền Nam, đày ra Côn Đảo.

Thời Ngô Đình Diệm, ngoài các khoản viện trợ nuôi dưỡng bộ máy cai trị, cố vấn Mỹ chưa can thiệp vào công việc quản trị tù nhân. Tập đoàn độc tài Ngô Đình Diệm đã tiến hành kiểu chống cộng rất cực đoan, sâu độc và tàn bạo. Chúng đánh vào tận gốc tư tưởng chính trị của người tù, bằng cách cưỡng bức họ ly khai Đảng cộng sản; đánh vào tận cùng nhân cách, biến người tù thành kẻ phản bội; đánh vào tận đáy sâu tâm hồn bằng cách bắt từng người phải hô khẩu hiệu “đả đảo Hồ Chí Minh”, xúc phạm lòng ngưỡng mộ thiêng liêng nhất của một dân tộc. Chính vì thế mà cuộc đấu tranh chống ly khai Đảng cộng sản, chống các thủ đoạn tố cộng, diệt cộng đã diễn ra rất quyết liệt dưới nhiều hình thức, lôi cuốn đông đảo cán bộ đảng viên và quần chúng tù nhân tham gia.

Thân thể ai cũng bằng xương bằng thịt, đòn roi đánh vào đều đau. Tư tưởng con người không phải là sắt đá, không thể không trăn trở trước sự sống và cái chết, trước bạo lực khủng bố, truy bức, trước cạm bẫy, nanh vuốt kẻ thù. Sự tan vỡ của Trại I – Trại cộng sản trong chiến dịch chuyển hướng (4-1960) là một tổn thất lớn cho lực lượng chống ly khai.

Vào thời điểm mà áp lực khủng bô vượt quá sức chịu đựng của số đông trong tập thể chiến đấu thì những chiến sĩ kiên cường nhất đã tự nguyện nhận lấy sứ mệnh lịch sử. 59 người thà chết không ly khai, đã tiếp tục cuộc chiến đấu tại chuồng cọp Côn Đảo, cho đến khi còn lại Năm Anh toàn thắng. Hàng chục người trong đó đã hi sinh vô cùng anh dũng, tỏa sáng Chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam.

Noi gương các anh, những người từng vấp ngã đã nhận ra sự yếu hèn, cầu an của mình, sát cánh vươn lên kiến tạo lập trường khí tiết. Nhiều người bền bỉ tranh đấu, chịu phạt, chịu đòn để “chia lửa” với những ngọn cờ chống ly khai ở chuồng cọp.

Kế từ cuối năm 1960 trở đi, mặt trận đấu tranh trong tù đã thật sự hình thành. Đứng trên tuyến đầu của cuộc chiến đấu chống ly khai, không khuất phục trước bạo tàn là phẩm chất cao quý của những người cộng sản kiên cường, song duy trì được cuộc chiến đâu cho đến khi còn năm Anh toàn thắng là vai trò đoàn kết chiến đấu của mặt trận tù nhân, đặc biệt là cách tổ chức khéo léo của tập thể, sự nuôi dưỡng, bảo vệ của một số người được cài vào hàng ngũ trật tự trước đó.

Từ giữa năm 1961, chính quyền Ngô Đình Diệm đã xét nhiều đợt trả tự do cho tù chính trị câu lưu. Khâm phục cuộc đấu tranh anh dũng của tù chính trị câu lưu, lực lượng tù án chính trị đã vươn lên chống chào cờ ngụy.

Từ khi tù chính trị câu lưu đã xác lập vững chắc vị trí chính trị bảo vệ khí tiết sau cuộc đảo chính tháng 11 năm 1963 ở Sài Gòn thì phong trào chống chào cờ của tù án chính trị từng bước nổi lên như một nội dung cơ bản của cuộc đấu tranh chính trị trong nhà tù Côn Đảo thời kỳ sau Ngô Đình Diệm.

 

Nhà tù và Người tù thời Mỹ – Ngụy

Thời Mỹ – Ngụy tiếp tục chế độ lao tù của thực dân Pháp đã đổi tên gọi thành Hải đảo Côn Sơn. Ngày 22.10.1956, Ngô Đình Diệm ký sắc lệnh thành lập tỉnh Côn Sơn, một tỉnh ở trên một hòn đảo không có dân cư, chỉ có người tù và bộ máy trị tù.

Bộ máy cai trị tù nhân thời Mỹ – ngụy

Tháng 3-1955, thiếu tá A.Blanck bàn giao chức Giám đốc quần đảo và đề lao Côn Đảo cho Bạch Văn Bốn, thiếu tá quân đội Sài Gòn, chấm dứt gần một thế kỉ cai trị của thực dân Pháp. Nửa năm sau, Bạch Văn Bốn trở về Phân khu Đông, tham gia đàn áp các phe phái đối lập và phong trào cách mạng, chức Giám đốc nhà tù về tay Trần Văn Thiều, một viên chức hành chính. Trần Văn Thiều chỉ là giải pháp tạm thời. Theo xu hướng quân sự hóa bộ máy hành chính, ngày 6-5- 1956, ngụy quyền Sài Gòn đưa Đại úy bảo an Hồ Chí Thiền ra nhận chức Giám đốc quần đảo và đề lao Côn Đảo, kiêm chỉ huy trưởng liên đội bảo an.

Tháng 10-1956, ngụy quyền Sài Gòn phân chia lại lãnh thổ Nam Việt Nam, nâng cấp Hải đảo Côn Sơn thành tỉnh Côn Sơn (Sắc lệnh 147-NV ngày 24-10-1956). Thiếu tá Bạch Văn Bốn được cử làm Tỉnh trưởng đầu tiên của “tỉnh tù”. Tỉnh không có quận, huyện, phường, xã, không có các cơ sở kinh tế, văn hóa, xã hội, chỉ có tù nhân và bộ máy trị tù. Tỉnh trưởng kiêm Chỉ huy trưởng Tiểu khu quân sự. Quản đốc Trung tâm Huấn chính do đại úy bảo an Bùi Văn Năm đảm trách. Từ tháng 9 năm 1958, Tỉnh trưởng kiêm chức Quản đốc Trung tâm Huấn chính.

Tháng 4 năm 1965 ngụy quyền Sài Gòn ra sắc lệnh 75-NV, bãi bỏ tỉnh Côn Sơn, thiết lập trên quần đảo này một cơ sở hành chính trực thuộc Trung ương, đứng đầu là một sĩ quan quân đội ngụy với chức danh Đặc phái viên hành chánh kiêm Quản đốc trung tâm cải huấn Côn Sơn, chức danh này tồn tại đến ngày cáo chung của ngụy quyền Sài Gòn. Từ tháng 3-1955 đến tháng 4-1975, có 14 đời chúa đảo.

Tòa hành chánh tỉnh gồm: Văn phòng Tỉnh trưởng, Phòng Nội an, Phòng Hành chánh tổng quát, Phòng Bút toán. Nhiệm vụ của tòa Hành chánh là thảo các văn bản hành chánh, dự trù ngân sách, kế toán, kiểm soát lương bổng, vật liệu, văn phòng phẩm, hộ tịch, an ninh, quốc phòng trên quần đảo.

Tỉnh có các ty, sở và cơ sở trực thuộc như sau: Ty Ngân khô, Ty Thanh niên, Ty Tiểu học, Trường Trung học, Ty Thông tin, Ty Y tế, Ty Khí tượng, Ty Thủy vận, Ty Kiến thiết, Hạt Nông nghiệp, Nhà máy điện, Hợp tác xã tiêu thụ, Đài Vô tuyến điện, Phòng Viễn thông, Phi trường Cỏ Ống, Ty Công an, Tiểu khu Côn Sơn.

Thời Pháp, Côn Đảo chỉ có một tên cò (Commissaire de police) làm nhiệm vụ Cảnh sát tư pháp. Tháng 8-1958, Nha Cảnh sát và Công an Nam phần biệt phái 18 nhân viên công an ra giúp việc tại Trung tâm Huấn chính Côn Sơn. Tố chức Công an Côn Sơn lúc đầu gọi là Chi Công an, tháng 6-1960 nâng cấp thành Ty Công an, năm 1971 đổi lại thành Bộ chỉ huy Cảnh sát Quốc gia Côn Sơn, Trưởng ty được gọi là Chỉ huy trưởng.

Dưới Chỉ huy trưởng có trưởng các phòng: Phòng cảnh sát đặc biệt, Phòng quản trị, Phòng tư pháp, Phòng kỳ thuật, Phòng an ninh cảnh lực, Phòng tâm lý chiến, Cuộc cảnh sát Bến Đầm, Cuộc cảnh sát Cỏ Ống. Nhân viên công an có 16 tên vào tháng 8-1958 đã tăng lên 70 tên vào năm 1971. Khi cần tăng cường lực lượng đàn áp, ngụy quyền Sài Gòn điều động Cảnh sát dã chiến thuộc biệt đoàn 222 từ Sài Gòn ra.

Việc phòng thủ Côn Đảo sau khi thực dân Pháp rút đi do Bảo an đoàn của ngụy quyền Sài Gòn đảm nhiệm, lúc đầu có một liên đội. Tháng 8-1957, quân số tăng lên một đại đội, 144 tên, có 4 sĩ quan. Năm 1960 lực lượng phòng thủ Côn Sơn có 2 đại đội, quân số 223 tên. Từ năm 1961, quân số trực thuộc Tiểu khu Côn Sơn lên đến một tiểu đoàn gồm Bộ chỉ huy tiểu đoàn 8 tên, một đại đội chỉ huy 60 tên và 3 đại đội chiến đấu, quân số mỗi đại đội là 164 tên. Khi cần tăng cường lực lượng phòng thủ hoặc làm áp lực với tù nhân, ngụy quyền Sài Gòn điều động lực lượng lính dù từ Sài Gòn.

Ngoài lực lượng của Tiểu khu Côn Sơn còn có một bộ phận gần 30 tên ở Đài kiểm báo (Đài 303) trực thuộc Bộ tư lệnh Hải quân ngụy đóng trên núi An Hải, 40 tên Mỹ và chư hầu hoạt động ở Đài LORAN Cỏ Ống trực thuộc Hải quản Mỹ, Đài LORAN làm nhiệm vụ liên lạc với căn cứ quân sự của Mỹ ở khu vực Thái Bình Dương. Đài Kiểm báo kiểm soát toàn bộ hoạt động của tàu thuyền từ ngoài khơi vào Vùng 3, Vùng 4 Duyên Hải. Ngụy quyền chia Côn Đảo thành 3 khu vực phòng thủ:

– Chi khu A phòng thủ toàn bộ thị xã.

– Chi khu B phòng thủ từ Cỏ Ống đến Bảy Cạnh.

– Chi khu c phòng thủ từ Bến Đầm đến ông Đụng.

Mỗi chi khu có một đại đội. Riêng chi khu A có thêm Bộ chỉ huy tiểu đoàn và đại đội chỉ huy. Tiểu khu Côn Sơn trực thuộc Bộ tư lệnh quân khu 5 (đóng tại cần Thơ). Năm 1961, phong trào đấu tranh vũ trang phát triển mạnh, địch ráo riết phòng thủ Côn Đảo nhằm ngăn chặn cuộc tập kích từ hai hướng: hướng của Quân giải phóng miền Nam xuất phát từ cửa Đại Ngãi bằng ghe bầu và hướng của Hải quân Việt Nam từ Bắc vào, ngụy trang bằng ghe ngư phủ. Địch nhận xét: “Đối với Việt Cộng, Côn Sơn chưa phải là một mục tiêu quân sự, vì thế Việt Cộng không chiếm Côn Sơn làm căn cứ chiến lược hoặc dùng làm bàn đạp tấn công nội địa. Tuy nhiên, vẫn có nhiều lý do thúc đẩy Việt Cộng đột kích Côn Sơn như: gây tiếng vang trên chính trường thế giới, gieo hoang mang trong đầu óc dân chúng miền Nam, trấn an tinh thần của cán bộ nằm vùng và giải thoát cho 5.000 can phạm”.

Vì lẽ đó, Tiểu khu Côn Sơn được chuyển thành chế độ Biệt khu trực thuộc Bộ Tổng tham mưu ngụy, Bộ tư lệnh Hải quân ngụy đảm nhiệm tuần tiểu bảo vệ, liên đoàn dù được huy động ứng cứu Côn Đảo khi có sự biến. Ngày 15-11-1961, đại đội 3 thuộc tiểu đoàn 3, liên đoàn dù đã tiến hành tập trận nhảy dù tiếp ứng toạ độ XQ. 708.615 gần thị xã Côn Sơn.

Sau khi tiếp quản từ tay thực dân Pháp, ngụy quyền Sài Gòn đặt tất cả các đề lao và nhân viên giám thị trực thuộc Bộ Tư pháp (Sắc lệnh 111-NV ngày 21-8- 1956). Sau 2 vụ bạo dộng của tù nhân ở Chí hòa và Tân Hiệp (1956) phải sử dụng lực lượng an ninh quân đội đàn áp, chính quyền Diệm đã giao cho quân đội tiếp nhận các nhà lao cùng toàn bộ nhân viên. Tháng 11- 1958 ngụy quyền Sài Gòn đặt tất cả các nhà lao cùng toàn bộ nhân viên giám thị trở lại thuộc quyền quản trị của Bộ Nội vụ (Sắc lệnh 535-TP). Các nhà lao lúc đó được mang tên khá mị dân là Trung tâm huấn chính Ban đầu, Trung tâm huấn chính Côn Sơn được tổ chức theo hai cấp:

– Ban Quản đốc Trung tâm Huấn chính là bộ máy cai trị của ngụy quyền gồm Quản đốc, Ban hướng dẫn học tập và tác động tinh thần, Ban Giám thị và Ban khai thác.

– Ban chấp hành đoàn là tổ chức tự quản của tù nhân, gồm những người tù cam chịu làm tay sai cho địch. Dưới Ban chấp hành đoàn còn có Ban chấp hành toán ở mỗi phòng. Mỗi toán lại được chia thành nhiều nhóm, môi nhóm chia thành nhiều tổ dể quản lí đến từng người tù.

Năm 1960, ngụy quyền thành lập Trung tâm cải huấn Côn Sơn trực thuộc Nha tổng quản đốc các Trung tâm cải huấn với 2 trung tâm: Trung tâm cải huấn I giam tù câu lưu (không án) và Trung tâm cải huấn II giam tù án. Trung tâm cải huấn I do tên Phạm Sau, Trưởng đoàn cán bộ cải huấn của Nha Tổng Quản đốc các Trung tâm cải huấn biệt phái làm Trưởng trung tâm. Trưởng các trại là hạ sĩ quan quân đội và nhân viên công an biệt phái. Có thời gian, mỗi trại tù câu lưu chúng bố trí cả 3 tên làm đồng trưởng trại (quân đội, công an và cải huấn) để trực tiếp phụ trách các mặt: quản trị tù nhân, duy trì an ninh và cải tạo tư tưởng. Năm 1961, Phạm Sau bị cách chức. Trưởng trung tâm cải huấn I do một sĩ quan quân đội đảm trách.

Trung tâm cải huấn II do Nguyễn Văn Thà làm Giám thị trưởng, dưới quyền có 62 giám thị cải huấn (số liệu ngày 16-7-1963), trong đó có những tên khét tiếng ác ôn như Lê Văn Khương – Phó giám thị, Lê Văn Tốt – Trường ban an ninh trung tâm cải huấn II, Đỗ Văn Phục – Phó ban an ninh trung tâm cải huấn II…

Thực dân Pháp rút đi, để lại 3 trại giam chính: Lao I, Lao II, Lao III và nhiều lao phụ. Riêng Lao III có một lao chính, một lao phụ (Annexe du Bagne III), và 2 dãy biệt lập (Chuồng Cọp Pháp). Lao III chính được sửa chửa và sử dụng vào tháng 7-1959 mang tên Lao IV. Năm 1960, ngụy quyền đặt lại tên các lao: Lao I là Trại Cộng hòa, Lao II là Trại Nhân Vị, Lao III và Lao IV là Trại Bác Ái và chi nhánh Trại Bác Ái. Sau khi Ngô Đình Diệm đổ, các trại lại mang tên theo số hiệu: Trại I, Trại II, Trại III, Trại IV.

Trại V được xây dựng từ năm 1962, cùng một kiểu cấu trúc như như 4 trại trước. Trại VI, Trại VII và Trại VIII được Mỹ chi tiền, thiết kế và thầu xây cất. Ba trại này được xây dựng vào năm 1968, hòan thành cơ bản vào năm 1970-1971. Trại IX và Trại X đã được đố móng, đúc cột, xây vài bức tường rồi bỏ dở sau Hiệp định Paris 1973.

Ngoài các trại giam chính được xây dựng kiên cố, Côn Đảo còn có nhiều trại giam phụ, xây dựng tại các sở tù, nơi bóc lột lao động khổ sai của tù nhân. Trại giam phụ được xây dựng tương đối kiên cố ở các sở tù có công việc chuyên môn cố định như Sở Lưới, Công Xưởng, Nhà Đèn, Lò Than, Lò Vôi, Chuồng Bò. Một số cơ sở khác có trại dựng bằng gỗ lá như Sở ruộng Quang Trung, Sở rẫy An Hải, Sở Muối, Cỏ Ống, Bến Đầm.

Nhằm triệt để tận dụng lao động khổ sai của tù nhân, ngụy quyền Côn Đảo củng cố và mở rộng quy mô tất cả các sở tù, kể cả các sở mà thực dân Pháp đã bỏ hoang hóa từ lâu. Chúng còn mở thêm nhiều sở mới như Sở Chăn nuôi, Sở rẫy Đông Phong, Sơ rẫy Thiên Thu…

Số lượng và cơ cấu tù nhân

Trước năm 1957, Côn Đảo chỉ có một loại tù án tư pháp (hình sự) do thực dân Pháp bàn giao lại, tính đến ngày 26-12-1956, con số tù tư pháp còn lại là 674 người. Tháng 1-1957, ngụy quyền Sài Gòn chỉ thị cho các địa phương thanh lọc số tù chính trị ngoan cố nhất đưa ra an trí tại Côn Đảo. Phần lớn tù chính trị trong thời kì I này là tù không có án tiết, dược gọi là tù chính trị câu 1 lưu (câu thúc, giam giữ, lưu giữ). Tháng 12-1959, số tù câu lưu tăng lên mức cao nhất là 4.061 rồi giảm dần từ 1 năm 1960 do chuyển về đất liền và trả tự do, đến tháng 7-1963 chỉ còn lại 519 người.

Trong khi đó thì tù án ngày càng tăng lên, nhất là án chính trị cộng sản. Cuối năm 1960, số lượng tù án là 2.415 người. Tháng 7-1963, số tù án hiện hữu tại Trung tâm Cải huấn II là 3355 người. Con số tù nhân thời chống Mỹ lên cao nhất (trong khoảng 1969-1972) xấp xỉ 10.000 người. Vào tháng 7-1972, Côn Đảo có 9.667 tù nhân, trong đó, tù án: 4237 (4 nữ); câu lưu: 2.924 (313 nữ); nghi can: 1226. Số nghi can (1.226) phần đông là thường dân ở Quảng Trị-Thừa Thiên vừa bị dịch bắt trong các cuộc hành quân mùa hè năm 1972. Ngoài ra có 53 trẻ em từ 1 đến 9 tháng tuổi bị bắt theo mẹ.

Năm 1973, con số tù nhân Côn Đảo có biến động lớn, do việc trao trả tù nhân theo Hiệp định Paris. Trong số 5.081 nhân viên dân sự toàn miền Nam được trao trả, có 4.075 người ở nhà tù Côn Đảo. Sau đợt trao trả, số tù nhân Côn Đảo tiếp tục tăng lên do tiếp nhận từ các nhà lao trong đất liền. Trước ngày hòan toàn giải phóng (30-4-1975), Côn Đảo có 7.448 tù nhân, trong đó 4.234 là tù chính trị (có 494 phụ nữ) và 3.214 là tù thường phạm, quân phạm các loại.

Tù nhân, trước hết được phân loại theo án tiết, thành tù có án và tù không án (câu lưu). Tù có án còn được phân theo loại án (án tù giam, án khổ sai hữu hạn, khổ sai chung thân, tử hình) và phân theo màu sắc chính trị (Chính trị cộng sản, Chính trị quốc gia, Thường án, Quân phạm thường án, Quân phạm chính trị). Những đặc điểm phân loại được cụ thể hóa bằng màu sắc, kí hiệu, số hiệu ghi trên thẻ bài của mỗi tù nhân để chúng dễ kiểm soát. Có 5 loại thẻ bài tương ứng với 5 loại án tù:

– Vàng ròng là thường án.

– Xanh vàng là quân phạm thường án.

– Xanh đỏ là quân phạm chính trị.

– Vàng đỏ là chính trị quốc gia.

– Đỏ ròng là chính trị cộng sản.

Có thời địch đã làm thẻ bài cho tù chính trị câu lưu, mang ký hiệu H.c. Tuy nhiên, tù chính trị câu lưu đấu tranh chống mang thẻ bài rất quyết liệt.

Sự phân biệt giữa tù án và tù câu lưu chỉ là tương đôi. Tù câu lưu theo luật, bị câu lưu tối đa là 2 năm, song chúng có thể gia tăng nhiều lần đến vô thời hạn chẳng khác gì một án chung thân, đày ải và đánh đập đến chết như một án tử hình hoặc bị truy tố ra tòa vì bất cứ tội gì mà chúng muôn gán ghép. Tù án cũng có thể bị câu lưu ngay khi mãn án.

Vấn đề khí tiết của người tù dưới thời Mỹ ngụy bao giờ cũng hệ trọng hơn án tiết. Người mang án tử hình vẫn có thể giảm xuống chung thân, dưới mức chung thân và trả tự do trước mỗi biến động chính trị. Ngược lại đã có nhiều người bị câu lưu cho đến chết, hàng ngàn người bị câu lưu suốt đời nếu không có ngày giải phóng mùa xuân năm 1975 vì họ chống ly khai, chống chào cờ, chống nội quy nhà tù, giữ vững khí tiết của người chiến sĩ cách mạng.

Trong hồ sơ, báo cáo của nhà tù, mỗi thời kì đều có những cách khác nhau để phân loại tù nhân, song phân loại theo “hạnh kiểm” là cơ bản nhất (chống đối hay chấp hành nội quy).

Thủ đoạn cai trị tù nhân

Tiếp tục thủ đoạn và các cơ sở lao động khổ sai do thực dân Pháp để lại, ngụy quyền Côn Đảo ra sức bóc lột tù nhân, phục vụ bộ máy trị tù, lấy tù nuôi tù, xây dựng trại giam, làm đường sá, sân bay và các công trình quân sự. Qua các bản phúc trình của Quản đốc nhà tù, có thể thấy được âm mưu của địch bắt tù nhân ngày phải lao động cật lực, tối phải học tố cộng để không còn thời gian và sức lực để tổ chức và đấu tranh.

Tuy nhiên, chế độ khổ sai ở bất cứ nơi nào cũng dễ chịu hơn là cấm cố. Âm mưu sâu xa của địch trong việc bóc lột khổ sai thời Mỹ – ngụy nhằm phân hóa tù nhân. Những tên quản đốc lọc lõi như Nguyễn Văn Vệ, Cao Minh Tiếp, trong lúc đàn áp và đày ải những người chống đối ở các trại cấm cố đến vô hạn độ thì chúng lại nới rộng chế độ khổ sai (cho hưởng hoa lợi 40%, có lúc đến 60% rồi 100%) để lôi kéo tù nhân từ bỏ mục tiêu đấu tranh chính trị.

Theo bài bản của Mỹ, Trung tâm Cải huấn Côn Sơn tổ chức hướng nghiệp một số ngành nghề, song thực chất chỉ là thủ đoạn lừa mị, bóc lột và phân hóa tù nhân. Số người được chọn hướng nghiệp phải có “hạnh kiểm tốt” hoặc là những đối tượng chúng đang tập trung chiêu dụ theo mục tiêu của chế độ cải huấn.

Thực chất của chế độ cải huấn là tiến hành tố cộng trong tù. Có thể nói đây là thủ đoạn nguy hiểm nhất, đồng thời cũng là mục đích cao nhất của Mỹ – ngụy đối với tù nhân Côn Đảo. Từ năm 1957 đến năm 1963, đối với tù chính trị câu lưu, bọn chúa ngục Côn Đảo tiến hành đồng thời hai bước:

– Cưỡng bức ly khai cộng sản, từng bước thanh lọc số tù chính trị ngoan cố để có những biện pháp đàn áp ngày càng khốc liệt hơn.

– Tổ chức học tố cộng triền miên, nhằm cải tạo tư tưởng, triệt hạ khí tiết, biến những người tù chính trị thành kẻ phản bội, làm tay sai cho chúng.

Từ năm 1960, tù án chính trị cũng buộc phải học tố cộng buổi tối, sau ngày lao động khổ sai. Từ khi chế độ gia đình trị Ngô Đình Diệm sụp đổ, ngụy quyền Sài Gòn mới bỏ học tố cộng trong tù, chuyển sang hình thức tâm lý chiến tinh vi.

Chào cờ vừa là nội quy bắt buộc của nhà tù, vừa là một biện pháp trong thủ đoạn tố cộng. Khi chào cờ, chúng buộc tù nhân phải hô hai khẩu hiệu phản động: “ủng hộ Ngô Tổng thống”, “Đả đảo Hồ Chí Minh”, sau khi Ngô Đình Diệm đổ thì đổi là “ủng hộ Việt Nam Cộng hòa”, “Đả đảo cộng sản xâm lược” nhằm hạ nhục và bôi dấu vết phản động lên phẩm chất những người tù chính trị. Bằng thủ đoạn này, ngụy quyền hi vọng sẽ triệt hạ sinh mạng chính trị của người tù, để khi trả tự do, họ không thể trở lại đội ngũ chiến đấu được nữa.

Những người tù chính trị từng chống li khai, chống chào cờ mà không chịu được gian khổ, ác liệt, phải chịu điều kiện, bị chúng hạ nhục bằng cách bắt kí giấy li khai, bôi nhọ cộng sản, hoặc bắt tập hợp biểu tình, hô những khẩu hiệu phản động.

Những người tham gia các tổ chức trong tù bị bể bạc, không chịu được đòn, đã khai báo bị chúng truy bức đến cùng, buộc phải khai lại hồ sơ, khai báo từ đầu toàn bộ tổ chức trong tù, tổ chức bên ngoài, buộc phải phản tỉnh bằng cách vạch ra những phương án giúp chúng đánh phá hữu hiệu các tổ chức cách mạng.

Từ năm 1968, dược sự chỉ đạo trực tiếp của cố vấn Mỹ, ngụy quyền Côn Đảo tiến hành các thủ đoạn tâm lí chiến, điển hình là “Chương trình tâm lý chiến thí điểm Côn Sơn” (1968-1972). Đây cũng là thời kỳ chúng sử dụng những tên sĩ quan tình báo học ở Mĩ, Đài Loan về làm chúa đảo.

Đối với những tù nhân chống ly khai, lúc đầu, ngụy quyền dùng thủ đoạn phổ biến là xiết bóp đời sống (nhốt chật, cấm cố, đóng cửa cây, bớt cơm, cúp nước tắm, bớt nước uống, bệnh đau không thuốc chữa trị) nhằm đẩy người tù đến chỗ suy kiệt dinh dưỡng, mòn mỏi tinh thần, chịu đựng không nổi, phải chịu ly khai.

Từ năm 1959 trở đi, chúng còn cho công an, trật tự tra tấn, khủng bố bằng những ngón đòn tàn bạo, truy bức trường kì cả thế xác lẫn tinh thần, về chế độ ăn uống, đặc biệt là tù chính trị ở các lao cấm cố, có thế dẫn ra đây một đoạn trong Luận án Tiến sĩ y khoa của bác sĩ Nguyễn Minh Triết mang tên Nhận xét về bệnh lý tại một nhà lao:

“Thức ăn chính (của tù nhân) gồm:

– Gạo: xấu, lẫn nhiều tấm, thóc, sạn.

– Khô: thường là khô củ, mục đắng, gọi là khô kyninh.

– Mắm sặc: tương đối được ưa chuộng.

– Cá hộp: nội hóa, có khi bị hư, 5 người một hộp trong mỗi bữa ăn, nhưng không phải là 5 món mà chỉ là gạo với một trong 5 thứ ấy.

– Cá tươi: hiếm, gần đây có một tàu đánh cá, lâu lâu cung cấp cho tù nhân một số cá Xà, cá Mập, gây nhiều bệnh biến chứng, đặc biệt là bệnh suyễn, nhưng tàu lại hay bị nằm ụ.

– Thịt: thật là hiếm, kể từ tháng 7-1968 đến tháng 11-1971 (40 tháng) được ăn thịt có 6 lần.

– Rau: ít ỏi, chính là rau muống bón bằng phân người tươi, ở các lao cấm cố, trước đây không được ăn rau, và chuyện bứt cỏ (cỏ thỏ, sam đất, mần trầu) hay lá cây (lá bàng, lá phượng) để ăn là chuyện bình thường.

– Cầu tiêu: trong góc khám, lúc nhúc dòỉ. Trại nữ trước đây ở biệt lập I và II, đi cầu vào thùng cây, đầy lại đổ ra các hố lộ thiên, ruồi nhặng khủng khiếp. Muỗi rất nhiều”.

Ngoài việc đánh đập, tra tấn, hành hạ tại trại giam, tại nơi làm khố sai hay ở Ban chuyên môn với những ngón đòn hiểm độc gấp nhiều lần thời Pháp, Mỹ ngụy còn tổ chức những chiến dịch lớn, đưa lực lượng chống cộng sừng sỏ và cảnh sát dã chiến ở Sài Gòn ra, sử dụng lựu đạn cay và các phương tiện chống bạo động để đàn áp tù nhân khi cần thiết.

Việc phân loại tù nhân, áp dụng các chế độ giam giữ, chế độ kỷ luật, cưỡng bức khổ sai, đàn áp và khủng bố nhằm mục đích đày đọa, làm kiệt quệ về thể xác, mòn mỏi về tinh thần triệt hạ khí tiết cách mạng, biến người tù chính trị thành kẻ phản bội, trở thành tay sai cho chúng. Không làm được như vậy, chúng đánh đập, đày ải đến tàn phế, để khi mãn hạn tù, họ sẽ thành kẻ tật nguyền, không còn khả năng hoạt động.

Kế thừa kinh nghiệm của thực dân Pháp, ngụy quyền Sài Gòn đã đưa thủ đoạn “dùng tù trị tù” lên một trình độ mới, tinh vi và thâm hiểm vượt xa quan thầy. Thủ đoạn phổ biến của chúng là dùng tù thường phạm, tù giáo phái, tù quân phạm lưu manh làm trật tự, an ninh để đàn áp tù chính trị. Địch đặc biệt chú ý đến những phần tử đầu hàng, phản bội. Bọn này hầu như đã mất hết nhân tính, chúng lấy việc đánh giết tù nhân làm trò tiêu khiển và để tiến thân.

Bọn trật tự được tổ chức thành “Hệ thống nổi”. Bên cạnh đó có mạng lưới an ninh được tố chức thành “Hệ thống chìm”, theo mô hình từ Trung tâm đến trại, phòng, toán, tố. Ngoài hai loại trật tự an ninh nói trên, địch còn tổ chức những toán trật tự bãi để kiểm soát tù vượt ngục, trật tự lưu động để kiểm soát các toán tù làm khổ sai, trật tự an ninh tăng phái, tăng cường không chế tù nhân ở những “điểm nóng”.

Năm 1960, Ban an ninh được đổi thành Ban điều tra, trực thuộc từng trung tâm, ít lâu sau đổi lại là Ban an ninh. Tháng 9-1963, Lê Văn Khương được đề bạt chức Phó giám thị phụ trách an ninh Trung tâm cải huấn II, Khương đổi thành Ban an ninh nội trại. Thiếu tá Nguyễn Văn Sáu là Tỉnh trưởng kiêm Quản đốc trung tâm cải huấn. Sáu vốn là sĩ quan Cao Đài theo Diệm, biết “trở cờ” đúng lúc nên sau đảo chính (1-11-1963) vẫn không mất chức. Sáu có thái độ hòa hoãn với tù nhân, chấp nhận việc tù chính trị câu lưu chống chào cờ, học chống tố cộng. Lê Văn Khương vào phe đối lập, tố cáo thiếu tá Sáu về tận Sài Gòn.

Nguyễn Văn Sáu đổ (6-1964), Tăng Tư lên thay. Nhờ thành tích đàn áp tù nhân và góp phần hạ bệ Nguyễn Văn Sáu, Lê Văn Khương được tin dùng. Theo đề nghị của Khương, Tăng Tư thống nhất tổ chức trật tự trung tâm cải huấn I và trung tâm cải huấn II thành Phòng chuyên môn, do thiếu úy Nguyễn Văn Diệp, nguyên là Trưởng ban an ninh Trung tâm cải huấn I làm Trưởng phòng. Lê Văn Khương là đệ nhất Phó phòng đặc trách Hệ thống chìm (mật báo). Giám thị Nguyễn Văn Đàng là đệ nhị Phó phòng, đặc trách Hệ thống nổi (trật tự). Giám thị Phạm Văn Long làm Trưởng Ban Hoạt vụ, đặc trách về điều tra khai thác.

Do mâu thuẫn với thiếu úy Diệp, đầu năm 1965, Lê Văn Khương xin đổi về Phòng nội an (tòa hành chánh). Giữa năm 1965, Diệp đề cử thiếu úy Nguyễn Văn Dũng thay thế, trước khi đổi về đất liền. Phòng chuyên môn lúc ấy quyền hành trùm cả Trung tâm cải huấn, lấn át Phó quản đốc, Phó tỉnh trường phụ trách Nội an.

Cùng thời gian đó, Tăng Tư mất chức, Nguyễn Thế Tỵ giữ quyền Tỉnh trưởng. Đại úy Trần Hữu khỏe giải tán Phòng chuyên môn, lập lại Ban chuyên môn và Ban an ninh. Lê Văn Khương được cử làm Trưởng ban chuyên môn. Phụ tá cho Khương có giám thị Phạm Văn Long đặc trách về SƯU tra, Trần Minh Tâm, đặc trách về thư tín. Ban chuyên môn đảm nhiệm hệ thống chìm, lo việc khai thác, SƯU tra, nắm vững nhân số, xây dựng tình báo, mật báo trong nội bộ tù nhân, kiểm duyệt thư tín, thu thập tin tức. Ban an ninh do giám thị Nguyễn Văn Tốt làm Trưởng ban cùng hai phụ tá là Lục Văn Keo và Nguyễn Văn Tý. Ban an ninh có nhiệm vụ canh gác tất cả các chòi bãi, ruộng rẫy, cửa rừng, đề phòng tù vượt ngục.

Cuối năm 1965, thiếu tá Nguyễn Văn Vệ ra làm chúa đảo. Vệ đặc biệt tin dùng Khương, giao cho Khương trọn quyền sắp xếp bộ máy an ninh trật tự. Lê Văn Khương sinh năm 1929 tại Long Xuyên, có biệt tài về tổ chức, có năng lực chỉ huy, giỏi nghề tình báo, hám danh, chống cộng triệt để. Bộ máy mật vụ do Khương tuyển chọn và huấn luyện thật sự là những con thú dữ say máu, cắn xé đồng loại không biết ghê rợn, gây nhiều tội ác đẫm máu với tù nhân Côn Đảo.

Bộ máy an ninh trật tự là công cụ chủ yếu để quản trị và đàn áp tù nhân. Đây cũng là dấu ấn đậm nét nhất trong thủ đoạn dùng tù trị tù của Mỹ – ngụy.

Khác hẳn thời Pháp, người tù chính trị thời Mỹ ngụy không bao giờ được yên phận tù. Bóc lột khổ sai, cấm cố, đày ải, khủng bố với mức độ tàn bạo vượt xa thực dân Pháp, nhưng việc hành xác và giết hại người tù vẫn chưa phải mục đích cuối cùng của chúng. Tất cả các thủ đoạn tinh vi, thâm độc và tàn bạo nhất của Mỹ – ngụy đều nhằm tiêu diệt sinh mạng chính trị người tù, vô hiệu hóa cán bộ cộng sản.

Phương châm của Mỹ – ngụy là “muốn giữ tù yên thì không bao giờ để cho tù được yên”. Đã cưỡng bức được họ ly khai cộng sản thì phải tiếp tục bắt học tố cộng, chào cờ “quốc gia” hô khẩu hiệu phản động, ký kiến nghị ủng hộ Ngô Đình Diệm, đả đảo Hồ Chí Minh, nhằm gột rửa tư tưởng cộng sản, biến người cách mạng thành kẻ phản bội lý tưởng của mình, phản bội tổ chức và lãnh tụ mình, làm tha hóa phẩm chất, nhân cách đến mức có được trả tự do cũng không thể dung nạp vào đội ngũ chiến đấu được nữa.

Cuộc đấu tranh anh dũng của các chiến sĩ cách mạng trong nhà tù thời Mỹ – ngụy trước khi có Hiệp định Paris (27-1-1973) đã diễn ra vô cùng quyết liệt và có sự phân biệt rõ nét của 2 thời kỳ: chống tố cộng, diệt cộng rất cực đoan theo kiểu Ngô Đình Diệm và chống các thủ đoạn tâm lý chiến, chiêu hồi thời kỳ sau Ngô Đình Diệm với sự gia tăng của cố vấn Mỹ, viện trợ Mỹ phương thức quản trị tù nhân và phương tiện đàn áp kiểu Mỹ.