Lưu trữ hàng tháng: Tháng Ba 2021

Đặc điểm tập tính của loài rùa

Rùa là động vật lớn chậm, quá trình sinh trưồng liên quan chật đến điều kiện môi trường như: thời tiết, nhiệt độ, chất lượng thức ăn. Rùa nuôi 2 năm thì sẽ lớn được 300 – 400g. Có nguồn thức ăn đầy đủ và nuôi có kinh nghiệm có khi thì rùa được 500 – 600g/con.

Đặc điểm chung của loài rùa

Đặc tính đi kiếm ăn

Ở môi trường tự nhiên rùa ăn chủ yếu các động vật như: động vật phù du, công trùng, tôm tép, cua, cá. Còn khi nuôi rùa thích ăn các con vật đã bắt đầu ươn thối, lúc ăn rùa thường tranh cướp mồi, có khi ăn cả cám, bắp, khoai lang…

Chúng ăn khỏe vào mùa hè, lượng thức ăn bằng 5 – 10% trọng lượng thân. Còn vào mùa đông tháng 12 – 3 thời tiết lạnh rét thì lượng thức ăn chỉ bằng 3-5% trọng lượng của thân.

Đặc biệt, rùa có khả năng chịu đói, không có hành vi tấn công kẻ thù, lúc gặp địch hại chúng chỉ trốn vào trong hang hay lặn xuống nước, chui vào bụi rậm, co rụt đầu lại.

Quá trình sinh trưởng của rùa

Rùa là động vật lớn chậm, quá trình sinh trưồng liên quan chật đến điều kiện môi trường như: thời tiết, nhiệt độ, chất lượng thức ăn…

Rùa nuôi 2 năm thì sẽ lớn được 300 – 400g. Có nguồn thức ăn đầy đủ và nuôi có kinh nghiệm có khi thì rùa được 500 – 600g/con.

Vào thời điểm từ tháng 4 – 11 là thời kỳ rùa lớn nhanh.

Trong điều kiện nuôi cho rùa ăn bằng cá mè băm nhỏ, ở nhiệt độ 25 – 28°c, cõ nuôi 100g/con, rùa có thể tăng trọng 28g/con/tháng.

Khi nhiệt độ xuống thấp dưới 10°c, thì sức ăn của rùa giảm, rùa sính trưởng chậm.

Hơn nữa, trong cùng điều kiện nuôi dưỡng thì con cái sẽ lón nhanh hơn con đực.

Quá trình sinh sản của rùa

Rùa là loài đẻ trứng trên cạn, thụ tinh trong. Đặc biệt, loài rùa có thể kéo dài thòi gian thụ tinh tới 6 tháng, nên khi cho rùa đẻ thì tỷ lệ con đực thường ít hơn con cái.
Mùa sinh sản chính của rùa là vào dịp cuối xuân đầu thu.

Đặc biệt rùa đẻ nhiều vào những ngày mưa to, có sấm chớp nhiều. Vì vậy, muôn tìm trứng rùa chỉ cần đi ven các bãi sông, ven đầm hồ, ao thấy rõ đất mâi và các vết móng đào đất lấp ổ trứng mới đẻ của rùa cái, lấy que nứa nhẹ nhàng lật những lớp đất mỏng phủ phía trên, sẽ thấy lỗ nhỏ, đường kính miệng 4 – 5cm, sâu 10 – 15cm. Trứng rùa được xếp lần lượt từ đáy lên miệng lỗ, lúc mới đẻ trứng thường dính vào nhau, vỏ hòi mềm.

Khi đẻ xong rùa bò xuống ỏ nơi gần nhất đê nghỉ và canh giữ, nhân dân ta thường nói là rùa “ấp bóng”.

Một con rùa nặng 2.000g mỗi lứa đẻ được 10 – 15 quả trứng.

Rùa mẹ đẻ sau 5 – 7 ngày lại tiếp tục giao phôi.

Rùa 4.000 – õ.OOOg có thể đẻ 4 – 5 lứa trong 1 năm. (Khi mổ một con rùa nặng 350g có khoảng 400 trứng non).

Thài gian rùa đẻ ỏ miền Bắc từ tháng 4 – 9, đẻ nhiều nhất vào các tháng 5, 6, 7, đôi khi rùa đẻ đến hết tháng 10 dương lịch.

Đường kính của trứng cỡ lốn 17 – 20mm, nặng 6 – 6,5g/quả.

Nhiệt độ đẻ thích hợp cho rùa là: 25 – 32°c.

Một sô đặc điểm đặc biệt của rùa

Rùa là động vật có thể thay đổi thân nhiệt, nhiệt độ thân của rùa thay đổi từ từ và thường theo sau nhiệt độ của không khí.

Chúng thưòng sông ở đáy sông, suối, đầm, hồ, ao… lặn giỏi, có thê bơi ở đáy nước hàng giờ nhò vùng họng của rùa có nhiêu mạch máu. Rùa bò nhanh và đi xa vượt qua đê vào đầm hồ, hay từ ao này sang ao khác.

Hơn nữa, rùa là loài phàm ăn nhưng chậm lớn. Chúng thở bằng phổi, sông ỏ dưới nước là chính, thích chui rúc vào các hang hốc ở bờ kè đá, chúng thường tập trung ỏ các đoạn sông tiếp giáp các cửa kênh, rạch dẫn nước vào đồng ruộng. Khi ban đêm yên tĩnh, rùa hay lên bò, còn ban ngày rùa nó nhô đầu lên mặt nưốc, có khi bò lên bờ.

Loài rùa có tính hung dữ như nhiều loài ăn thịt khác, nhưng lại nhút nhát, rùa có thể thường chạy chôn khi nghe có tiếng động hay bóng người và súc vật qua lại. Khi đói có thê chúng ăn thịt lẫn nhau, có khi một con bị thưdng cháy máu thì các con khác xúm lại cắn xé một cách tàn bạo.

Tập tính của loài rùa

Loài rùa rất trường thọ. nhất là rùa biển, nêu ỏ môi trường thuận lợi chúng có thể sông vài trăm năm. Có một nông dân ỏ Triết Giang (Trung Quốc) bắt được một con rùa lạ ờ núi Tiên Nham. Theo kết luận của một sô” nhà chuyên môn thì con rùa này có tuổi trên dưới 800 năm.

Còn theo một cuốn sách cổ của Trung Quốc thì nưóc Sở có con rùa khi chết đạt tới 3000 năm tuổi. Rùa sống lâu nhờ cơ thể có cấu tạo đặc biệt (Sự phân chia tê bào nhiều hơn người, tim rùa khi tách khỏi cơ thể vẫn hoạt động 48 giờ, bộ phận hô hấp khác thường và đặc biệt chúng có khả năng nhịn àn).

Rùa chịu đói rất giỏi: Loài rùa có đặc tính này là do chúng bị trường kỳ thiếu thức ãn tạo thành, đo chậm chạp nên rùa kiếm mồi rất khó khăn. Do đó, khi thuận lợi chúng sẽ ăn nhiều để tạo nên nguồn năng lượng dự trữ dồi dào cung cấp cho cơ thể khi đói. Chúng nằm im thời gian dài, không cử động, khiến cho hoạt động chuyển hóa giảm thấp đến mức nhỏ nhất.

Ngoài ra, nhiệt độ trong có thể chúng có sự biến hóa tuỳ theo thay đổi của nhiệt độ môi trường xung quanh, không cần tôn năng lượng để duy trì nhiệt độ ổn định. Ngày 1/8/1993, tại Thẩm Dương – Trung Quốc, khi người dân đào nền một ngôi nhà thấy một hộp gỗ vuông nhôt một con rùa. Lúc đầu, rùa nàm yên, khoảng 5 giờ sau. nó bat đáu cứ động và bò đi. Khi kiểm tra, tìm hiểu thì mối rỏ rằng người chủ của ngôi nnà này do mè tín nên khi xây nhà cách đây 60 năm đã chọn con rùa đế làm “vật trấn yêu”. Như vậy, khả năng nhịn đói trong thời gian dài cua rùa rất giỏi.

Mai rùa rất cứng: Do sự thay đổi của khí hậu và qua một quy trình hình thành, mai của rùa trỏ nên rắn chắc nhằm bảo vệ ngũ tạng và tránh được sự thuỷ phân. Vì vậy, khi bị nguy hiểm, X’ùa co đầu, đuôi, bôn chân vào dưới mai để phòng vệ. Tuy nhiên, cũng có loài rùa mai mềm.

Nước mắt của rùa: Khi bắt rùa biển, người ta có cảm tưởng rùa khóc vì nước mắt của nó rơi thành giọt. Đây chính là hiện tượng bài tiết lượng muối quá nhiều trong cơ thể rùa. Do phải sông lâu dài trong nước biển, nên cơ thể rùa có nhiều muối để thích nghi vối môi trường sống, còn khi môì trường sống thay đổi, chúng phải thải trừ bớt muôi.

Hình thức đẻ trứng của rùa: Rùa thường đẻ trứng bằng cách bới cát hoặc bùn để vùi trứng trong đó. Tùy theo mỗi loài mà sô trứng có thê từ 10 – 100 quả. Những quả trứng này nhò sức nóng mặt trời, ấp nở thành rùa con. Vừa nỏ ra, chúng liền tìm cách bò xuống nước (tý lệ sống sót rất thấp, chi từ 1 – 10% nếu không có sự chăm sóc của con người).

Hơn nữa, nhiệt độ môi trường còn có thể quyết định giối tính của rùa con. Qua nghiên cứu cho thấy: 0 nhiệt độ 27,5°c sẽ nở ra rùa đực, còn ở nhiệt độ cao hơn thì nở ra rùa cái.

Loài rùa có khả năng tìm về nơi sinh ra: 0 Trung Quốc, có con rùa sau 40 năm, qua 10 lần phóng sinh, mỗi lần ở một nơi khác xa nhau và ở xa chốn cũ nhưng cả 10 lần nó đều trở lại quê xưa. Do chủ nhân có khắc trên mai của con rùa này năm thả và tên người chủ nên dễ nhận ra và được giao đúng cho ngưòi thả. Đây là hành vi có tính chất bản năng của loài vật do ảnh hưởng của môi trường sông như: độ ẩm, ánh sáng, khí hậu, nguồn thức ăn…

NTL (Theo NXB Thời đại)

Tuần lễ Ẩm thực Món ngon Phố biển Vũng Tàu diễn ra từ ngày 24/4 đến 2/5

Đây là thông tin được đưa ra tại cuộc họp giữa UBND TP Vũng Tàu và Công ty CP Ngôi sao Biển Sài Gòn về “Tuần lễ món ngon phố biển Vũng Tàu 2021”, chiều 24/3.

Theo đó, từ ngày 24/4 đến ngày 2/5 sẽ diễn ra các hoạt động của “Tuần lễ món ngon phố biển Vũng Tàu 2021” tại tuyến đường Quang Trung (đoạn từ đường Bacu đến đường Trương Công Định), phường 1, TP Vũng Tàu. Trong đó có 108 gian hàng trưng bày và phục vụ khách tham quan thưởng thức các món ngon, đặc sản của Bà Rịa – Vũng Tàu và các vùng miền cả nước và một số một số món ngon tiêu biểu của nước ngoài.

Trong “Tuần lễ Món ngon phố biển Vũng Tàu 2021- Vung Tau Taste Week 2021” diễn ra từ ngày 24/4 đến 2/5 sẽ có 4 hội thi gồm: chế biến món ăn, cắt tỉa rau củ quả, bartender và trang trí, thiết kế gian hàng. Trong đó, thi chế biến món ăn có chủ đề “Quà tặng của biển” diễn ra lúc 17 giờ ngày 26/4; thi cắt tỉa rau củ quả chủ đề “Quà tặng của thiên nhiên” lúc 16 giờ ngày 25/4; thi bartender biểu diễn pha chế cochtail chủ đề “Biển hát” lúc 19 giờ ngày 30/4. Riêng phần chấm giải thiết kế, trang trí gian hàng sẽ diễn ra trong ngày 26/4. Với mỗi nội dung thi, BTC sẽ trao giải các giải nhất, nhì, ba và khuyến khích.

Theo BTC Vung Tau Taste Week 2021, các hội thi là cơ hội cho người đam mê nghệ thuật nấu ăn trình diễn kỹ năng nghề và sự sáng tạo để tạo ra những tác phẩm nghệ thuật đẹp mắt mãn nhãn người xem. Người dự thi phải thuyết trình ý nghĩa tác phẩm, món ăn dự thi. Cá nhân, tổ chức đăng ký dự thi theo mẫu do BTC cung cấp. Thời gian nhận đăng ký dự thi đến hết ngày 20/4.

Báo BRVT điện tử

Những người vén màn bí mật “chuồng cọp” Côn Đảo

Ngày 17-7-1970, những bức ảnh chụp tại khu “chuồng cọp” – nhà tù Côn Đảo đăng trên tạp chí Life khiến cả thế giới bàng hoàng trước một nhà tù với đủ hình thức đọa đày man rợ những tù nhân chính trị, nơi được mệnh danh là “địa ngục trần gian” đã tồn tại bí mật trong nhiều năm trời.

Đằng sau những bức ảnh gây chấn động dư luận thế giới này, là câu chuyện hết sức cảm động về tình hữu nghị của những người yêu nước Việt Nam và phản chiến Mỹ, những sứ giả đấu tranh cho hòa bình từ 2 chiến tuyến được lưu giữ suốt 47 năm qua…

Năm 1940, người Pháp đã xây dựng một khu trại giam giấu kín tại Côn Đảo với các phòng nhốt người vô cùng chật hẹp, nơi người tù ăn, ngủ, tiểu, đại tiện chung một chỗ, bên trên là song sắt và hành lang đi lại dành cho những tên cai ngục theo dõi tù nhân, được gọi là khu “chuồng cọp”. Đây là nơi biệt giam khắc nghiệt nhất. Người tù bị cùm chân và phải nằm trên nền xi măng ẩm thấp, điều kiện vệ sinh và ăn uống tồi tệ, thường xuyên bị tra tấn. Trên hành lang “chuồng cọp” luôn có những thùng vôi, nước. Nếu tù nhân la hét và chống đối sẽ bị lính canh vém vôi bột xuống mù mịt và dội nước để tra tấn.

“Chuồng cọp” ở nhà tù Côn Đảo bao gồm 120 phòng biệt giam, chia làm 2 khu, mỗi khu 60 phòng. Nơi đây thực dân Pháp đã giam giữ những người cộng sản, những người ái quốc chống lại chính phủ thuộc địa; sau đó được Mỹ và chính quyền Việt Nam cộng hòa sử dụng để giam cầm những người tù chính trị trong cuộc chiến chống Mỹ tại Việt Nam. Ngoài những tên cai ngục, không ai được biết đến bí mật của khu “chuồng cọp”. Những tù nhân được đưa vào đó, không mấy ai có cơ may sống sót trở về, vì thế trong suốt thời gian dài, thế giới bên ngoài chỉ nghe đồn về nhà ngục kiểu Trung cổ này chứ chưa ai đưa ra được bằng chứng về sự tồn tại của nó.

Những người vén màn bí mật “chuồng cọp” Côn Đảo

Nhân chứng lịch sử

Tôi may mắn được gặp ông Cao Nguyên Lợi, cựu tù chính trị Côn Đảo, nhân chứng lịch sử trong vụ việc phanh phui bí mật “chuồng cọp” nhà tù Côn Đảo đăng trên Tạp chí Life 47 năm trước tại buổi giới thiệu cuốn sách “Tù chính trị câu lưu Côn Đảo 1957-1975 từ thực tiễn nhìn lại” (NXB QĐND phát hành năm 2017 – tái bản lần thứ ba) do Trung tâm Giáo dục truyền thống và lịch sử Việt Nam phối hợp Ban liên lạc tù chính trị Côn Đảo tổ chức sáng 18-8 tại Hà Nội.

Gần nửa thế kỷ đã trôi qua, từ một sinh viên đấu tranh mạnh mẽ cho hòa bình tại miền Nam Việt Nam bị chính quyền Sài Gòn bắt giam và đọa đày tại “chuồng cọp” Côn Đảo, giờ đây, mái tóc người cựu tù chính trị đã bạc trắng. Song trí tuệ của ông vẫn minh mẫn và đặc biệt, ông luôn truyền cảm hứng cho những người xung quanh bởi ý chí mạnh mẽ, tinh thần lạc quan và lòng nhân ái, yêu chuộng hòa bình tha thiết.

Sự xuất hiện của cựu tù chính trị Cao Nguyên Lợi với những tấm hình được đăng trên Tạp chí Life tại buổi giới thiệu cuốn sách đã khiến mọi người hết sức xúc động. Ông Lợi đã giữ và luôn mang theo những tấm hình này từ hàng chục năm nay như những kỷ vật thiêng liêng bởi đây là chứng tích phanh phui vụ “chuồng cọp” Côn Đảo trước dư luận quốc tế mà ông là người tham gia với vai trò thiết kế ý tưởng và kế hoạch hành động.

Khởi điểm của sự kiện “vén màn bí mật “chuồng cọp” nhà tù Côn Đảo” bắt đầu từ cuối năm 1969 – đầu năm 1970, ở Sài Gòn liên tiếp xảy ra các cuộc biểu tình yêu cầu trả tự do cho các học sinh, sinh viên đang bị giam ở Côn Đảo. Trước áp lực này, ngày 25-5-1970, nhà cầm quyền buộc phải thả một số học sinh, sinh viên bị giam ở “chuồng cọp”, trong đó có ông Cao Nguyên Lợi. Nhờ tấm bản đồ ông Lợi vẽ khi ra khỏi “chuồng cọp” mà thế giới biết được sự tồn tại ở một nơi mà ở đó con người bị tước đoạt mọi quyền làm người.

Ông Cao Nguyên Lợi dẫn dắt chúng tôi tới câu chuyện tấm bản đồ “chuồng cọp” bằng một tấm ảnh đen trắng chụp ảnh mẹ ông – bà Dương Thị Sen, một người đàn bà bán vải tại Đà Lạt vào năm 1970 đã lặn lội ra Côn Đảo thăm con khi ông Lợi đang bị giam tại khu “chuồng cọp”.

Đây là một tình huống hiếm có, liên quan đến chính trường Sài Gòn thời ấy. Mà theo ông Lợi thì đây là chuyến thăm viếng đặc biệt chưa từng có bởi con từ “chuồng cọp” lên thăm mẹ, đó là một chuyện lạ lùng bởi về nguyên tắc, những người bị kỷ luật phải ở “chuồng cọp” thì không được ai thăm cả. Vậy mà vì sao ông Lợi lại từ “chuồng cọp” được ra thăm mẹ và chuyển tin tức từ “chuồng cọp” ra ngoài?

Đầu năm 1970, trong một buổi đối thoại với nội các Việt Nam cộng hòa, chị Tô Thị Thủy – Chủ tịch Hội Sinh viên Đại học Sư phạm (bạn gái của Cao Nguyên Lợi – người đang bị giam giữ tại khu “chuồng cọp” Côn Đảo do tham gia phong trào chống chiến tranh của sinh viên, sau này trở thành vợ của ông Lợi) đã yêu cầu nhà cầm quyền phải thả ngay những sinh viên bị giam giữ tại “chuồng cọp”.

Thủ tướng Việt Nam cộng hòa lúc đó là Trần Thiện Khiêm tuyên bố: Ở Côn Đảo không hề giam học sinh, sinh viên, nếu các anh chị tìm thấy danh sách, chứng cứ có học sinh, sinh viên bị giam giữ tại Côn Đảo, tôi sẽ ra lệnh thả ngay lập tức.

Bắt thóp tuyên bố này của Trần Thiện Khiêm, chị Tô Thị Thủy đã vận động bà Dương Thị Sen làm đơn xin thăm con là sinh viên Cao Nguyên Lợi đang bị giam ở khu “chuồng cọp” để nắm thông tin. Vậy là không quản khó khăn, gian khổ, mặc dù lúc đó đang mùa bão nhưng vì thương con, bà Dương Thị Sen đã bằng mọi cách thu xếp chuyến ra Côn Đảo thăm con.

Để có bức hình chụp làm bằng chứng về việc Cao Nguyên Lợi đang bị giam ở “chuồng cọp” Côn Đảo, bà Dương Thị Sen đã sắp xếp một cách rất thông minh. Khu vực bà Sen được phép thăm con là nhà tiền chế, phía trước là biển có tàu neo đậu. Bà Sen đã chuẩn bị trước một chiếc máy ảnh của chị gái ông Lợi rồi nhờ một người trên tàu chụp hộ.

Theo kế hoạch, khi ông Lợi bước ra cạnh mẹ trước nhà tiền chế, người trên tàu lập tức bấm hình. Khi bà Sen lên tàu, họ giao lại chiếc máy ảnh. Theo ông Lợi, tấm hình không được nét lắm, cái máy chụp ảnh khi đó chỉ bấm được vài ba tấm mà thôi, nhưng có giá trị cực quý giá. Tấm hình này bà Sen đã mang về Sài Gòn, đưa cho chị Tô Thị Thủy và đó là một bằng chứng quan trọng để chứng minh rằng một người mẹ ra thăm con là sinh viên đang bị giam giữ ở “chuồng cọp” với bản án chỉ 3 năm.

Cũng thông qua người mẹ, Cao Nguyên Lợi nhận được thông điệp từ đất liền rằng cần phải có chứng cứ xác thực về những sinh viên đang bị giam giữ ở “chuồng cọp” Côn Đảo. Cao Nguyên Lợi đã thêu tên những học sinh, sinh viên lên một chiếc khăn gửi mẹ chuyển về, như một món quà tặng người yêu. Thêu được tên 5 người thì hết chỉ.

Chiếc khăn và bức ảnh được chuyển đến chị Tô Thị Thủy. Với chứng cứ xác thực trong tay, Hội Sinh viên Đại học Sư phạm đã gửi yêu sách đến thủ tướng Trần Thiện Khiêm. Kết quả là Cao Nguyên Lợi và 4 học sinh, sinh viên khác được trả tự do sáng 25-5-1970.

Là một người rất thông minh, những lần được dẫn giải từ “chuồng cọp” ra thăm mẹ và lần đưa từ “chuồng cọp” ra ngoài để trả tự do, Cao Nguyên Lợi đã tranh thủ quan sát, ghi nhớ đường đi lối lại trong đầu, để rồi ông vẽ lại và hướng dẫn một cách chính xác cho Tom Harkin và Don Luce sau này khi họ ra Côn Đảo, vén bức màn bí mật về “chuồng cọp” – nơi được mệnh danh là nhà tù trong nhà tù, nơi địa ngục trần gian đọa đày biết bao con người đấu tranh cho hòa bình, tự do.

Cuộc gặp gỡ định mệnh

Lại nói về Cao Nguyên Lợi. Sau khi thoát khỏi ngục tù, ông đã ở lại Sài Gòn đấu tranh giữ thế hợp pháp, tố cáo nhà cầm quyền bắt giam mình vô cớ, tố cáo chế độ đày ải man rợ ở “chuồng cọp” Côn Đảo. Nhờ hậu thuẫn của dân biểu Đinh Văn Đệ, bản tường trình của 5 sinh viên, học sinh về một địa ngục có thật tại “chuồng cọp” Côn Đảo do Cao Nguyên Lợi viết và trình bày trước liên ủy ban nội vụ – tư pháp định chế – xây dựng nông thôn của hạ nghị viện Việt Nam cộng hòa, phiên họp ngày 19-6-1970 đã làm nóng chính trường Sài Gòn.

Bản tường trình được in rô-nê-ô, phân phát trong hội nghị và báo giới. Nhà báo Don Luce đã tiếp xúc với Cao Nguyên Lợi và biết thêm nhiều chuyện kinh khủng ở “chuồng cọp”.

Don Luce tốt nghiệp cử nhân kinh tế nông nghiệp, thạc sỹ phát triển nông nghiệp, là thư ký Hội đồng Nhà thờ thế giới, Giám đốc Cơ quan tình nguyện Quốc tế ở Việt Nam từ tháng 11-1958. Don Luce phục vụ 13 năm tại Việt Nam như một nhà thiện nguyện, một hiệp sĩ bảo vệ người yếu thế. Ngoài công việc từ thiện, ông còn viết sách, sản xuất phim truyền hình và viết báo cho New York Time, Washington post…

Sau khi gặp gỡ, Cao Nguyên Lợi và Don Luce đã thiết kế ý tưởng chuyến đi ra Côn Đảo để phanh phui sự thật “chuồng cọp”. Nhưng ai sẽ là người thu xếp được chuyến đi này?

Cơ hội đã đến khi tháng 6-1970, một ủy ban điều tra của Quốc hội Mỹ đã đến Sài Gòn để tìm hiểu việc sử dụng các khoản viện trợ của Mỹ cho Nam Việt Nam. Trợ lý đoàn là một sinh viên luật còn trẻ tên là Tom Harkin. Trong quá trình chuẩn bị tài liệu cho chuyến đi, Tom đã đọc cuốn sách của Don Luce có tựa đề “Việt Nam: Những tiếng nói chưa được biết đến” (Vietnam: The unheard voices). Khi đến Sài Gòn, Tom Harkin đã gặp Don Luce. Don Luce hỏi ngay: “Ông đã nghe về “chuồng cọp” bao giờ chưa? Ông phải gặp ngay các thủ lĩnh sinh viên vừa thoát khỏi “chuồng cọp””.

Một buổi chiều tối, Don Luce đưa Cao Nguyên Lợi đến gặp Tom ở khách sạn, nói cho Tom câu chuyện về “chuồng cọp” Côn Đảo. Đó là khởi nguồn cho những bí mật sắp được phanh phui. Cao Nguyên Lợi nói với ông Tom Harkin: Nếu ông muốn gặp các thủ lĩnh sinh viên thực sự, ông nên tìm họ trong các “chuồng cọp” ở Côn Đảo.

Lúc đầu, Tom không tin vì trước đó, một đoàn nghị sĩ Mỹ đã nghe lời đồn về “chuồng cọp” nhưng không tìm ra manh mối. Cố vấn Mỹ về nhà tù nói rằng, không có cái gọi là “chuồng cọp”. Đó là câu chuyện từ thời Pháp.

Cao Nguyên Lợi quả quyết: “Ông có thể không tin tôi, nhưng ông phải tin Don Luce. Ông phải có sứ mệnh phát hiện ra “chuồng cọp” và đăng tin đó cho cả thế giới biết”. Tom Harkin hiểu rằng đây là chuyện rất nghiêm trọng và mạo hiểm. Nếu không tìm ra được “chuồng cọp” thì rất nguy hiểm cho ông và những người liên quan.

Ông Lợi thấy những điều lo lắng của Tom Harkin là hết sức hợp lý bởi nếu không tìm ra được “chuồng cọp” thì rõ ràng ông Lợi là người nói láo và Tom Harkin cùng Don Luce cũng sẽ như vậy. Do đó, cả buổi hôm đó, ông Lợi đã bỏ ra 3 tiếng đồng hồ bằng trí nhớ của mình trong 2 lần được dẫn giải từ khu “chuồng cọp” ra ngoài (lần ra thăm mẹ và lần được trả tự do) để vẽ sơ đồ, chú dẫn ký hiệu lối vào “chuồng cọp”; cung cấp họ tên, số đính bài của 6 người đang bị giam giữ tại đây.

Ông Lợi chỉ cho Tom Harkin cách phân biệt ký hiệu đính bài của tù chính trị với đính bài của tù thường phạm, quân phạm; chỉ cách giăng bẫy của chúa đảo Nguyễn Văn Vệ và cách phá bẫy để tìm ra “chuồng cọp”.

Ông Lợi nói: “Tom, Don, ra Côn Đảo chỉ có sáng đi và chiều về. Như vậy thời gian rất hạn chế. Nếu thời gian hạn chế mà ta mắc bẫy của ông Vệ là mời để kéo dài thời gian thì có lẽ chúng ta sẽ không thấy gì hết. Như vậy, điều đầu tiên là không cà phê cà pháo, không nói chuyện kéo dài, không mua vật kỷ niệm mà nhanh chóng yêu cầu đi thăm các trại…”.

Sau cuộc gặp với Cao Nguyên Lợi, Tom Harkin tin câu chuyện về “chuồng cọp” là có thật. Ông đã đưa Cao Nguyên Lợi đến gặp và thuyết phục Nghị sĩ Augustus Hawkins, Nghị sĩ William Anderson đồng ý ra Côn Đảo điều tra về “chuồng cọp”. Tom Harkin thuê máy bay cho đoàn, chuẩn bị máy ghi âm, máy chụp hình. Don Luce được mời đi cùng trong vai phiên dịch.

“Phá bẫy” chúa đảo

Mặc dù chúa đảo Nguyễn Văn Vệ đã cố tình tìm mọi cách kéo dài thời gian nhằm ngăn việc điều tra “chuồng cọp” của đoàn nghị sĩ Mỹ nhưng do đã được Cao Nguyên Lợi cảnh báo trước, Tom Harkin và Don Luce đã lần lượt “phá bẫy” chúa đảo và tìm ra bí mật…

Cánh cổng bí mật…

Tại Côn Đảo, đúng như dự đoán của Cao Nguyên Lợi, trung tá Nguyễn Văn Vệ (chúa đảo – chúa ngục như cách gọi của tù nhân) đã đón tiếp đoàn nghị sĩ Quốc hội Mỹ tại dinh chúa đảo theo nghi thức và cố tình kéo dài thời gian như mời đoàn dùng cà phê pha bằng phin. Vệ cho rất nhiều cà phê, nén chặt nên cà phê chảy rất chậm, giọt một, giọt một. Ngồi tới 30 phút mà cà phê vẫn chảy tách tách từng giọt, Tom và Don Luce trong lòng nóng như lửa đốt.

Nguyễn Văn Vệ thấy rõ sự sốt ruột của các vị khách nên ông ta chuyển hướng, rủ mọi người đi chơi, xem và mua đồ kỷ niệm của Côn Đảo do tù nhân làm ra. Tuy nhiên, cái bẫy này cũng đã được Cao Nguyên Lợi cảnh báo trước nên Tom và Don kiên quyết từ chối. Như vậy, cái bẫy thứ nhất được ông Lợi cảnh báo trước đã được giải quyết xong.

Tiếp đó, Tom Harkin đưa ra danh sách tên của 6 người tù, yêu cầu cho gặp. Không từ chối, Nguyễn Văn Vệ nói rằng sẽ được gặp những tù nhân này với điều kiện phải có sự đồng ý của chính quyền Sài Gòn. Tuy nhiên, khi trao đổi với người đánh điện tín, Nguyễn Văn Vệ nói thêm là đừng trả lời lại.

Không ngờ Don Luce nghe được và hiểu là Nguyễn Văn Vệ cố tình không chuyển điện xin phép cho thăm gặp tù nhân về Sài Gòn. Như vậy, việc gặp những người tù này là không thể thực hiện được nên Tom Harkin và Don Luce rút ra ngoài.

Sau đó, Don và Tom xin đi thăm các nhà tù. Đoàn dân biểu được đưa đến trại VI và 2 trại tù khác không có “chuồng cọp”. Lúc này thời gian không còn nhiều, Tom yêu cầu được đến thăm trại IV. Nguyễn Văn Vệ miễn cưỡng đồng ý.

Khi đến trại IV – trại cải huấn Côn Sơn, có trong tay tấm bản đồ của Cao Nguyên Lợi, Tom nhìn vào 1 ký hiệu cho thấy đây đúng là nơi cần đến. Trên tấm bản đồ có vẽ một cánh cửa nhỏ.

Tom nhớ lại lời Cao Nguyên Lợi dặn: “Ngay khi bước qua cánh cổng thứ nhất của trại giam, ông đừng bước tiếp qua cánh cổng thứ hai vì sau cánh cổng thứ hai chỉ là nhà tù bình thường. Ông hãy đi theo lối rẽ và tìm bức tường bên vườn rau xanh có một cánh cổng nhỏ. Đó là lối dẫn vào “chuồng cọp””.

Tom lần theo bức tường nhưng không thấy cánh cửa đâu cả. Tom và Don lại đi ra ngoài cổng quan sát. Họ đã nhìn thấy “một cái cánh cửa sau cánh cửa”. Sau đó, Tom và Don tiến đến gần hành lang mà họ nhìn thấy cánh cửa nhỏ rồi quay lại gặp đoàn nghị sĩ, hướng dẫn họ hãy đi dọc theo hành lang phía sau cánh cổng.

Khi đến khu vực có trồng rau, Tom là người đi đầu tiên. Nguyễn Văn Vệ, nhà báo Don Luce và một số người đi sau. Để kéo dài thời gian, Tom hỏi Nguyễn Văn Vệ: “Giống rau này là giống rau gì?”. Vệ trả lời qua loa: “Là rau muống, thưa ngài”.

Là một kỹ sư nông nghiệp, Don Luce nhận ra đây là khoai lang chứ không phải rau muống. Don Luce nói: “Tôi là kỹ sư nông nghiệp nên tôi biết đây là khoai lang, thứ rau này có củ ăn rất ngon”. Don Luce nói rồi cúi xuống nhổ một nhánh rau lang, phát hiện rễ rau chưa bén đất, chứng tỏ mới được trồng để ngụy trang. Hai người vẫn cãi nhau xem đó là rau lang hay rau muống.

Trong lúc đó, Tom đã phát hiện ra cánh cửa sắt nhỏ khuất sau vạt rau. Tom hỏi Nguyễn Văn Vệ: “Cánh cửa này dẫn đi đâu?”. Nguyễn Văn Vệ nói: “Bên đó cũng là một trại giam thôi, nhưng ông không thể đi qua cánh cửa này được. Ông phải đi vòng đường khác vì cánh cửa này đã bị đóng vĩnh viễn”.

Sau này, Tom và Don mới biết nếu làm như Vệ nói, họ sẽ không bao giờ tìm thấy “chuồng cọp” bởi nó nằm ở ngay bên kia bức tường. Tom nói với Nguyễn Văn Vệ: “Tại sao chúng tôi không thể đi qua cánh cửa này được?”.

Nguyễn Văn Vệ trả lời: “Không thể đi qua cánh cửa đó được bởi nó bị khóa vĩnh viễn luôn rồi”. Vừa nói, ông ta vừa cầm cây ba toong đập vào cánh cửa. Không may cho Vệ, bên kia cánh cửa có tên cai ngục, nghe tiếng ba toong đập cửa và tiếng của Vệ thì nghĩ rằng chúa đảo yêu cầu mở cánh cổng nên đã đi ra mở. Thế là Tom và Don cùng mọi người chạy xông vào bên trong cánh cổng trước ánh mắt sững sờ của Nguyễn Văn Vệ.

Sau này khi trở lại Côn Đảo vào năm 2010, nhà báo Don Luce cho biết, suốt đời ông không thể nào quên những gì ông đã nhìn thấy ở phía sau cánh cổng sắt. Chỉ là một cánh cửa và vài bước chân nhưng khoảng cách là hàng trăm năm văn minh của nhân loại.

Don đã nghe nói nhiều về “chuồng cọp”, song những gì hiện ra trước mắt ông vẫn vô cùng kinh hoàng. Gần 500 con người chen chúc trong những cái chuồng nhỏ, bị cùm xiềng, đi vệ sinh trong một chiếc thùng ngay trong chuồng. Cai ngục đi dọc hành lang, kiểm soát những người tù bị nhốt trong cũi không khác gì chuồng nuôi thú. Những cây sào bịt đồng và những thùng vôi bột đặt sẵn trên nóc “chuồng cọp”, sẵn sàng trấn áp tù nhân. Những người tù bị tê liệt vì cùm quá lâu, bị bỏ đói, bỏ khát, nhưng họ vẫn kiên cường đòi công lý.

Don đã viết trong bài tường thuật trên tờ Life: “Khuôn mặt của những tù nhân trong “chuồng cọp” phía dưới đã để lại những dấu ấn không phai trong ký ức tôi. Tôi nhớ rất rõ mùi hôi thối kinh khủng do tiêu chảy và những vết thương lở loét do bị cùm xích cứa vào mắt cá nhân của tù nhân. Hãy cho tôi nước – họ nói…”.

Khi thấy phái đoàn nghị sĩ Mỹ đến, những người tù chính trị đã lên tiếng tố cáo: “Chúng tôi bị bỏ đói, chúng tôi bị bỏ khát, chúng tôi bị đánh đập, chúng tôi bị tù chỉ vì đấu tranh cho hòa bình…”. Tom Harkin ghi âm, chụp hình, Don Luce thông dịch, nghị sĩ Augustus Hawkins và nghị sĩ William Anderson quan sát, lắng nghe.

Phái đoàn đã dừng lại ở nhiều “chuồng cọp” phỏng vấn tù nhân, ghi âm, chụp hình làm chứng cứ. Thấy Tom Harkin chụp ảnh, những tên trật tự dọa rằng chúa đảo Nguyễn Văn Vệ sẽ phá cái máy ảnh nhưng không ngăn được. Chúng liền đi ra báo cáo với chúa ngục Nguyễn Văn Vệ.

Vệ nói với 2 nghị sĩ yêu cầu Tom và Don Luce phải ra ngoài nhưng 2 nghị sĩ không đồng ý. Tom Harkin và Don Luce đã đi hết 2 dãy nhà giam trong khu “chuồng cọp”. Họ đếm được có tất cả 480 tù nhân, trong đó 300 phụ nữ và 180 đàn ông.

Điều khiến Don Luce xúc động nhất là tình người trong tù. Những người tù không lo cho bản thân mà giục Don Luce cùng những người trong đoàn nên đi gặp những người tù như bà Sáu “mù”, nhà sư Thích Hành Tuệ… “Mọi người bị giam trong khu “chuồng cọp” đều rất yêu thương nhau và lo lắng cho nhau. Họ lo cho người khác chứ không lo về mình. Có người nói nhờ tôi xin ly nước uống cho bà Sáu…” – nhà báo Don Luce kể lại.

Khi đoàn sắp rời Côn Đảo, chúa đảo Nguyễn Văn Vệ yêu cầu Tom giao nộp lại máy ảnh và băng ghi âm, nhưng Tom Harkin kiên quyết nói không. Nghị sĩ Augustus Hawkins và nghị sĩ William Anderson cũng ủng hộ Tom, nói: Đây là chứng cứ điều tra của Quốc hội Mỹ.

Bất lực trước vị thế của các nghị sĩ Mỹ, chúa đảo Nguyễn Văn Vệ giở bài hạ sách: Yêu cầu Tom và Don lên chiếc xe Jeep ra sân bay với sự hộ tống của những tên trật tự của Vệ. Một lần nữa, nghị sĩ William Anderson lại nói: “Không. Các ông ấy đi cùng chúng tôi”.

Trên đường ra sân bay, qua những đoạn đường chênh vênh một bên là núi, một bên là biển sâu với những mũi đá lởm chởm, Tom Harkin và Don Luce không khỏi rùng mình. Nếu chúa đảo Nguyễn Văn Vệ ép 2 người ra sân bay trên chiếc xe Jeep với sự hộ tống của những tên trật tự cô hồn thì không biết điều gì sẽ xảy ra.

Phanh phui “chuồng cọp” ra thế giới

Trở về Mỹ, Tom Harkin biết mình phải đưa những tấm hình này ra thế giới. Ông đã được hỗ trợ đến một nơi an toàn để rửa hình. Sau đó, ông được giới thiệu đến tạp chí Life. Tom Harkin lập tức bay đến New York. Những người có trách nhiệm tại tạp chí này đã xem những tấm hình, họ muốn biết câu chuyện và Tom Harkin đã kể lại câu chuyện.

Lập tức Tom và những tấm ảnh được đưa đến nhà máy in. Kết quả là sự việc “chuồng cọp” nhà tù Côn Đảo được phanh phui trên tạp chí Life đã làm chấn động cả thế giới và những tấm hình được lan ra khắp nơi.

Ngoài Tom Harkin, Don Luce và tác giả chính trong vụ phát hiện “chuồng cọp” Côn Đảo, phải kể đến công lao của 2 nghị sĩ Augustus Hawkins, William Anderson đã đồng ý ra Côn Đảo điều tra và bảo vệ Tom Harkin được giữ những hình ảnh, tài liệu thu thập được tại “chuồng cọp”.

Nghị sĩ Anderson là Anh hùng quân đội Mỹ, từng lái tàu ngầm Nautilus đến Cực Bắc trong Thế chiến II. Tiếng nói của ông có trọng lượng trong Quốc hội Mỹ. Ông đã có những quyết định chính xác trong việc điều tra vụ “chuồng cọp”, bảo vệ những chứng cứ thu thập và quyết định bảo vệ phụ tá của mình là Tom Harkin và Don Luce.

Trở về Mỹ, ông đã lên tiếng mạnh mẽ trong Quốc hội Mỹ và dư luận Mỹ, phản đối các khoản viện trợ của Mỹ bảo trợ cho một chính quyền vô nhân tính tại Sài Gòn. Ông viết thư gửi Tổng thống Mỹ Richard Nixon, yêu cầu áp dụng những biện pháp cấp bách để ngăn chặn các hành vi trả thù những người tù chính trị đã cung cấp tư liệu cho phái đoàn.

Trong tường thuật trước báo giới, 2 nghị sĩ Mỹ là Augustus Hawkins, William Anderson khẳng định rằng các ông đã tận mắt thấy: “Khoảng 500 người bị giam vào các “chuồng cọp”. Có những tu sĩ Phật giáo… Có nhiều phụ nữ từ 15 đến 70 tuổi, có những bà già mù mắt… Họ bị giam giữ chỉ vì đấu tranh cho hòa bình… Họ bị bỏ đói, bỏ khát, bị nhốt như những con vật trong các “chuồng cọp”…

Họ bị ngạt thở vì người ta tung vôi bột vào trừng phạt họ… Trong 7 tháng, họ chỉ được ăn rau có 3 lần. Nhiều người trong số đó bị còng lâu ngày đến mức không thể đứng lên bằng đôi chân của mình được… Đó là sự đối xử kinh khủng nhất đối với con người mà chúng tôi chưa bao giờ được thấy”.

Thời điểm mà dư luận thế giới chấn động vì những tấm hình của Tom Harkin đăng trên báo chí cùng những bài báo của Don Luce khiến cho chính quyền Việt Nam Cộng hòa phải ra lệnh dỡ bỏ “chuồng cọp” Côn Đảo thì cũng là lúc Tom phải ra điều trần trước Quốc hội, bị buộc tội “phản bội”, bị đuổi việc khỏi Văn phòng Quốc hội cùng với lời đe dọa “sẽ không bao giờ tìm được công việc ở đây”.

Ông đã kiên trì đấu tranh và trở lại Quốc hội năm 1974, với tư cách là thượng nghị sĩ. Bài học trong vụ phát hiện “chuồng cọp” Côn Đảo cho ông thêm lòng can đảm và nghị lực mạnh mẽ để dấn thân. Ông góp phần cùng Quốc hội quyết định ngăn chặn Chính phủ Mỹ cứu vớt chính quyền Sài Gòn vào thời điểm sắp tàn của chế độ.

Mạnh mẽ và kiên quyết, thượng nghị sĩ Tom Harkin tiếp tục đóng góp cho tiến trình bình thường hóa quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ. Ngay sau khi Việt Nam và Hoa Kỳ chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao (năm 1995), thượng nghị sĩ Tom Harkin đã có mặt tại Hà Nội. Năm 2010, ông đến Việt Nam đánh giá mức độ ô nhiễm chất độc dioxin và tìm giải pháp hỗ trợ cho nạn nhân chất độc da cam.

Tình cảnh của Don Luce sau vụ “chuồng cọp” Côn Đảo cũng không mấy dễ chịu. Don Luce bị trục xuất khỏi Việt Nam năm 1971. Ông tiếp tục tham gia phong trào chống chiến tranh xâm lược, đòi hòa bình cho Việt Nam và không ít lần bị các thế lực cực đoan tấn công, dọa giết.

Ông đã đến thăm Hà Nội 3 lần, từng chứng kiến máy bay Mỹ ném bom bắn phá, từng đi thăm đường Trường Sơn huyền thoại… Mỗi lần trở lại Việt Nam, Don Luce đều cùng Cao Nguyên Lợi đi thăm những người bạn Việt Nam, chia sẻ với họ tình cảm thủy chung từ trái tim nhân hậu.

Thông điệp của những người yêu chuộng hòa bình

Những bức ảnh do Tom Harkin (sau này là thượng nghị sĩ bang Iowa) chụp tại “chuồng cọp” Côn Đảo đăng trên tạp chí Life đã đưa ra ánh sáng những bí mật khủng khiếp. Những bức ảnh chính là tấm lòng của những người bạn Mỹ đã góp phần làm thay đổi chế độ lao tù, góp phần sớm chấm dứt sự dính líu của Mỹ vào cuộc chiến tranh phi nghĩa tại miền Nam Việt Nam.

Tom Harkin, Don Luce, Cao Nguyên Lợi chính là những sứ giả đấu tranh cho hòa bình từ 2 chiến tuyến.

Sức mạnh của những bức hình chụp tại “chuồng cọp”

Những tấm hình Tom Harkin chụp tại nhà tù Côn Đảo đăng trên tạp chí Life ngày 17-7-1970 khiến dư luận quốc tế bừng bừng phẫn nộ. Hình ảnh bà Sáu “mù” 60 tuổi, mù cả 2 mắt do bị tạt vôi bột; hình ảnh nữ sinh Thiều Thị Tân 15 tuổi bị giam trong “chuồng cọp” và Đại đức Thích Hành Tuệ (Nguyễn Thới) – một tu sĩ Phật giáo yêu nước bị đày ải nghiệt ngã trong “chuồng cọp” Côn Đảo chỉ vì đấu tranh cho hòa bình đã gây xúc động lương tri loài người, thức tỉnh lương tâm người Mỹ rằng chính quyền Mỹ đang chi hàng tỷ đô la viện trợ cho một chế độ vô nhân tính, vi phạm những quyền cơ bản của con người, vi phạm Công ước Geneva về tù binh, tù chiến tranh.

Hàng chục tờ báo lớn ở 33 nước và truyền hình Mỹ đã đăng lại. Cùng với những bức ảnh Hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu để phản đối chiến tranh, ảnh em bé Tây Ninh bị bom Napan đốt cháy chạy trên đường, ảnh tướng Nguyễn Ngọc Loan rút súng bắn tù binh đối phương trong tư thế 2 tay bị trói trên đường phố Sài Gòn trước đó, những bức ảnh “chuồng cọp” Côn Đảo đã thổi bùng lên ngọn lửa phong trào phản đối chiến tranh xâm lược của Mỹ tại Việt Nam lan rộng trên chính nước Mỹ và trên toàn thế giới. Chính quyền Việt Nam Cộng hòa buộc phải ra lệnh dỡ bỏ “chuồng cọp” Côn Đảo.

Bà Sáu “mù” là tấm gương chiến đấu kiên trung, bất khuất tiêu biểu cho phong trào đấu tranh bảo vệ khí tiết của những người tù chính trị Côn Đảo nói chung và nữ tù chính trị ở “chuồng cọp” nói riêng. Bà Sáu “mù” tên thật là Nguyễn Thị Chỉ, quê Quảng Nam. Trong khu “chuồng cọp”, bị địch tung vôi bột đàn áp khiến đôi mắt của bà Sáu mờ dần.

Mặc dù vậy, bà vẫn đứng vững trong tập thể chiến đấu chống chào cờ, chống nội quy, chịu mọi cực hình ở “chuồng cọp”. Tóc bạc, lưng còng, mắt mờ, sức yếu, bà thường nép mình vào một xó “chuồng cọp”, đôi tay run run rờ rẫm trên đầu gối mình, lơ đãng lắng nghe mọi âm thanh đơn điệu quanh “chuồng cọp” số 27.

Tháng 6-1970, trong một lần xáo trộn phòng, bà Sáu “mù” được đưa về “chuồng cọp” số 24, nơi giam những phụ nữ đã chịu điều kiện. Họ thương bà, kính phục bà. Đến bữa ăn có đĩa rau muống và nửa quả trứng vịt luộc, bà biết là ở nơi chị em chịu điều kiện nên bỏ miếng trứng xuống, trào nước mắt, bỏ cơm, xin về lại “chuồng cọp” số 27 chung với tập thể chiến đấu, ăn cơm với tương chua, mắm ruốc nặng mùi quen thuộc của “chế độ kỷ luật”.

Sau này trong những lần trở lại Việt Nam, Don Luce và Tom Harkin đều đến thăm bà Sáu “mù”.

Đại đức Thích Hành Tuệ là tấm gương sáng về đạo pháp và lòng yêu nước giữa ngục tối Côn Đảo. Đại đức Thích Hành Tuệ sinh ra trong một gia đình yêu nước, có ông nội và cha tham gia các phong trào yêu nước dưới sự dẫn dắt của Trần Cao Vân, Trần Quý Cáp.

Đại đức Thích Hành Tuệ hồi nhỏ tên là Đấu, khi đi hoạt động cách mạng lấy tên Nguyễn Thới (SN 1935 tại xã Đại Phong, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam). Năm 1956, địch ráo riết truy lùng cán bộ kháng chiến cũ, nhiều người bị bắt thủ tiêu, giết bỏ trôi sông, số trốn thoát chuyển vùng hoạt động. Nguyễn Thới được cha là ông Nguyễn Hữu gửi tạm lánh vào chùa Cổ Lâm (xã Đại Đồng, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam) làm người tu hành. Thời gian học Phật ở chùa Cổ Lâm, Nguyễn Thới tham gia hoạt động cùng với nhiều người yêu nước đóng vai tu hành nơi đây. Nguyễn Thới được gửi tu học tại chùa Phước Lâm (Hội An), lấy pháp danh Thích Hành Tuệ.

Năm 1963, phong trào Phật giáo từ miền Trung lan vào Sài Gòn, đẩy lên một bước phong trào đấu tranh chống chế độ độc tài gia đình trị Ngô Đình Diệm. Đại đức Thích Hành Tuệ tháp tùng Hòa thượng Thích Trí Quang vào Sài Gòn, giữ mối liên lạc giữa phong trào Phật giáo miền Trung và liên hệ với Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam khu Sài Gòn – Gia Định qua đầu mối đơn tuyến, dưới sự chỉ đạo của đồng chí Huỳnh Tấn Phát.

Mùa Phật đản năm 1966, Phật tử chịu sự đàn áp khủng khiếp. Đại đức Thích Hành Tuệ bị bắt, bị tra tấn rất dã man, bị giam tại khám Chí Hòa. Năm 1968, Đại đức Thích Hành Tuệ cùng một số tù chính trị bị địch đày ra Côn Đảo. Ngay từ khi ra Côn Đảo, Đại đức Thích Hành Tuệ đã tham gia và đi đầu trong phong trào chống chào cờ Việt Nam Cộng hòa và bị đàn áp khốc liệt.

Tháng 7-1968, địch đưa Đại đức cùng một số tù chính trị về Chí Hòa, sau đó đến tháng 11-1968 đưa trở lại Côn Đảo và giam ở khu “chuồng cọp”.

Thời điểm Tom Harkin và Don Luce cùng đoàn nghị sĩ Mỹ ra Côn Đảo, Đại đức Thích Hành Tuệ bị giam chung với ông Đào Duy Nghệ, Hai A (tức Đỗ Văn Minh) tại “chuồng cọp” số 5 (khu “chuồng cọp” II). Đại đức nằm cạnh Hai A phía trong, Đào Duy Nghệ nằm gần cửa nghe ngóng động tĩnh, theo dõi động thái của trật tự, gác ngục, phán đoán tình hình để có biện pháp đối phó.

Khi Đào Duy Nghệ phát hiện đoàn nghị sĩ Mỹ vào “chuồng cọp”, thầy Thích Hành Tuệ mặc áo nhà tu nói lớn: “Chúng tôi đói. Chúng tôi khát. Chúng tôi bị đòn…”. Cả phái đoàn liền tập trung trên nóc “chuồng cọp” số 5. Don Luce phiên dịch, Tom Harkin ghi chép, ghi âm, chụp hình.

Đại đức dõng dạc tuyên bố: “Tôi là một nhà sư và tôi đấu tranh cho hòa bình từ năm 1966. Tôi ở đây không vì lý do gì ngoài mong muốn hòa bình. Tôi bị bắt, bị tra tấn. Nhưng tôi vẫn tiếp tục đấu tranh cho hòa bình”.

Khi phái đoàn rời Côn Đảo, bọn cai ngục đánh Đại đức Thích Hành Tuệ để trả thù. Vừa đánh, chúng vừa chất vấn: “Tại sao mày đi tu mà không chịu chào cờ quốc gia? Không chịu hô đả đảo Hồ Chí Minh?”. Bị đòn roi oằn người nhưng Đại đức vẫn hiên ngang trả lời: “Cụ Hồ là vị anh hùng cứu nước của dân tộc Việt Nam, chúng tôi luôn kính trọng, làm sao mà đả đảo được. Còn lá cờ ba que không phải cờ của Tổ quốc chúng tôi”.

Trước áp lực của dư luận, chính quyền Việt Nam Cộng hòa buộc phải ra lệnh phá bỏ “chuồng cọp”. Đại đức Thích Hành Tuệ cùng số tù bại lết được chuyển về chuồng bò. Tại đây, Đại đức Thích Hành Tuệ tiếp tục dẫn đầu phong trào chống đàn áp, chống cưỡng bức tư tưởng, chống khổ sai…

Tháng 11-1971, địch đàn áp, đưa số tù bại lết giam tại khu “chuồng cọp” Mỹ mới xây dựng. “Chuồng cọp” Mỹ không có bệ nằm, tù nhân nằm sắp lớp dưới nền chuồng. Mái tôn úp sát giàn song sắt, tối tăm, ngột ngạt. Ngày nóng bức hầm hập, đêm thấm lạnh thấu xương. Ở tù trong hoàn cảnh nghiệt ngã tại “chuồng cọp” mới thấu hiểu thế nào là đói và rét. Càng đói, càng thấm cái rét đến tận xương tủy. Càng rét, càng thấy cái đói cồn cào gan ruột.

Hơn 1 năm ở “chuồng cọp” Mỹ, Đại đức Thích Hành Tuệ phát bệnh nặng, thường xuyên ho ra máu, hậu quả của những trận đòn thù từ nhiều năm trước. 7h sáng ngày 8-1-1973, Đại đức Thích Hành Tuệ đã tắt thở trên tay Đào Duy Nghệ tại bệnh xá trại VII.

Phần mộ của Đại đức Thích Hành Tuệ hiện ở khu C nghĩa trang Hàng Dương (Côn Đảo). Bài vị và di ảnh của Đại đức được đưa về chùa Diệu Pháp (đường Nơ Trang Long, phường 13, quận Bình Thạnh, TP Hồ Chí Minh), đặt ở nơi trang trọng nhất. Ngày 19-5-1978, Thủ tướng Chính phủ Phạm Văn Đồng đã ký tặng Bằng Tổ quốc ghi công cho liệt sĩ Nguyễn Thới.

Ngày 19-8-1985, Chủ tịch nước Trường Chinh truy tặng Huân chương Kháng chiến hạng Nhất về những công lao của ông trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Thành phố Hồ Chí Minh đã đưa tên Đại đức Thích Hành Tuệ vào quỹ đặt tên đường của thành phố.

Điều còn mãi…

Năm 1995, trong dịp trở lại Việt Nam, ra thăm Côn Đảo, Tom Harkin đã trao tặng những bức hình chụp tại khu “chuồng cọp” cho Cao Nguyên Lợi, người đã giúp ông phát hiện vụ “chuồng cọp” Côn Đảo. Những bức ảnh chính là tấm lòng của những người bạn Mỹ đã góp phần làm thay đổi chế độ lao tù, góp phần sớm chấm dứt sự dính líu của Mỹ vào cuộc chiến tranh phi nghĩa tại miền Nam Việt Nam.

Tom Harkin, Don Luce, Cao Nguyên Lợi chính là những sứ giả đấu tranh cho hòa bình từ 2 chiến tuyến. Các ông là những nhà ngoại giao nhân dân, kết nối 2 dân tộc Việt Nam – Mỹ bằng trái tim, từ trái tim.

Từ đó đến nay, ông Cao Nguyên Lợi vẫn giữ mối liên lạc với Tom Harkin và Don Luce, trân trọng ân tình về những gì mà 2 người bạn Mỹ đã tranh đấu cho hòa bình ở Việt Nam, làm vơi đi nỗi đau cho những người tù chính trị Côn Đảo. Ông cùng người bạn đời thủy chung – bà Tô Thị Thủy, người đã kiên cường đấu tranh đòi trả tự do cho ông, góp phần vào việc đưa ra ánh sáng những tội ác tột cùng tại “chuồng cọp” Côn Đảo đã có dịp sang Mỹ để cảm ơn những người bạn Mỹ.

47 năm đã trôi qua, ông Cao Nguyên Lợi trầm ngâm khi nói về những người bạn tù Côn Đảo mỗi năm một thưa dần. Cuốn sách “Tù chính trị câu lưu Côn Đảo 1957-1975 từ thực tiễn nhìn lại” đã được tái bản 3 lần. Với nỗ lực của ban tổ chức và các nhà tài trợ, mỗi lần tổ chức ra mắt cuốn sách cũng là dịp những cựu tù chính trị Côn Đảo từ khắp mọi miền của Tổ quốc được gặp gỡ, thăm hỏi sức khỏe và ôn lại những kỷ niệm một thời nơi “địa ngục trần gian”.

Không nói nhiều về bản thân, ông Lợi rưng rưng nói rằng, mơ ước lớn nhất của những cựu tù chính trị ở tuổi gần đất xa trời như ông, là cuộc gặp gỡ, giao lưu giữa những người yêu nước Việt Nam và những người phản chiến Mỹ như Tom Harkin, như Don Luce vào một ngày gần nhất, bởi thời gian đối với họ giờ đây không còn nhiều nữa.

Theo Đại tá, nhà văn, nhà báo Lê Anh Dũng – người tổ chức bản thảo của cuốn sách “Cựu tù chính trị câu lưu Côn Đảo (1957-1975) từ thực tiễn nhìn lại”, thì cuộc gặp gỡ những con người đã đi vào lịch sử này cũng là ý tưởng của những người tham gia biên soạn cuốn sách, sẽ được lên kế hoạch kết nối và tổ chức thực hiện vào lần tái bản thứ tư tại Vũng Tàu.

Trước khi chia tay, tôi đề nghị được chụp ảnh ông Cao Nguyên Lợi làm kỷ niệm. Trong khuôn viên Bảo tàng Lịch sử quân sự Việt Nam, ông Cao Nguyên Lợi chủ động đứng trước một khẩu đại bác, giơ chiếc ba lô bịt họng súng với thông điệp: Yêu hòa bình, phản đối chiến tranh.

Côn Đảo giờ đây đã trở thành điểm đến hấp dẫn trên bản đồ du lịch Việt Nam cũng như thế giới không chỉ bởi vẻ đẹp hoang sơ mà còn bởi mỗi địa danh nơi đây còn gắn với một câu chuyện lịch sử đậm chất sử thi như những huyền thoại. Và câu chuyện “chuồng cọp” Côn Đảo, một sự kiện lịch sử gây chấn động thế giới gần 50 năm trước, sẽ mãi mãi ghi dấu ấn về một tình hữu nghị đẹp đẽ giữa những người yêu chuộng hòa bình của Việt Nam và nước Mỹ – dù cách nửa vòng trái đất nhưng trái tim của họ luôn chung một nhịp đập.

http://antg.cand.com.vn/

 

Những “Chúa đảo” khét tiếng của nhà tù Côn Đảo

Nhắc đến hệ thống nhà tù Côn Đảo, một hệ thống nhà tù khốc liệt , tàn ác tinh vi của hai chế độ thực dân và đế quốc, chắc hẳn sẽ không thể thiếu được những cái tên như: Chuồng Cọp, hầm đá, Chuồng Bò…Những cái tên đó sẽ mãi mãi in sâu trong tiềm thức, trong sự đấu tranh bất khuất , kiên cường và hòa lẫn đau thương, mất mát của những người tù chính trị, những chiến sĩ yêu nước đã từng bị giam cầm, đày ải ở chốn “Địa ngục trần gian” .

Trong suốt 113 năm của nhà tù Côn Đảo đã có 53 đời chúa đảo ( 39 thời Pháp, 14 thời Mỹ-ngụy) từng cai trị tại nơi đây. Mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ là một sự tàn ác và tinh vi khác nhau, nhưng trong số đó có những tên chúa đảo sau đây được người tù liệt vào hàng “bạo chúa”, “hung thần” mang nợ máu ngất ngưỡng với tù nhân.

Đứng đầu danh sách này có thể kể đến Andouard, một trung úy trù bị, cụt tay phải trong trận Verdun, được gắn huân chương Bắc đẩu bội tinh, cải ngạch làm chúa ngục từ năm 1917. Báo chí Sài Gòn thời đó gọi hắn là “Tên đao phủ khát máu”, tù nhân thì gọi hắn là “Ông lớn một tay”, động một chút là hắn phạt rất nặng, nhất là đối với tù chung thân thì kẻ hầm, người xiềng, không mấy người thoát khỏi. Andouard có nuôi một con chó Berger, đi đâu cũng dẫn theo, không ưa người tù nào, thì hắn xuỵt chó nhảy vào cắn cổ. Để đàn áp tù vượt ngục, Andouard ra lệnh bắn giết thẳng tay. Cứ bắn chết một người tù, cắt một tai đem về thì được hắn thưởng 10 đồng ( tương đương vài giạ gạo lúc đó) không ít người tù đã chết oan nghiệt vì khoản tiền bất nhân này. Bọn lính coi ngục mỗi lúc tiền ăn nhậu, thì bày trò thí mạng tù nhân để lãnh thưởng, chúng sai một người tù nào đó đi lên rừng hái lá về nấu canh, thế rồi người tù xấu số ấy bị bắn gục tại bìa rừng, xẻo tai mang về nộp lấy 10 đồng thưởng về tội “Mưu toan vượt ngục” mà chúng dàn dựng. Phải đến khi Andouard đền tội thì luật này mới bãi bỏ.

Người tiếp theo đó chính là tên chúa ngục Bouvier – Chánh tham biện, làm chúa ngục 2 nhiệm kỳ, cũng chính là 2 thời kỳ khủng bố trắng (1930-1934) và (1939-1942). Trong 5 năm từ 1930 đến 1934 chế độ khủng bố trắng của Bouvier đã giết hại 802 người tù.. Sau Nam kỳ khởi nghĩa (11/1940), chế độ khủng bố còn rùng rợn hơn, tù nhân chết hàng loạt, có thời kỳ mỗi ngày chết vài chục người. Chỉ trong 2 năm 1941-1942, số lượng tù nhân đã vơi đi hàng ngàn người. Bouvier đã phải cho mở thêm nghĩa địa mới mang tên Hàng Dương để chôn những người tù bị giết hại. Dưới chế độ giết người thời ấy của Bouvier thì Côn Đảo được mệnh danh là “Địa ngục trần gian”. Dưới thời của Bouvier có rất nhiều cuộc vượt ngục diễn ra, vì với những tù nhân thời kỳ ấy, thà chết đói trên rừng, hoặc làm mồi cho cá mập dưới biển còn dễ chịu hơn sống dưới bàn tay độc ác của Bouvier. Vì đời sống tù nhân lúc bấy giờ vô cùng thiếu thốn, làm việc quá sức, ăn uống thì bẩn thiểu, không thuốc men chữa trị. Ngoài ra bọn gác, coi ngục thì vô cùng độc ác, vô nhân đạo đánh đập người tù vô tội vạ, củi đòn ba trắc, tầm vông thấm đầy những máu…Ngoài 2 chúa ngục vừa kể trên thời Pháp ra còn có những tên khác cũng giàu thủ đoạn và thâm độc không kém như Brule, Lafosse, Jacty..

Chấm dứt gần 1 thế kỷ chồng chất tội ác của thực dân Pháp trên hòn đảo thiêng liêng này. Tháng 3-1955, Thiếu tá Aloise Blanck đã bàn giao nhà lao Côn Đảo cho Bạch Văn Bốn – thiếu tá quân đội VNCH. Với bản chất tàn bạo và hiếu thắng, Bạch Văn Bốn ra sức đánh giết tù để tiến thân, trong nhiệm kỳ hơn 3 năm, Bốn đã tổ chức nhiều chiến dịch khủng bố, giết hại 350 tù chính trị do bất lực về phương diện cải huấn, không tổ chức học tố cộng được với hơn 1000 tù chính trị lao I trong nhiều năm nên Bốn vẫn không được lên sao và phải nhường chức cho Lê Văn Thể – một tên tàn bạo và hiếu thắng hơn nhiều.

Lê Văn Thể không từ một thủ đoạn tàn bạo nào. Hắn nhốt chặt tù nhân vào mùa hè, xối nước tù nhân vào mùa đông, cho tay chân xông vào đánh tù nhân bằng củi chẻ đến tàn phế hay chết tươi ngay tại Chuồng Cọp, đày ải man rợ cho chết đi sống lại hàng trăm lần, thậm chí hắn còn bắt tù nhân đào mả lấy xương người chết về để đốt xông khói cho đàn vịt của hắn khỏi chết dịch..Nhưng cuối cùng thì Lê Văn Thể cũng mất chức vì không khuất phục được tinh thần quật cường của những người tù chính trị.

Trong ký ức của nhiều tù nhân, Nguyễn Văn Vệ là một “Con hùm xám”, là siêu đẳng trong nghề trị tù. Vệ từng ngự trị 9 năm, hai nhiệm kỳ. Và trong ngần ấy năm Vệ đã gây biết bao nhiêu tội ác với tù nhân Côn Đảo, chính hắn đã trực tiếp chỉ huy những trận khủng bố tàn bạo nhất. Ngày 12-5-1967 Vệ chỉ huy hàng trăm trật tự ác ôn, đàn áp tù chính trị ở Chuồng Cọp I, gây ra cái chết thảm khốc cho 2 người, 10 người bị thương tích nặng và hàng trăm người khác máu đổ, thịt tan.

Hắn đã thiết lập kỷ luật ngiệt ngã nhất đối với những người tù chống ly khai ở Chuồng Cọp với những cây còng Mỹ siết chặt vào cổ chân, làm hàng trăm người tù phải teo cơ, bại liệt vĩnh viễn, sào nhọn bịt đồng, vôi bột, gậy gộc và đạo quân trật tự, an ninh do Vệ tổ chức đã gây nên những tội ác man rợ nhất. Và cao trào nhất vụ “Chuồng Cọp Côn Đảo” tai tiếng 1970 bị phanh phui, làm chấn động cả thế giới. Rồi với lần thứ 2 trở lại Vệ càng tỏ rõ bản chất hung thần hơn với các chính sách đàn áp tù chính trị với âm mưu tráo án người tù, bắt người tù phải lăn tay, chụp hình để đổi tù chính trị phạm sang thành phần gian nhân hiệp đảng. Những trận đàn áp đẫm máu, khốc liệt diễn ra liên tiếp trong thời gian dài đã cướp đi sinh mạng và thương tật nghiêm trọng cho hàng ngàn người tù chính trị…

Xét cho cùng, mỗi đời chúa ngục thì cũng chỉ là những tên tay sai của thực dân và đế quốc, chúng sẽ bị lịch sử bêu tên, nguyền rủa mãi mãi. Và sẽ còn mãi những đau thương, những bi hùng, ý chí đấu tranh sáng ngời và những nấm mồ vinh quang, hiên ngang giữa đất trời Côn Đảo. Để giờ đây, khi chiến tranh đã đi qua, đất nước đã thanh bình, vẫn còn đó bóng dáng của những người tù năm ấy, đang ngày đêm xây dựng, cống hiến quãng đời còn lại của mình cho quê hương , đất nước, tiếp nối tâm nguyện của đồng chí, đồng đội đã hy sinh để ngày hôm nay cho chúng ta thấy được một biển, một trời Côn Đảo xanh tươi như thế này.

Nguồn: Trang Côn Đảo – Poulocondore.

Côn Đảo – Chứng tích lịch sử ghi nhận tội ác của thực dân đế quốc

Trong suốt quá trình chống thực dân, đế quốc để giành độc lập, tự do của dân tộc ta, nhà tù Côn Đảo từ cuối thế kỷ XIX luôn luôn phản ánh cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân qua các giai đoạn, bởi lẽ địch giam cầm ở đây những chiến sỹ cách mạng mà chúng cho là nguy hiểm nhất ở khắp các miền của đất nước.

Gần 45 năm trôi qua khi đất nước hoàn toàn được giải phóng, đây là quãng thời gian của gần một nửa đời người. Tuy là xa với thế hệ chúng ta hôm nay, nhưng rất gần với những người chiến sỹ cộng sản Việt Nam yêu nước chân chính năm xưa, ký ức đau thương vẫn còn trong tâm trí họ. Sự mất mát lớn lao về thể xác và tinh thần, những vết thương da thịt mặc dù đã lành theo năm tháng, nhưng vết thương lòng còn đau đớn hơn, vì ở đó, có hàng ngàn chiến sỹ cách mạng nằm lại mãi mãi không về với quê cha đất tổ.

Dưới con mắt của bọn thực dân, Côn Đảo là một nơi lý tưởng, có khả năng đáp ứng tốt nhất những yêu cầu đối với một nhà tù. Chúng cho rằng, Côn Đảo bốn bề trời biển mênh mông, cách đất liền gần trăm hải lý, không có phương tiện, người tù khó bề trốn thoát. Người ở bên ngoài cũng không có cách nào cứu thoát người tù. Ở hải đảo xa xôi này, những người cách mạng sẽ bị cắt đứt mọi quan hệ với gia đình, xã hội và quần chúng nhân dân, với đoàn thể, với phong trào, không còn hoạt động gì được.

Côn Đảo là một quần đảo hoang vắng, không như nhà tù ở các điểm dân cư lớn trong đất liền như Hỏa Lò ở Hà Nội, Khám Lớn ở Sài Gòn, cho nên ở đây có thể thi hành những biện pháp đàn áp dã man, tàn bạo nhất, người tù có đấu tranh mạnh mẽ tới đâu đi nữa cũng không thể gây được ảnh hưởng gì. Bọn cai ngục có thể thẳng tay giết hại người tù cũng không ai hay biết. Chẳng những thế, bọn thực dân còn đe dọa: “Ra Côn Đảo mà hò la cho biển nghe!”, “Ra Côn Đảo mà đấu tranh với cá mập!”. Nơi đây, dân cư thưa thớt, nguồn lợi thiên nhiên phong phú, muốn khai thác vùng đất này phải đưa lao động từ nơi khác đến. Do vậy, nếu dùng sức tù nhân thì rất thích hợp. Nhận rõ vị trí đặc biệt của Côn Đảo, thực dân Pháp đã sớm quyết định xây dựng nhà tù đầu tiên ở Đông Dương nhằm cách ly những người chống đối chính sách cai trị của thực dân…

Chúng dùng chế độ tù đày khắc nghiệt để hành hạ, giết dần, giết mòn người tù, đè bẹp ý chí phản kháng của họ, răn đe những người còn ở ngoài đời, làm cho họ khi ra tù tinh thần bạc nhượt, khiếp sợ, thân thể tàn phế, không dám làm gì để chống lại “mẫu quốc” và chế độ thống trị ở thuộc địa.

Đặt nền tảng cho nhà tù đầy tội ác của thực dân Pháp, đế quốc Mỹ tiếp tục biến nơi đây thành địa ngục trần gian thời kiểu Mỹ. Nói như giáo sư Trần Văn Giàu: “Nhà tù Côn Lôn thời Pháp thuộc đã là địa ngục ở trần gian rồi, đến thời Mỹ ngụy, là địa ngục trong địa ngục, và nói như vậy cũng chưa vừa”

Ở một khía cạnh khác, đồng chí so sánh nhà tù Côn Đảo còn hơn nhà tù Hitler về sự dã man của nó: “Trong đời hoạt động cách mạng của mình, tôi đã trải qua nhiều nhà tù, trong số đó có ngục Côn Lôn. Tôi lại được đọc nhiều sách xưa nay nói về nhà tù của các vua chúa, của tư bản thực dân, của bè lũ phát xít. Như vậy tôi có khá nhiều tài liệu để so sánh các chế độ nhà tù tàn bạo, thì các nhà tù đó cái nào cũng tàn bạo, chỉ có mức tàn bạo, cách tàn bạo và mưu sâu bên trong là khác nhau… Nói ra thì có lẽ không phải, nhưng cái chết bằng hơi độc, thuốc độc, điện giật, giết một lần hàng vạn sinh linh, cái chết đó người chiến sỹ tù nhân Việt Nam mình có mấy ai sợ đâu? So với cái tàn ác ở nhà tù Côn Đảo dưới chế độ Mỹ – ngụy, thì nhà tù Hitler giống như ao cạn so với vực thẳm. Mỹ – ngụy thâm độc hơn Hitler biết bao nhiêu!”

Sự dã man đối với nhà tù Côn Đảo thời Mỹ – ngụy được mô tả khắc nghiệt hơn gấp nhiều lần so với nhà tù thời thực dân Pháp, Giáo sư kể lại: “bị đầy ra Côn Lôn (1935), khi ấy tôi từng bị tống ngay vào xà lim số 1, xà lim này rộng 3 x 3 x 1,5 mét, còng một chân. Mà trời ơi, làm sao so được với thời Mỹ – ngụy cũng trong xà lim đó, Mỹ nhốt tới 28 người, cửa đóng, lỗ thông hơi bịt kín, tù nhân lại còng tréo 2 tay 2 chân”

Đến với Côn Đảo, nơi tập trung hệ thống nhà tù khổ sai từ thời thực dân Pháp đến đế quốc Mỹ bao gồm:

Banh I: Còn được gọi các tên lao I, trại Cộng Hòa, trại 2 và sau cùng (11/1974) được gọi là trại Phú Hải xây dựng năm 1862 và chỉnh trang lại kiên cố năm 1896. Banh II: Còn gọi các tên: Lao II, trại Nhân Vị, trại 3, và sau cùng là trại Phú Sơn. Banh III: Còn gọi các tên: Lao III, Trại Bác Ái, Trại 1, và sau cùng là trại Phú Thọ. Xây dựng năm 1928, cách Banh I, Banh II khoảng 1km. Banh III phụ: Còn gọi các tên Lao III phụ, trại phụ Bác Ái, Trại 4 và cuối cùng là Trại Phú Tường. Chuồng cọp Pháp. Biệt lập chuồng bò: Trại 5: Còn gọi là trại Phú Phong. Trại 6: Còn gọi là trại Phú An. Trại 7: Còn gọi là trại Phú Bình hay “Chuồng cọp kiểu Mỹ”. Trại 8: Còn gọi là trại Phú Hưng. Trại 9: Mỹ – nguỵ đang cho đổ bê tông, đúc cột, nền thì hiệp định Pa-ri ký kết thúc nên đã bỏ dở.

Hệ thống nhà tù Côn Đảo qua 2 thời kỳ Pháp – Mỹ xây dựng tổng cộng: 127 phòng giam; 42 xà lim; 504 phòng “Biệt lập chuồng cọp”. Bên cạnh đó còn có các cơ sở tù để đày ải người tù làm lao dịch khổ sai nhằm giết dần, giết mòn sinh mạng người tù, đồng thời phục vụ toàn diện các mặt đời sống cho bộ máy hành chánh của địch. Con số tù nhân thời chống Mỹ lên cao nhất từ khoảng năm 1969 đến năm 1972 xấp xỉ 10.000 người.

Bằng nhiều thủ đoạn mị dân, thông qua các cơ sở lao động khổ sai, thực dân Pháp và ngụy quyền Côn Đảo ra sức bóc lột tù nhân, phục vụ bộ máy cai trị tù, lấy tù nuôi tù, xây dựng trại giam, làm đường xá, sân bay và các công trình quân sự. Chúng còn cho cảnh sát, trật tự tra tấn, khủng bố bằng những ngón đòn tàn bạo, truy bức trường kỳ cả thể xác lẫn tinh thần.

Về chế độ ăn uống, đặc biệt là tù chính trị ở các lao cấm cố mà trong Luận án Tiến sỹ y khoa của bác sỹ Nguyễn Minh Triết đã chỉ ra có tiêu đề là: Nhận xét về bệnh lý tại một nhà la: Thức ăn chính của tù nhân gồm: Gạo nấu lẫn nhiều tấm, thóc và sạn; Khô: thường là khô cũ, mục đắng, gọi là khô ký ninh… từ tháng 7/1968 đến tháng 11/1971 (40 tháng) người tù được ăn thịt có 6 lần; rau rất ít ỏi, chuyện dùng cỏ (cỏ thỏ, sam đất, mần trầu) hay lá cây (lá bàng, lá phượng) để ăn là chuyện bình thường của người tù… Việc hành xác và giết hại người tù vẫn chưa phải là mục đích cuối cùng của chúng. Tất cả các thủ đoạn tinh vi, thậm độc và tàn bạo nhất của Pháp, Mỹ – ngụy đều nhằm mục tiêu tiêu diệt sinh mạng chính trị người tù, vô hiệu hóa người cán bộ cách mạng.

Vượt lên trên những nỗi đau về thể xác và tinh thần không có bút mực nào tả hết được, cuộc đấu tranh anh dũng của các chiến sỹ cách mạng trong nhà tù, nhất là thời Mỹ – ngụy trước khi có Hiệp định Pa-ri đã diễn ra vô cùng quyết liệt và có sự phân biệt rõ nét của 2 thời kỳ: chống tố cộng, diệt cộng rất cực đoan theo kiểu Ngô Đình Diệm và chống các thủ đoạn tâm lý chiến, chiêu hồi thời kỳ sau Ngô Đình Diệm với sự gia tăng của cố vấn Mỹ, viện trợ Mỹ, phương thức quản lý tù nhân và phương tiện đàn áp kiểu Mỹ.

Cuộc chiến đấu bất khuất đầy dũng cảm và đầy thông minh của các chiến sỹ Côn Đảo là những trang chói lọi của lịch sử cách mạng, được nối tiếp và nhân lên trong chủ nghĩa anh hùng cách mạng rực rỡ của nhân dân ta qua kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Sự hy sinh cao cả của biết bao liệt sỹ trong cuộc chiến đấu ấy đã và đang tiếp tục khai hoa kết quả trong những thắng lợi và thành tựu của dân tộc Việt Nam. Côn Đảo ngày nay đã thay da, đổi thịt, tạo nên diện mạo mới với kinh tế – xã hội phát triển, đời sống nhân dân thật ấm no, hạnh phúc, đã trở thành dải đất thân thiết thiêng liêng, nơi ngưỡng mộ và tưởng nhớ đối với những anh hùng cách mạng của nhân dân cả nước hôm nay và mai sau…

ThS. Trần văn Hòa – Khoa lý luận cơ sở

http://truongchinhtribentre.edu.vn/

Tư liệu bài viết tổng hợp từ nguồn: Nguyển Đình Thống, Nguyễn Linh, Hồ Sĩ Hành. Lịch sử nhà tù Côn Đảo 1862-1975. Nxb tổng hợp. TP HCM-2018

Xe Mỹ Duyên Trần Đề – TP Hồ Chí Minh – Trần Đề

Xe Mỹ Duyên Trần Đề – TP Hồ Chí Minh – Trần Đề là tuyến chính hoạt động của hãng xe này vì Sóc Trăng là trụ sở chính. Xe thường xuyên đưa đón khách đi TP Hồ Chí Minh đến Trần Đề để đi Côn Đảo và ngược lại.

Các tuyến xe chính của Mỹ Duyên là Trần Đề – TP Hồ Chí Minh, Phụng Hiệp – TP Hồ Chí Minh, Sóc Trăng – TP Hồ Chí Minh và ngược lại.

Đội xe Mỹ Duyên Sài Gòn Sóc Trăng

Hệ thống xe khách MỸ DUYÊN luôn được đầu tư với những dòng xe khách mới nhất. Đảm bảo mang đến cho khách hàng những chuyến đi xa thật êm ái. Chọn xe khách MỸ DUYÊN là chọn cảm giác “Đi xe như ở nhà”

XE GIƯỜNG NẰM

  • Xe giường nằm cao cấp của MỸ DUYÊN sở hữu các tiện nghi cao cấp
  • 41 Giường nằm / xe –
  • Wifi Internet, mền, nước suối, khăn lạnh..

XE PHÒNG NẰM

  • Xe giường nằm cao cấp với hệ thống giường êm ái, dễ chịu cho mọi chuyến đi
  • 22 khoang phòng nằm / xe
  • Dài 1785 cm, ngang 670 cm

XE GHẾ NẰM

  • Xe ghế nằm MỸ DUYÊN gồm: Ghế nằmThương Gia 25 chỗ ; Ghế nằm 28 chỗ đạt tiêu chuẩn cao cấp chuẩn hàng không
  • Độ ngả tối đa: 160 độ, một hàng 3 ghế
  • Màn hình cảm ứng chạm
  • Jack tai nghe
  • Cổng sạc đa năng
  • Ghế ngả chỉnh điện cao cấp
  • Sàn được lót gỗ sang trọng.

XE GIƯỜNG NẰM 34

  • Là dòng xe mới vận hành của MỸ DUYÊN, cao cấp và dài hơn xe Giường Nằm.
  • Mỗi giường được trang bị rèm che kín đáo, cổng sạc, khay đựng nước và màn hình LCD…
  • Xe hiện có 3 phiên bản màu là màu hồng Hello Kitty, màu xanh Doreamon và màu trắng đỏ.
Xe Mỹ Duyên Trần Đề – Sóc Trăng

Giá vé xe Mỹ Duyên

HÀNH TRÌNHLOẠI XEGIÁ CƯỚC (VNĐ)
Tp Hồ Chí Minh – SÓC TRĂNGGiường nằm150.000
Giường nằm 34150.000
Phòng nằm170.000
Tp Hồ Chí Minh – PHỤNG HIỆPGiường nằm150.000
Giường nằm 34170.000
Phòng nằm180.000
TPHCM – ĐẠI NGÃIGiường nằm150.000
Giường nằm 34160.000
Phòng nằm180.000
Tp Hồ Chí Minh – KẾ SÁCHGiường nằm150.000
Giường nằm 34
TP Hồ Chí Minh – TRẦN ĐỀGiường nằm180.000
Giường nằm 34

Lưu ý: Đối với chặng dài công ty áp dụng hai mức giá, chặng ngắn giữ nguyên.

Lịch chạy xe Mỹ Duyên TP. HỒ CHÍ MINH – SÓC TRĂNG

Liên hệ đặt xe Mỹ Duyên

TRỤ SỞ CÔNG TY TPHCM: 395 KINH DƯƠNG VƯƠNG, PHƯỜNG AN LẠC, QUẬN BÌNH TÂN .TPHCM. Tổng đài: 0903.861.192 – 02862.77.55.44

Bến xe MIỀN TÂY. Địa chỉ: 395 KINH DƯƠNG VƯƠNG, P.AN LẠC, QUẬN BÌNH TÂN. Liên hệ: 0903.861.192

Bến xe Long Phú. Địa chỉ: Bến xe Long Phú. Liên hệ: 0942.909.600

Bến xe Mỹ Tú. Địa chỉ: 86 Hùng Vương, Thị Trấn Huỳnh Hữu Nghĩa. Liên hệ: 02996.57.57.57

Bến xe Trà Quýt. Địa chỉ: 61 QL1A, Ấp Xây Đá, Châu Thành, Sóc Trăng. Liên hệ: 02996.50.60.70

Bến xe Đại Ngãi. Địa chỉ: Ấp Phụng Tường 2, Xã Song Phụng, Huyện Long Phú, TP. Sóc Trăng. Liên hệ: 02996.50.50.50

Bến xe Kế Sách. Địa chỉ: Phan Văn Hùng, Ấp An Thành, Thị Trấn Kế Sách. Liên hệ: 02996.54.54.54

Bến xe Cù Lao. Liên hệ: 02996.53.53.53

VĂN PHÒNG PHỤNG HIỆP- TRẦN ĐỀ. Tổng đài: 02996.125.125 – 0293.629.76.76

  • Văn phòng Tại TRẦN ĐỀ. Địa chỉ: Khu Tái Định Cư, Ấp Đầu Giồng, Thị Trấn Trần Đề. Liên hệ: 02996.512.512
  • Văn phòng PHỤNG HIỆP( Ngã 7). Địa chỉ: Bến Xe Phụng Hiệp( Ngã 7). Liên hệ: 0293.629.76.76