Di tích Sở Lò Vôi Côn Đảo là nơi các tù nhân bị đưa đi lao động khổ sai với công việc đi lấy san hô ngoài biển đem về và nung san hô thành vôi bột. Trong thời Pháp thuộc, Côn Đảo có khoảng 18 sở lao động khổ sai, nhưng hiện nay chỉ lưu lại được vài sở như Sở Lò Vôi, Sở Muối, Sở Rẫy…là một trong 46 điểm tham quan trên địa bàn huyện Côn Đảo.
Sơ lược về Sở Lò Vôi
Trong những ngày đầu, cơ sở vật chất trên đảo rất thiếu thốn, thực dân Pháp tiến hành khai thác triệt để sức lao động của tù nhân. Lò Vôi do thực dân Pháp xây dựng từ năm 1864, đây cũng là chứng tích điển hình về chính sách bóc lột sức lao động, cùng với chế độ hà khắc nhằm dập tắt ý chí của những người yêu nước chống thực dân Pháp lúc bấy giờ.
Đây là một trong 18 sở tù khổ sai do Thực dân Pháp xây dựng nhằm khai thác triệt để sức lao động của tù nhân. Lò Vôi xây dựng từ năm 1864, giai đọan 1920-1921, được chỉnh trang mở rộng thêm. Lò Vôi chuyên nung san hô cung cấp cho toàn đảo, ở đây có 4-5 kíp tù trông coi việc đốt lò chủ yếu, lao động khổ sai ở đây chia làm hai kíp: Một kíp thường xuyên bám biển lặn san hô, mỗi tháng phải có 4 sà lan san hô, một kíp 12 người chuyên đưa san hô vào đốt lò nung thành vôi xây dựng nhà cửa, cầu đường. Nơi đây được xem như một bản cáo trạng về chính sách khai thác sức lao động của tù nhân. Ngày đi làm khổ sai tối về nhốt phòng giam trong cái đói rét, lạnh lẽo, cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, người tù có thể chết bất kỳ lúc nào với những hình thức này.
Bước sang giai đọan đế quốc Mỹ, nhà giam này thành nơi đóng quân và xây thêm một căn nhà phụ tại khu vực này.
Lao động khổ sai lấy san hô làm vôi của các chiến sỹ tù Cộng sản tại Sở Lò Vôi
Ngay từ khi có Nhà tù Côn Đảo thì tù khổ sai đã phải lấy san hô để nung vôi. Bãi san hô ở ngay trước Vịnh Côn Đảo. Cồn san hô nổi lên từ bãi Lò Vôi chạy mãi đến gần Đá Trắng. Đó là nguồn nhiên liệu để nung vôi xây nhà giam và tất cả các kiến trúc khác trên đảo.
Kíp san hô có khoảng 80 đến 100 người tù khổ sai, làm việc theo con nước. Khi thủy triều rút, họ đem theo đòn xeo, choáng… và đẩy sà lan ra ngoài cồn san hô, cách bờ chừng 2 km. Nước chưa cạn hẳn, bọn gác ngục đã đẩy họ xuống, bắt ngụp lặn, đào bới, bẩy từng tảng san hô lên, rồi bửa nhỏ, chất thành đống. Khi nước lên trở lại, sẽ đưa sà lan tới, bốc lên chở về.
Mùa hè, nước lớn về đêm đến trưa hôm sau mới rút, kíp san hô phải đi làm từ 13 giờ đến nửa đêm. Mùa đông, nước lớn ban ngày, họ phải dầm mình xuống nước tử nửa đêm hôm trước đến trưa hôm sau. Da thịt người tù xám ngắt vì gió rét. Họ phải đi bộ từ Banh I đến Lò Vôi chừng 3 km, đẩy sà lan ra xa 2 đến 3 km nữa mới tới chỗ làm việc. Lấy đủ số san hô rồi lại phải chờ con nước lên, chất san hô lên sà lan chở về Lò Vôi. Giao nộp đủ rồi mới được về banh. Mỗi ngày làm khổ sai 12 tiếng, vừa đi vừa về mất thêm 3 tiếng nữa. Họ chỉ còn lại vài tiếng đồng hồ để trút nỗi cực nhọc xuống sàn, vật ra trên nền xi măng lạnh lẽo, nhớp nhúa, tối tăm ngạt thở cua khám giam.
San hô kết thành từng mảng lớn, phải tìm cho ra những khe hở giữa hai tảng san hô, dùng choáng đục cho rộng ra, người tù gọi là “mở miệng” rồi lùa những đòn xeo dài đến 5-6 mét vào, sau đó 5 đến 7 người xúm lại treo người lên đầu đòn xeo ráng sức bẩy mạnh cho bật tung tảng san hô.
Nhiều khi trượt chân, đứt dây buộc, hoặc đòn xeo bật mạnh quật trở lại, tung mấy người ngã xuống đám san hô tua tủa, sắc nhọn. Vỡ đầu, gẫy tay, gấy chân, đứt thịt, lòi xương… là chuyện thường xảy ra.
Lấy san hô trong những ngày nắng ráo đỡ vất vả nhọc nhằn hơn khi gặp phải những ngày mưa gió. Người tù phải ngâm mình dưới nước cả chục tiếng đồng hồ. Đói rét, mệt vẫn phải làm, ngơi tay một chút là roi gân bò, mây tầm vông bổ xuống đầu. Nhiều anh em tù ở Sơn La mới ra bị sốt rét nhưng vẫn phải đi làm, dù có lên cơn sốt rét ngay giữa biển đi chăng nữa.
Có khi trời sắp nổi cơn giông, bọn gác ngục vẫn xua tù ra biển. Vừa ra khỏi bờ thì bị mưa ập đến, gió thổi bạt cả xà lan. Tù nhân phải nhảy xuống nước, ghì mỏ neo vào một tảng san hô lớn, rồi cả bọn ôm lấy nhau chống với gió rét. Bớt gió mới xúm nhau lại đẩy sà lan vào bờ.
Kíp san hô mỗi chuyến đi mỗi người phai nộp 40 tảng đá to bằng cái nón lá. Có khi nước lên đến cổ rồi mà lấy vẫn chưa đủ nhưng bọn gác ngục vẫn bắt người tù phải ngụp lặn, dù sao cũng phải nộp đủ, nếu không thì đòn roi tại chỗ, xiềng ngay trong khám giam, nhốt hầm tối…
Cả ngày ngâm nước biển đầy bùn rác cũng không được tắm. Nếu đòi tắm lập tức sẽ bị đòn roi, hầm xiềng vì tội “dám đưa yêu sách tập thể”, trái với quy chế nhà tù. Đằng nào cũng chết! Nhiều người chọn cái chết chóng vánh: tự tử! Có người đã thắt cổ tự tứ trên cành cây ngang lối thường đi của chúa đảo. Có người trèo sẵn trên cây, đợi “ông Lớn” đi kiểm tra ngang qua, nhảy bổ từ trên cao xuống, đâm đầu vào đống đá hộc cho tan sọ trước mặt kẻ thù. Năm 1934, có 4 đảng viên Quốc dân đảng, vì không chịu nổi chế độ hà khắc của nhà tù đã làm như vậy.
Người tự tử trước mặt chúa đảo Buviê là anh Bướu (quê ở Phú Thọ). Nhưng đến cả cái chết thương tâm như vậy, cũng không làm tên chúa đảo kịp mủi lòng. Không một thoáng cau mày, hắn cất cái giọng khàn khàn, lạnh lùng dằn từng tiếng: “Thêm một thằng hay bớt một thằng, cũng chẳng sao.”.
Hướng dẫn đến Sở Lò Vôi
Nằm trên đường Nguyễn Văn Cừ, từ trung tâm du khách có thể di chuyển bằng xe đến tham quan Di tích Sở Lò Vôi. Di tích Sở Lò Vôi đã được thủ tướng chính phủ ký quyết định số 548/QĐ-TTg công nhận là Di tích Quốc gia Đặc biệt ngày 10/5/2012.
Xem thêm: Sở Muối Côn Đảo