Nhà tù Côn Đảo từ năm 1930 đến trước Chiến tranh Thế giới Thứ Hai (1939)

Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, nước Pháp bị lôi cuốn vào cuộc chiến tranh. Thực dân Pháp ở Đông Dương mở cuộc tấn công vào Đảng Cộng sản và phong trào quần chúng; đồng thời chúng vơ vét nhân tài, vật lực ở Đông Dương ném vào cuộc chiến tranh đế quốc. Đời sống các tầng lớp nhân dân ta lâm vào cảnh cùng cực. Tình thế cách mạng cũng xuất hiện tại Nhà tù Côn Đảo từ năm 1930 đến trước Chiến tranh Thế giới Thứ Hai (1939).

Chi bộ khám Chỉ Tồn Banh I (1930 -1934)

Ngày 9-2-1929, Quốc dân đảng tổ chức ám sát tên trùm mộ phu Badanh tại Hà Nội. Thực dân Pháp điên cuồng khủng bố, bắt hàng trăm người yêu nước và cách mạng. Tháng 7 năm 1929, theo lệnh của toàn quyền Pátkiê (Pièrre Pasquier), các phiên toà đại hình được mở cùng một thời gian ở hơn 20 tỉnh và thành phố Việt Nam. Hàng trăm người bị kết án và đày ra Côn Đảo, trong đó có một số hội viên Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí Hội. Đây là những chiến sĩ cộng sản đầu tiên trên Côn Đảo.

Ngày 10-2-1930 cuộc khởi nghĩa Yên Bái của Việt Nam Quốc dân đảng nổ ra và bị thực dân Pháp dìm trong biển máu. Nguyễn Thái Học và một số lãnh tụ Việt Nam Quốc dân đảng bị xử tử, hầu hết số đảng viên còn lại bị bắt tù. Chuyến tàu Cơlốt Sáp (Claude Chappe) ngày 18-6-1930 rời cảng Hải Phòng chở hơn 200 đảng viên Việt Nam Quốc dân đảng và gần 40 đảng viên cộng sản vừa bị bắt đày ra Côn Đảo.

Tại cửa biển Vũng Tàu, thực dân Pháp dồn tù từ tàu Cơlốt Sáp qua tàu Ácmăng Rút sô (Hardmand Rousseaux) vừa chở đoàn tù từ Khám Lớn (Sài CTòN) đến để đưa cùng một chuyến ra Côn Đảo. Trong lúc chuyển tàu đoàn tù cộng sản đã phất cao lá cờ đỏ búa liềm và hô to các khẩu hiệu:

– Đả đảo đế quốc Pháp!

– Phản đối bắn giết, tù đày !

– Đáng Cộng sản Việt Nam muôn năm!

Hình ảnh lá cờ đỏ búa liềm tung bay trên biển Vũng Tàu và âm vang của những khẩu hiệu đã báo hiệu một thời kỳ đấu tranh cách mạng mới ở nhà tù Côn Đảo.

Cuối năm 1930 thực dân Pháp đưa thêm mấy chuyến tù ra Côn Đảo, nâng con số tù nhân ở đây lên 1992 người. Tù chính trị lúc này mới có khoảng hơn 300 người mà phần đông là Việt Nam Quốc dân đảng bị cấm cố trong Banh II. Hơn 1.600 tù nhân còn lại tập trung ở Banh I và các sở tù khổ sai. Nhiều đảng viên cộng sản bị kết án khổ sai cũng bị giam chung với tù thường phạm ở Banh I…

Lớp người cộng sản đầu tiên bị đày ra Côn Đảo còn gặp một số sĩ phu yêu nước thuộc các phong trào Đông Du, Đông kinh nghĩa thục, phong trào chống thuế ở Trung Kỳ và một vài nghĩa quân của các cuộc khởi nghĩa Hương Khê, Yên Thế, Duy Tân… còn sống sót sau nhiều năm bị đày ải ở đây.

Nhà tù Côn Đảo là nơi tụ hội của những người yêu nước và những người cách mạng Việt Nam sau mỗi lần thực dân Pháp khủng bố ác liệt. Theo Niên giám thống kê Đông Dương, từ năm 1930 đến năm 1933, thực dân Pháp đã bắt giam 216.532 người. Riêng ở Bắc Kỳ trong 2 năm 1930-1931 chúng đã mở 21 phiên tòa đại hình xử nhiều vụ với 64 án tử hình, 114 án khổ sai chung thân và 430 án lưu đày biệt xứ. Nhiều người trong số đó đã lần lượt bị đày ra Côn Đảo.

Mặc dù mỗi năm có đến hàng trăm người tù chết nhưng con số tù nhân ở Côn Đảo vẫn không ngừng tăng lên:

Năm 1931: 2.145 người

Năm 1932: 2.276 người

Năm 1933: 2.483 người

Năm 1934: 2.818 người1.

Phần lớn số tù nhân tăng lên trong thời kỳ này là những đảng viên cộng sản và quần chúng yêu nước bị thực dân Pháp bắt sau cao trào cách mạng 1930-1931. Dưới thời tên chúa ngục khát máu Buviê (Bouvier, 1927-1934) nhà ngục Côn Đảo thật ghê rợn và ảm đạm.

Tháng 11 năm 1930, một trận bão lớn ập đến Côn Đảo, trại giam Sở Lưới sập làm 75 người tù chết thê thảm; Banh I, Banh II và nhà cửa trên đảo đều bay hết ngói. Sau trận bão, tù nhân được huy động đi sửa chữa ngay nhà cửa cho binh lính và gác ngục, còn họ thì phải sống cảnh “màn trời chiếu đất” trong mấy tháng trời. Ngày phơi nắng, đêm phơi sương và phải chịu những trận mưa bất thường ập đến nhiều người tù mòn mỏi, suy kiệt rồi mang bệnh mà chết. Năm 1930, Nhà tù Côn Đảo đã vùi xác 311 người tù, tỷ lệ chết là 15,6%, cao nhất trong các nhà tù ở Đông Dương.

Vừa ra đời và phất cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, lật đổ ách thực dân, những người cộng sản Việt Nam đã phải đương đầu với bộ máy đàn áp khổng lồ: tòa án phát xít và nhà tù nổi tiếng tàn bạo ở Đông Dương. Tên thực dân khét tiếng chống cộng Pátkiê khi nhận chức toàn quyền Đông Dương đã tuyên bố: Không diệt hết cộng sản không về.

Không thể chém đầu hàng loạt được vì nền thống trị thực dân cần phải lừa bịp về chính trị, vì vậy nhà tù là công cụ khủng bố chủ yếu của chúng. Không giết được hàng loạt ngay một lúc thì giết dần, giết mòn. Nhà tù là nơi tập trung đày ải làm tiêu mòn ý chí chiến đấu và tiêu diệt lực lượng cách mạng.

Năm 1931, Nhà tù Côn Đảo có 2.146 tù nhân thì có 209 người đã chết, tức là cứ đày 10 người tù ở Côn Đảo là mỗi năm chúng giết được một người. Với tốc độ giết người như vậy, sau 10 năm đày ải, bọn thực dân có thể giết sạch một lớp tù. Nhiều người đã chết khi chưa được nửa án. Lớp tù nhân của cao trào cách mạng 1930-1931 bị đặt trước hai tình huống: hoặc là chịu chết dần mòn trong lao tù, hoặc là đấu tranh đòi cải thiện chế độ nhà tù, giành lấy sự sống. Những người cộng sản đã thảo luận ngay phương châm tổ chức và đấu tranh chống chế độ khủng bố, đọa đày. Cuộc thảo luận kéo dài vì Côn Đảo không giống bất cứ nhà tù nào ở trong đất liền.

Ở Hỏa Lò (Hà Nội) hay Khám Lớn (Sài Gòn), tù nhân tuyệt thực ngày hôm trước là hôm sau chấn động cả thành phố, dư luận quần chúng bên ngoài lên tiếng ủng hộ. Ở một nơi heo hút như ngục Sơn La, trong vòng 8 tháng đày đọa, 43 tù nhân bị giết hại (1933) đã làm xôn xao dư luận. Để dập tắt phong trào đấu tranh ở nhà tù Sơn La và bưng bít ngay dư luận, tên toàn quyền Pátkiê đã ra lệnh đày những người còn sống sót ra Côn Đảo. Bọn gác ngục trong đất liền lại được dịp đe dọa tù nhân: “Ra Côn Đảo tha hồ mà đấu tranh, ở ngoài ấy có sóng biển ủng hộ chúng mày!”.

Cùng thời gian ấy, năm 1933 tại Nhà tù Côn Đảo đã có 85 người chết; trong vòng 4 năm, từ 1930 đến 1933 thực dân Pháp đã giết hại 708 tù nhân tại nhà ngục này, nhưng dư luận bên ngoài không hề biết. Các nhà tù ở đất liền đều gần gũi và có sự phối hợp hoạt động với các tổ chức cách mạng và phong trào cách mạng của quần chúng, với dư luận tiến bộ, còn Côn Đảo là một hòn đảo biệt lập.

Giữa biển khơi mênh mông, Côn Đảo không có dân cư, chỉ có tù nhân, cai ngục và sự đọa đày. Đó là một nhà tù “lý tưởng” mà bọn thực dân đã sớm chọn để có thể khủng bố những người chống đối chúng một cách man rợ nhất, bất chấp cả dư luận và pháp luật. Tất cả các yêu sách của tù nhân đều được trả lời bằng roi vọt và những hình phạt khắc nghiệt. Các cuộc bạo động đều bị đàn áp bằng súng máy và lưỡi lê.

Cuộc đàn áp đẫm máu khám tù chung thân Banh I năm 1918 và không khí khủng bố, chết chóc ở Côn Đảo những năm 1930 làm không ít người tù ngao ngán. Lớp cộng sản đầu tiên ra Côn Đảo còn gặp những người tù cũ bị đày đọa ở đây đã trên 30 năm. Có người đã ngoài 70 tuổi còn bị đày ra Côn Đảo như cụ Nguyễn Thiện Kế, em ruột người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Nguyễn Thiện Thuật. Có người bị đày ra khi tóc còn xanh cho đến hơn 70 tuổi vẫn chưa được về như cụ Lãnh Đạt, một tướng của Phan Đình Phùng.

Đày ra Côn Đảo là không còn hy vọng trở về. Trong tình hình đó có một số ít người cầu an, dao động, nhưng phần lớn số đảng viên cộng sản đều vững vàng và nung nấu ý chí cách mạng. Tổ chức và đấu tranh là vũ khí sắc bén của người cộng sản. Sống là tranh đấu. Ở nhà ngục Côn Đảo muốn sống càng phải tranh đấu.

Vấn đề thành lập chi bộ Đảng làm hạt nhân lãnh đạo trong nhà tù được những người cộng sản thảo luận sôi nổi. Nhiều vấn đề rất mới nảy sinh trong các cuộc thảo luận. Ở Côn Đảo có tổ chức chi bộ đảng được không? Chi bộ trong nhà tù hoạt động như thế nào? Ai công nhận và chỉ đạo hoạt động của chi bộ? Tiêu chuẩn để công nhận đảng viên trong nhà tù ra sao? Có ý kiến cho rằng tổ chức chi bộ trong một nhà tù hà khắc nhất định sẽ bị địch khủng bố, như vậy sẽ không bảo vệ được cán bộ. Có ý kiến cho rằng ở Côn Đảo không có quần chúng, không có phong trào cách mạng nên không thể tổ chức và đấu tranh thắng lợi được.

Vấn đề tiêu chuẩn đảng viên được thảo luận rất kỹ. Không thể tránh khỏi những đảng viên sai phạm về nguyên tắc hoạt động bí mật, sai phạm khi bị bắt hoặc sai phạm trong tù. Những sai phạm ấy chưa được kiểm điểm và xử lý; chưa được xác định tính chất, mức độ và kỷ luật… Vậy thì xét công nhận đảng viên như thế nào? Ngay cả những người không sai phạm cũng đưa ra ý kiến: Tôi vẫn là đảng viên, chưa hề bị kỷ luật khai trừ, vậy lấy tư cách gì để kết nạp tôi vào Đảng?

Sau nhiều lần thảo luận, mặc dù có những vấn đề chưa đủ căn cứ để giải đáp, song nhiều ý kiến đã thống nhất rằng: Bất cứ ở đâu và trong hoàn cảnh nào người cộng sản cũng phải không ngừng hoạt động cách mạng; nơi nào có người cộng sản là ở đó cần có tổ chức Đảng để giáo dục đảng viên, giác ngộ quần chúng và lãnh đạo đấu tranh; vào tù không phải là nằm im chờ đợi hay bó tay chịu chết; ngay ở Côn Đảo cũng phải tiếp tục cuộc đấu tranh cách mạng và cần phải có tổ chức Đảng làm hạt nhân lãnh đạo.

Chi bộ đầu tiên ở Nhà tù Côn Đảo ra đời gắn liền với hoạt động của đồng chí Nguyễn Hỡi, nguyên ủy viên Thường vụ Ban Chấp hành Trung ương lâm thời Đảng Cộng sản Việt Nam, Bí thư Tỉnh ủy Nam Định. Ngay khi mới ra đảo, bị giam ở Banh II, Nguyễn Hỡi đã bàn bạc với một số đồng chí gần gũi rằng cần phải thành lập ngay một tổ chức hạt nhân cộng sản để lãnh đạo trong tù. Cuối năm 1931, khi bọn chúa ngục chuyển những người tù chính trị mang án khổ sai và án tù về Banh I thì nhóm hạt nhân được hình thành do Nguyễn Hỡi đứng đầu.

Banh I là điển hình của chế độ khổ sai giết tù. Xây chưa xong hai mố cầu Ma Thiên Lãnh, bọn chúa ngục đã giết hại 356 người tù. Xây cầu tàu Côn Đảo trong nhiều năm chúng đã vùi xác gần một ngàn người. Hầu như mỗi mảnh đất, gốc cây, tảng đá ở Côn Đảo đều khắc sâu nỗi cực nhọc và thấm máu của những người tù khổ sai. Banh I là hiện thân của “địa ngục trần gian”, những công việc khổ sai như xay lúa, đốn củi, kéo gỗ, kè đá, mò san hô, dọn tàu… còn rùng rợn hơn cả cái chết.

Banh I là điển hình của những hình phạt man rợ: đòn roi, còng, xiềng, xà lim, hầm xay lúa, cấm cố biệt lập v.v… Có những lúc để chia rẽ tù, bọn gác ngục đã lựa cá khô còn tốt phát cho tù chính trị Banh II, cá khô mục thối phát cho tù khổ sai Banh I. Trong lúc tù chính trị ở Banh II được nhận tiền và quà của gia đình thì tù khổ sai ở Banh I chỉ được nhận tối đa mỗi tháng một đồng. Bất cứ lúc nào bọn gác ngục cũng có thể đánh đập bắt họ “đền tội với xã hội. Những người cộng sản chỉ có một “tội” yêu nước và đấu tranh cho độc lập tự do, bị kết án khổ sai cũng phải chịu chung sự đối xứ dã man như vậy.

Khổ cực và uất hận chất chồng, tù nhân Banh I đã nhiều lần vùng lên chống lại bằng nhiều cách: giết bọn cặp rằng lưu manh, giết những tên gác ngục hung ác, tự tử để phản đối hoặc nổi dậy phá ngục. Họ thà chết còn hơn chịu cảnh ngược đãi, đọa đày, song những cuộc đấu tranh như vậy chỉ làm cho bọn chúa ngục thêm bạo ngược, còn phần lớn tù nhân thì kéo dài tình trạng bế tắc và tuyệt vọng.

Một bộ phận lưu manh loại “anh chị” tiếp tục cuộc đời lưu manh trong tù, kết bè đảng với nhau để áp bức những người tù yếu thế. Chúng trở thành một loại công cụ đắc lực của bọn chúa ngục để đày đọa đến cùng cực người tù, từ việc cưỡng bức khổ sai đến cả lúc ăn, ngủ và nghỉ. Nhiều tên cặp rằng lưu manh gian ác không kém gì gác ngục như Cai Nhất (kíp đốn gỗ), Tư Nhỏ (kíp san hô), Bảy Tốt (hầm xay lúa)…

Trong sự đày đọa khốn cùng, những người cộng sản Banh I phải quyết định lấy vận mệnh, hoặc là chịu chết mỏi mòn, hoặc là đấu tranh để sống trở về tiếp tục hoạt động cách mạng. Song muốn thay dù một con cá khô mục thối, muốn bớt dù chỉ một thanh củi, một viên đá, một tảng san hô là phải chống lại cả một chế độ khổ sai giết tù, là phải chống chọi cả một bộ máy khủng bố, từ tên chúa đảo đến đám gác ngục và bọn cặp rằng tay sai. Đó chính là cuộc đấu tranh cách mạng trong tù, đòi hỏi những người cộng sản phải được tổ chức thành đội ngũ chặt chẽ, có khả năng tập hợp quần chúng tù thường và có phương châm, hình thức đấu tranh thích hợp.

Chi bộ Đảng ở Côn Đảo ra đời vào khoảng đầu năm 1932 tại khám Chỉ Tồn Banh I, lúc đầu có chừng 20 đảng viên, đồng chí Nguyễn Hỡi làm bí thơ, chi ủy có các đồng chí Tôn Đức Thắng, Tống Phúc Chiếu, Tạ tuyên, Tống Văn Trân… Đồng chí Phan Đình Khải (Lê Đức Thọ) khi bị đày sang Banh I cũng được bổ sung vào chi ủy. Chi bộ xác định những nhiệm vụ chủ yếu là:

– Lãnh đạo đấu tranh trong tù.

– Giáo dục, bồi dưỡng lý luận cho nhau.

– Tuyên truyền giác ngộ binh lính, giám thị.

– Liên hệ với Đảng ở đất liền và tổ chức trốn.

Hoạt động trong tù, chi bộ đặt lên hàng đầu lòng trung thành với Đảng, xem như tiêu chuẩn quan trọng nhất của đảng viên. Bất cứ ai giữ cương vị nào trong Đảng, khi bị bắt phải giừ vững khí tiết, vào tù không dao động cầu an, không ngần ngại đấu tranh mới được tổ chức vào chi bộ. Đảng viên phải tán thành việc tổ chức Đảng ở trong tù, phải tham gia hoạt động trong tù, vận động quần chúng tù thường, tuyên truyền binh lính, gác ngục và đi đầu trong đấu tranh.

Chi bộ trong tù không quy định đảng phí, ai có bao nhiêu tiền đều góp cả dùng chung. Tiền dùng để mua đồ cứu tế mua dầu đèn, sách báo để học tập và mua sắm các phương tiện để vượt đảo. Mặc dù chưa được Đảng bộ cấp trên công nhận, chi ủy vẫn có uy tín tuyệt đối trong chi bộ cũng như trong toàn thể tù chính trị.

Suốt thời kỳ khủng bố trắng của thực dân Pháp, các cơ sở Đảng hầu hết bị tan vỡ, một phần lớn đảng viên bị bắt. Các cơ quan Trung ương, Xứ ủy, Tỉnh ủy cũng phải lập đi lập lại nhiều lần. Những cơ sở Đảng còn hoạt động được là nhờ lòng trung thành với sự nghiệp cách mạng, nhờ tính năng động cách mạng và sáng tạo của đội ngũ cán bộ, đảng viên.

Banh I thường xuyên có trên dưới 1.000 tù nhân, là trung tâm khổ sai của Nhà tù Côn Đảo. Sở Chỉ Tồn có đến 500 tù nhân là lực lượng khổ sai tập trung đông nhất. Từ cổng Banh I nhìn vào, bên phải là dãy khám 1-2-3-4-5 giam tù làm bồi bếp, bản chế, vệ sinh (Sở tẩy), thợ hồ và một vài sở khác. Sở Chỉ Tồn chiếm toàn bộ dãy khám 6-7-8-9-10 bên trái. Vừa là một trung tâm khổ sai cực nhọc, Chỉ Tồn vừa là một trung tâm tiếp nhận và phân bổ tù nhân. Hầu hết tù khổ sai về Banh I. đều phải trải qua một thời gian làm khổ sai ở Chỉ Tồn, sau đó mới phân về các sở tù khác.

Chỉ Tồn những năm 1930 cũng là nơi tập trung nhiều đảng viên cộng sản ở Banh I. Ở đó đảng viên gần gũi với số đông tù thường phạm và có điều kiện tiếp xúc với binh lính, gác dang, ma tà cho nên anh em có dịp tuyên truyền, vận động và giác ngộ họ. Địa bàn khổ sai rộng và sự luân chuyển tù giữa Chỉ Tồn và các sở tù khác giúp chi bộ có điều kiện nắm tình hình và chỉ đạo các kíp tù khổ sai.

Chi bộ vận động cho một số đảng viên được ra làm ở các sở ngoài. Một số đồng chí biết nghề được nhận vào làm ở Nhà Thương, Nhà Đèn, Ban Chế. Một số người biết tiếng pháp được bố trí làm bồi bếp và thư ký các công sở. Một số khác ra các sở tù khổ sai bên ngoài. Đảng viên của chi bộ đi đến đâu là phát triển cơ sở Đảng ở đó.

Sau một thời gian, các cơ sở Đảng lần lượt được thành lập ở khám 1, khám 2, khám 3, khám 4, Nhà Đèn, An Hải, An Hội, Bến Đầm, Sở Muối, Đá Trắng, Cỏ Ống… Chi bộ Chỉ Tồn là trung tâm chỉ đạo, có vai trò như một Đảng ủy. Mặc dù thường bị xáo trộn, chi bộ Chỉ Tồn vẫn là nơi tập trung nhiều đồng chí có trình độ lãnh đạo, đảm nhiệm được vai trò trung tâm chỉ đạo.

Hội tù nhân

Giáo dục giác ngộ tù thường phạm, tổ chức và lãnh đạo họ đấu tranh là một nhiệm vụ cấp bách của chi bộ. Bằng phẩm chất, tơ cách của mình, những người cộng sản đã từng bước cảm hóa tù thường phạm. Không bao giờ giành ăn, giành mặc, tù cộng sản còn giúp đỡ thường phạm những lúc cần.

Sau trận bão tháng 11 năm 1930, tù nhân đau yếu rất nhiều, các đồng chí Nguyễn Hỡi, Tôn Đức Thắng, Tống Văn Trân đã chỉ đạo tổ chức tương tế trong tù để giúp đỡ lẫn nhau. Hội cứu tế Banh I lần đầu tổ chức được khoảng 100 người tù, mỗi người góp quỹ một xu để mua thuốc bệnh, dầu cù là, đường, sữa, đậu xanh… dùng vào việc cứu tế.

Ở Côn Đảo, ốm đau là nỗi khốn cùng của người tù. Không ăn được, không có thuốc uống mà vẫn phải đi làm khổ sai, đuối sức không làm được là nhừ đòn với gác ngục. Vậy mà ít người dám khai bệnh và đi khám ở nhà thương vì những thầy thuốc tay sai của thực dân thường chỉ xem qua loa rồi ghi hai chữ N.M. (non malade: không ốm) hoặc C.M (consunation motivée: ốm vờ) là bị đánh đập và bị phạt xà lim.

Từ khi có Hội cứu tế, lần đầu tiên trên hòn đảo tù, những tù nhân ốm đau được săn sóc. Từng viên thuốc bệnh, từng giọt dầu xoa và bàn tay chăm sóc ân cần của những người cộng sản đều có sức cảm hóa sâu sắc đối với những người tù đau ốm. Ngay cả số tù lưu manh quen giành giật miếng cơm, manh áo trong tù cũng được những người cộng sản giúp đỡ khi cần thiết, cũng được thương như thương một con người. Những tên lưu manh loại “anh chị” dần dần tỏ thái độ kính nể những người cộng sản.

Bằng hình thức cứu tế thích hợp và những quan hệ quần chúng tốt, những người cộng sản đã cảm hóa và tập hợp một số đông tù thường phạm, từng bước đưa họ vào cuộc đấu tranh đòi cải thiện chế độ lao tù. Công tác vận động binh lính, gác ngục cũng sớm được chú trọng. Kíp tù làm ở Sở Ruộng gây được thiện cảm với tốp lính đi áp giải. Kíp tù quét dọn trong trại lính cũng vận động được một số binh linh là đảng viên Đảng xã hội Pháp mua giúp sách báo tiến bộ.

Một số gác dang được cảm hóa đã bớt hung hãn hơn, có những người như Alếchdăng (Alexandre) hay Simatămbi (Simatamby) không bao giờ đánh tù. Các chú ma tà1 số 4, số 5, số 10 được giác ngộ đã giúp nhiều việc đắc lực cho chi bộ. Kíp dọn tàu tích cực liên hệ với thủy thủ trên tàu để đặt đường dây liên lạc với đất liền.

Qua các thủy thủ có cảm tình và những cơ sở của Đảng ta trên các chuyến tàu thường ghé Côn Đảo, chi bộ đã liên lạc được với một số cơ sở Đảng ở đất liền. Tài liệu sách báo của Đảng được chuyển ra Côn Đảo, giấu Trong các bao thóc, giỏ cá đưa thẳng về nhà kho Banh I và Banh II. Một số lính Pháp có cảm tình cũng mua giúp sách báo tiến bộ. Các đồng chí ở Nhà Thương, Nhà Đèn và kíp dọn tàu là những đầu mối liên lạc trực tiếp với binh lính và thủy thủ, tiếp nhận sách báo cho chi bộ.

Nhà Thương, Nhà Đèn còn là hai đầu mối hên lạc giữa chi bộ Chỉ Tồn và các cơ sở bên ngoài. Tin tức, tài liệu và ý kiến chỉ đạo của chi bộ được chuyển qua Nhà Thương đến Nhà Đèn. Các sở Chuồng Bò, An Hải, An Hội, Cỏ ống, Sở Muối, Đá Trắng, Bến Đầm… mỗi lần về nhận lương thực, thực phẩm và mua hàng ở tiệm tạp hóa đều ghé cơ sở Nhà Đèn nhận tài liệu và báo cáo tình hình về chi bộ Chỉ Tồn.

Gia đình chú ma tà số 5 cũng là một đầu mối liên lạc của chi bộ. Bà cụ Ba là người phúc hậu, ghét Tây và thương anh em tù cách mạng. Cô Bảy, em chú ma tà số 5 giữ tiền quỹ cho chi bộ và mua giúp những thứ cần thiết2. Tiệm tạp hóa của cô là nơi đi lại của các đồng chí trong chi bộ. Chi bộ còn đặt mua báo chí ở Sài Gòn gửi nhà cô Bảy. Các đồng chí phụ trách giao thông đến đọc và lấy tin tức. Bà cụ và cô Bảy vừa bán hàng vừa canh gác bảo vệ anh em. Tình thương và sự thông minh của hai mẹ con bà cụ đã nhiều lần cứu thoát các đồng chí ta khói nanh vuốt của bọn gác ngục3.

Giao thông liên lạc giữa các khám trong Banh I và tù Banh I qua Banh II chủ yếu dựa vào Nhà bếp và Sở tẩy, mỗi khi chia cơm và quét dọn vệ sinh, các đồng chí phụ trách giao thông lại có dịp chuyển tài liệu cho từng khám. Các đồng chí ở Sở tẩy hằng ngày quét dọn vệ sinh còn chuyển tài liệu cho Banh II bằng cách ném qua tường hoặc tuồn qua lỗ cống thông giữa hai banh. Kíp Sở tẩy ở Banh II nhận tài liệu và thông tin cho Banh I cũng bằng con đường ấy.

Các đồng chí Lê Đức Thọ ở Nhà thương, Tô Thúc Rịch ở Nhà đèn, Tôn Đức Thắng, Tống Văn Trân ở Sở tẩy, đồng chí Thiệt ở nhà kho và nhiều đồng chí ở Nhà bếp đã tích cực góp phần bảo đảm mạch máu giao thông của chi bộ. Có lần đồng chí Hồng và đồng chí Hổ do lộ đường dây, bị đánh đập dã man và phạt hầm nhưng không ai hé răng khai báo. Các đồng chí Lý Hồng Nhật và Lang Kiều (thầy thuốc Nam) có những đóng góp tích cực trong công tác cứu tế tù nhân3.

Cải tạo chế độ Hầm xay lúa

Khoảng năm 1933, bọn gác dang phát hiện được đồng chí Tôn Đức Thắng liên hệ với tù chính trị Banh II và phạt giam đồng chí vào Hầm xay lúa. Hầm xay lúa vừa là một hình thức khổ sai để tận dụng lao động của tù nhân, vừa được cấu tạo một cách đặc biệt để đày đọa người tù và trớ thành một hình phạt khủng khiếp, địch gọi là “khu trừng giới” (quatier diciplinaire).

Trực tiếp điều hành trong Hầm xay lúa là một cặp rằng1 chính và 4 cặp rằng phụ do xếp banh chỉ định trong số tù lưu manh loại “anh chị”. Bọn này tập hợp hàng chục tên lưu manh đàn em để phục dịch cơm nước và đấm bóp cho chúng. Cả bọn cấu kết với nhau trút tất cả những công việc khổ sai nặng nhọc lên đầu những người tù khác.

Từ 5 giờ sáng tới 17 giờ chiều, Hầm xay lúa chật chội, ầm ĩ, bụi bặm, oi bức và ngột ngạt. Hơn 100 người tù bị xiềng xích, 200 bao thóc chất đống, 5 cối xay và 2 quạt gió đồ sộ chen chúc nhau trong một căn hầm rộng chừng 150 mét vuông. Quạt gió thổi ù ù, cối xay quay ầm ầm; tiếng xích sắt loảng xoảng lê dưới chân người tù, tiếng thớt cối nặng nhọc nghiến vào nhau chen lẫn tiếng roi quật đen đét lên những tấm lưng trần và những tiếng rít chửi độc địa của bầy cặp rằng lưu manh hòa thành một thứ âm thanh rùng rợn của Hầm xay lúa.

Khác với các sở tù khổ sai, bọn lưu manh trong Hầm xay lúa được toàn quyền hành hạ người tù, chúng hung dữ như một bày quỷ sứ. Bọn gác ngục chỉ đứng ngoài song sắt để chứng kiến lòng trung thành của đám tù tay sai đã được chúng kích động bản tính lưu manh. Bị áp bức đến cùng cực, tù nhân Hầm xay lúa trở nên hung bạo, thỉnh thoảng họ lại đập chết những tên cặp rằng hung ác.

Đồng chí Tôn Đức Thắng vào Hầm xay lúa được ít hôm thì cặp rằng Bảy Tốt bị hai người tù thường phạm đập vỡ sọ bằng một khúc gỗ lim, âm mưu dùng tay bọn tù lưu manh để sát hại đồng chí, xếp banh chỉ định ngay Tôn Đức Thắng làm cặp rằng chính. Hiểu được ý đồ thâm độc này, một số đồng chí cộng sản cùng bị đày ở Hầm xay lúa lúc ấy bàn với Tôn Đức Thắng nên nhân dịp này nắm quyền lực để cải tạo chế độ Hầm xay lúa.

Hâm xay lúa – Nơi lao dịch của các chiến sĩ tù cộng sản

Lần đầu tiên những công việc ở Hầm xay lúa được tổ chức lại. Tất cả mọi người đều làm việc. Những người yếu được bố trí vào kíp sàng gạo và đóng bao, người khỏe thì xay và khuân vác thóc. Kíp đứng cối nặng nhọc nhất được bố trí thêm người, thay nhau người làm người nghỉ. Thấy có một số tù nhân ngồi nghỉ, tên gác dang coi Hầm xay lúa chực xông vào đánh thì Tôn Đức Thắng ôn tồn bảo hắn: “Đủ gạo thì thôi, đánh đập có ích gì “Nói vậy nhưng chẳng bao giờ đủ gạo. Cặp rằng Tôn Đức Thắng không bắt tù xay nhiều thóc. Có lần tên xếp banh đích thân đến quở trách, đồng chí Tôn Đức Thắng đã trả lời hắn: “Tôi có thể chỉ huy cả một đội quân Lê dương2 nhưng tôi không thể điều khiển tù nhân xay lúa theo ý các ông được”.

Đồng chí Tôn Đức Thắng khi trước làm thợ máy trong Hải quân Pháp, năm 1919 đã từng kéo lá cờ cách mạng trên biển Hắc Hải bảo vệ nước Nga Xô Viết, bọn gác ngục Pháp đều biết tiếng, ngay cả đám tù lưu manh cũng phải kiêng nể. Những người tù thường phạm đã nhiều lần bị phạt Hầm xay lúa thì hết sức ngạc nhiên. Lần đầu tiên họ thấy một ông cặp rằng không hề đánh tù mà ôn tồn chỉ bảo cho từng người cách làm việc, cách cư xử với nhau. Bọn gác ngục Pháp thì rất hậm hực vì công việc đã không chạy mà tù nhân lại đoàn kết với nhau.

Nhóm cộng sản trong Hầm xay lúa tích cực giáo dục, cảm hóa tù thường. Hội cứu tế tù nhân được tổ chức trong Hầm xay lúa. Những người ốm đau được chăm sóc chu đáo. Hội tù tổ chức cạo gió xoa bóp cho nhau, san sẻ nỗi mệt nhọc trong ngày. Buổi trưa, khi bọn gác ngục về hết, Hội tù xúc gạo nấu cơm ăn thêm để bảo đảm sức khỏe. Buổi tối, Hội tù tổ chức học văn hóa, nói chuyện truyền thống, giáo dục lòng yêu nước cho tù thường. Không khí đoàn kết, học tập và giúp đỡ lẫn nhau dần dần thay thế cho sự thù hằn, chia rẽ. Nhiều người tù thường phạm rất ham học văn hóa. Anh Dừ, tù án lưu (relégué) chưa biết chữ nào, nhờ học mấy tháng ở Hầm xay lúa mà viết được thư về cho vợ làm cả nhà hết sức ngạc nhiên. Đến khi nhận được thư vợ gửi ra, anh cảm động đến phát khóc.

Nhiều người tù lưu manh cảm phục những người cộng sản mà bớt hung hãn hơn. Có người giác ngộ, sau về tham gia kháng chiến. Tình hình được cải thiện trong Hầm xay lúa làm bọn gác dang không vừa lòng. Tên xếp banh quyết định thay cặp rằng chính nhưng vẫn chỉ định Tôn Đức Thắng và Tô Hiệu làm cặp rằng phụ. Hết hạn phạt, Tôn Đức Thắng trở về Sở tẩy- Có tên gác dang ngạc nhiên hỏi: “Mêcanixiêng3 còn sống đấy hả? Tưởng chết rồi chứ?”

Nhiều cặp rằng Hầm xay lúa đã bị tù nhân đập chết trước khi mãn hạn phạt, nhưng bọn thực dân không thể hiểu được rằng những người cộng sản đang từng bước cải tạo “địa ngục trần gian” này.

Tổ chức đấu tranh, giành quyền sống

Sau khi thành lập chi bộ, những người cộng sản ở Côn Đảo tiếp tục thảo luận vấn đề đấu tranh trong tù.

Một số người cho rằng ở Côn Đảo không thể đấu tranh bằng hình thức tuyệt thực, lãn công, bãi công được mà chỉ có thể bạo động cướp chính quyền. Quan điểm này được viết thành tài liệu và đưa ra thảo luận rộng rãi, song nhiều ý kiến kiên quyết phản đối quan điểm trên.

Đồng chí Nguyễn Hỡi viết nhiều bài trên báo Tiến Lên khẳng định rằng: ở Côn Đảo không thể có động cướp chính quyền được mà chỉ có thể tập hợp lực lượng, lãnh đạo đấu tranh bằng các hình thức lãn công, bãi công, tuyệt thực đòi cải thiện chế độ lao tù. Quan điểm này được số đông tù cộng sản tán thành và trở thành phương hướng chỉ đạo của chi bộ.

Giữa năm 1933, gần 100 tù cộng sản từ Khám Lớn (Sài Gòn) bị đày ra Côn Đảo sau vụ án 121 đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương chấn động dư luận. Cuối năm 1933, thực dân Pháp đày 200 tù chính trị ở Sơn La và Hỏa Lò (Hà Nội) ra Côn Đảo. Nhà tù Côn Đảo trở thành nơi tập trung đày ải một phần lớn cán bộ, đảng viên và các đồng chí lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương lúc đó.

Chi bộ có thêm nhiều cán bộ lãnh đạo xuất sắc như Ngô Gia Tự, Phạm Hùng, Nguyễn Công Thương (Lê Văn Lương), Lê Quang Sung, Nguyễn Chí Diễu, Trần Quang Tặng… Ngô Gia Tự tham gia ngay cuộc tranh luận về vấn đề đấu tranh trong tù, đồng chí khẳng định: “Phải đấu tranh giành lấy quyền sống, không thể để cho bọn chúa ngục muốn làm gì thì làm!”.

Qua thực tiễn tổ chức và đấu tranh ở các nhà tù Sơn La, Hỏa Lò (Hà Hội) và Khám Lớn (Sài Gòn), với sự đóng góp của nhiều cán bộ có trình độ lý luận, cuộc thảo luận đã xác định rõ mục tiêu đấu tranh trong tù, một loại hình đấu tranh mới mẻ và đặc biệt đối với những người cách mạng Việt Nam. Đấu tranh trong tù được xác định là một bộ phận trong toàn bộ cuộc đấu tranh cách mạng nhằm chống chế độ lao tù hà khắc, bảo vệ sinh mạng, duy trì tinh thần chiến đấu và rèn luyện, đào tạo đội ngũ cán bộ cho Đảng.

Cuộc thảo luận còn đi đến kết luận rằng các chi bộ ở Côn Đảo phải thống nhất trong một tổ chức Đảng có tính chất toàn đảo Trung tâm chỉ đạo vẫn ở khám Chỉ Tồn. Đồng chí Ngô Gia Tự được cử làm bí thơ và thể hiện vai trò lãnh đạo xuất sắc Nhiệm vụ cụ thể của Đảng bộ được xác định rõ là:

– Lãnh đạo tương tế.

– Lãnh đạo đấu tranh.

– Lãnh đạo học tập và tự học tập

– Tổng kết kinh nghiệm đấu tranh cách mạng, biên soạn và dịch thuật tài liệu cho Đảng.

– Tổ chức trốn (tiếng lóng lúc ấy gọi là “đi câu”).

Qua thư từ gửi về đất liền, đảng bộ đã nối được liên lạc với Xứ ủy Nam Kỳ. Các đồng chí mãn án trở về được chi bộ giới thiệu và giao nhiệm vụ liên lạc với Xứ ủy báo cáo sự ra đời và hoạt động của chi bộ nhà tù Côn Đảo, đề nghị Đảng công nhận và cung cấp sách báo, tài liệu để huấn luyện cho cán bộ, đảng viên. Chi bộ còn đề nghị Đảng phát động một phong trào đấu tranh dòi ân xá tù chính trị và vận động quần chúng gửi tiền và quà ra tiếp tế cho tù chính trị ở Côn Đảo. Việc liên lạc với đất liền đã gắn bó những hoạt động của tù chính trị ở Côn Đảo với phong trào cách mạng ở Đông Dương lúc đó.

Lớp tù chính trị ở Sơn La, Hỏa Lò (Hà Hội) và Khám Lớn (Sài Gòn) ra đã tăng thêm tinh thần và lực lượng cho tù chính trị Côn Đảo. Chi bộ Chỉ Tồn tích cực củng cố Hội tù nhân và chuẩn bị mọi mặt cho các cuộc đấu tranh. Sau nhiều lần thảo luận ở các khám và các sở tù mùa hè năm 1934 một cuộc Hội nghị đại biểu tù nhân dã được triệu tập tại một động cát phía sau sở Chuồng Bò, đại biểu các kíp tù khổ sai Banh I và các sở tù khổ sai, thay mặt cho hơn 300 hội viên đã quyết định thành lập Hội tù nhân thống nhất.

Do được chuẩn bị chu đáo và bí mật, các đại biểu đã thảo luận trong hai tiếng đồng hồ, giải quyết xong các vấn đề cơ bản của Hội tù. Mặc dù số đông hội viên là tù cộng sản, tôn chỉ, mục đích của Hội tù nhân vẫn thể hiện tính chất quần chúng rộng rãi:

– Giúp đỡ nhau trong lúc đau yếu và trong việc làm (khổ sai)

– Đấu tranh đòi cải thiện sinh hoạt và giảm nhẹ khổ sai.

– Tổ chức học tập văn hóa.

Một Ban lãnh đạo chung toàn đảo được thành lập gồm các đồng chí Nguyễn Hỡi, Ngô Gia Tự, Trần Quang Tặng…

Thực tế hoạt động sau này, Hội tù nhân dưới sự lãnh đạo trực tiếp của chi bộ Đảng đã tổ chức nhiều cuộc đấu tranh có tính chất chính trị và mở các lớp học lý luận cho cán bộ, đảng viên và thu hút nhiều quần chúng, tù thường tham gia. Mục đích, tôn chỉ của Hội tù nhân được xác định ngay từ đầu có sức thuyết phục đối với quần chúng, tù thường phạm và cả những người tù thuộc các đảng phái khác. Nhiều người tù thường phạm đã được giác ngộ và được kết nạp vào Hội tù nhân. Phần lớn họ là những người lao động bị bần cùng hóa đến mức phải phạm tội. Một số khác vốn là người lao động bị bắt oan, hoặc là những nông dân đã phản kháng lại sự áp bức của bọn phong kiến, địa chủ1.

Những cuộc đấu tranh đầu tiên đòi giảm nhẹ khổ sai đã nổ ra ở khám Chỉ Tồn. Chi ủy đã thảo luận kỹ với Hội tù nhân về mức khổ sai hợp lý cho từng kíp việc rồi giao cho Ban tranh đấu chỉ đạo đấu tranh.

Ở kíp vận chuyển, bọn chúa ngục bắt 5 người phải đẩy một xe bò lớn chất đầy củi, gạch. Đường xa ba, bốn cây số mà mỗi ngày phải đi 5 chuyến. Nhiều đoạn đường dốc và cát sỏi tù nhân phải bắt bánh nhích từng bước dưới nắng rát và roi vọt. Đi chậm là đòn, thiếu chuyến là phạt hầm, xiềng. Ban lãnh đạo quyết định chỉ đạo đấu tranh đòi 7 người đi một xe, mỗi ngày chỉ đi 3 chuyến (sáng 2 chuyến, chiều một chuyến), Ban tranh đấu chịu trách nhiệm chỉ đạo các kíp tù kiên quyết đấu tranh đòi thực hiện bằng được.

Giữa năm 1934, kíp xe củi từ An Hải về Lò Than đấu tranh đòi 7 người đi một xe. Tên gác dang Luyđôvích Đờ Lít (Ludowic de Lys) và bọn ma tà vung roi đánh túi bụi. Cả kíp tù bỏ việc vây quanh xe. Chấp hành kỷ luật đấu tranh không ai rời vị trí. Giằng co hàng giờ đồng hồ, sau chúng phải chịu để 7 người đẩy một xe. Đến đoạn đường dốc bọn gác ngục đánh trả thù, cả kíp tù lại bỏ xe hô khẩu hiệu phản đối. Cuộc đấu tranh do các đồng chí trong chi ủy như Ngô Gia Tự, Trần Quang Tặng, Phạm Hùng, Lê Văn Lương… trực tiếp chỉ đạo. Lần ấy ai cũng chuẩn bị tinh thần chịu phạt hầm, xiềng nhưng không ai việc gì.

Kíp xe gạch từ Lò Gạch về nhà thương cùi (hủi) đấu tranh đòi 7 người đẩy một xe, cả kíp bị phạt xiềng trong khám 6-7. Kíp xe thóc từ cầu tàu về Banh II cũng đòi 7 người đẩy một xe. Ban lãnh đạo chỉ đạo người cầm càng, định ra từng chặng nghỉ giải lao, định tốc độ đi… sao cho vừa đúng hai chuyến là hết buổi sáng.

Cuộc đấu tranh diễn ra ngay trước mũi tên chúa đảo Buviê, bọn gác ngục đánh tù như điên như dại. Hôm ấy xếp Banh I phải dành riêng khám 10 để nhốt những người bị thương. Các cuộc đấu tranh đều được chi ủy chỉ đạo chặt chẽ, giao nhiệm vụ đến tận từng người, kiên quyết đấu tranh nhưng tuyệt đối không manh động để địch kiếm cớ đàn áp.

Trong đoàn tù Sơn La ra Côn Đảo, cuối năm 1933 có nhiều người bị tê phù và sốt rét nặng mà vẫn buộc phải đi làm khổ sai. Bọn cặp rằng lưu manh còn tác oai tác quái trong các kíp tù, hành hạ những người ốm yếu một cách tàn nhẫn vì không làm nổi việc. Có lần chúng đánh anh Tăng Văn Thiều chết ngất khiến tù nhân hết sức phẫn nộ. Ít lâu sau, tên Tư Nho lại đánh đồng chí Nguyễn Ngọc Cư trọng thương. Chi ủy quyết định trừng trị bọn cặp rằng lưu manh. Các đồng chí Ngô Gia Tự, Bảy Cùi, Phạm Hùng, Lê Văn Lương, Vũ Duy Cương… trực tiếp thực hiện quyết định này. Tên Tư Nhỏ bị đánh một trận nhừ tử.

Do tổ chức chặt chẽ và biết cách đối đáp nên không ai việc gì. Tư Nhỏ bị phạt hầm tối. Anh em cử Ngô Gia Tự làm cặp rằng khám Chỉ Tồn. Các khám khác và các sở tù cũng lần lượt lật đổ chế độ cặp rằng tay sai, bầu những cặp rằng cộng sản. Kíp Nhà bếp cử đồng chí Đào Gia Lựu làm cặp rằng lo việc cải thiện đời sống cho tù nhân.

Các cuộc đấu tranh đói giảm nhẹ khổ sai vẫn liên tiếp nổ ra. Kíp đập đá đòi giảm định mức từ 0,3 m3 xuống 0,2 mét khối. Kíp dọn tàu rất vất vả, anh em tổ chức thành 2 ca, luân phiên nhau vừa làm, vừa nghỉ. Mặc dù đã được cả gác dang và ma tà trông coi đồng ý, nhưng đến khi tên Xếp chánh Cơrítsơchiani (Cristiani) đến kiểm tra là hắn vung gậy bổ tới tấp xuống đầu những người tù đang ngồi nghỉ, bất kể đám gác ngục phân bua thế nào. Đồng chí Nguyễn Chí Diễu bị phạt 90 ngày hầm tối, còng cả hai chân và phải ăn cơm nhạt, uống nước lã 10 ngày.

Một lần tàu chở thóc ra đảo, các bao thóc trộn lẫn nhiều sỏi và đất, anh em kíp dọn tàu phát hiện và yêu cầu nhà kho không nhận. Đốc tờ Nhã, một bác sĩ có lương tâm đến kiểm tra cũng xác nhận là thóc không thể ăn được. Chúa đảo Buviê đã được chủ thầu hối lộ nên trả lời rằng từ trước đến nay vẫn như vậy. Tên chủ thầu gian giảo nói với đốc tờ Nhã: ông là người Việt Nam, tôi cũng là người Việt Nam, sao ông làm khó dễ cho tôi vậy?.

Trước mặt chúa đảo Buviê, đốc tờ Nhã đã trả lời thẳng thắn với chủ thầu: : Thế những người tù đây có phải là người Việt Nam không. Nếu ai trộn sỏi đất vào thóc như vậy cho ông ăn, ông có ăn được không? Buviê giận tái mặt, nhưng trước sự đoàn kết đấu tranh của tù nhân và thái độ cương quyết của đốc tờ Nhã, một thành viên trong Ban tiếp nhận, hắn buộc phải cho tàu chở thóc về Sài Gòn.

Đốc tờ Nhã có cảm tình đặc biệt với tù cộng sản. Thời gian làm bác sĩ ở đảo (1933-1934) ông cấp cho anh em tù nhiều thuốc bổ và thuốc bệnh. Có lúc ông ghi đơn thuốc và chế độ ăn cho tù nhân có cả tim gan lợn, rau xanh, đường sữa… và kiên quyết yêu cầu xếp banh phải thực hiện đúng chế độ đối với người bệnh. ông còn yêu cầu chúa đảo cung cấp mỗi tuần 10 kg tim gan lợn cho tù nhân đau ốm.

Kíp đốn củi, kíp kéo gỗ cũng tích cực đấu tranh đòi hạ mức khổ sai. Kíp lấy san hô đòi tự tổ chức công việc của mình. Bọn gác dang buộc phải đồng ý. Hội tù nhân vận động anh em đoàn kết tương trợ nhau, người khỏe kèm người yếu, người biết làm hướng dẫn người chưa biết làm.

Cách tổ chức của những người cộng sản đã làm cho công việc lấy san hô bớt rùng rợn hơn xưa. Ngày nào kíp san hô cũng lấy đủ số lượng trước giờ quy định, không ai bị đánh đập nữa. Thời gian chờ nước lên để vào bờ, anh em bắt cá, cua cải thiện đời sống. Tù thường phạm rất phục những người cộng sản, họ thường nói: “Xem đống san hô cộng sản làm là biết tài của cộng sản”. Không riêng kíp san hô, ở các kíp tù khổ sai khác tù thường phạm cũng phục tài tổ chức và tinh thần đấu tranh của tù cộng sản. Tù thường phạm tham gia đấu tranh ngày càng nhiều.

Tổ chức và hoạt động của tù chính trị ở Hòn Cau Ngay từ năm 1930, khi vấn đề thành lập chi bộ trong tù mới được đưa ra thảo luận thì đã có một số tù cộng sản bị đày ra Hòn Cau.

Cách thị trấn Côn Đảo 12 km về phía đông, Hòn Cau rộng 1,8 km2. Ba mặt Hòn Cau là vách đá, nơi làm tổ của loài chim yến, phía nam Hòn Cau là thung lũng đất tốt có vườn cây trái xanh tươi. Bãi cát sát mép biển viền chân thung lũng một màu trắng mịn. Đó là nơi cơ trú và sinh sôi của các loài vích và đồi mồi. Từ thuở Nguyễn Ánh ra Côn Đảo tị nạn đã có một số người dân sinh cư lập nghiệp trong thung lũng Hòn Cau.

Vùng đất ấy mang tên xóm Bà Thiết (Võ Thị Thiết), người có công đầu trong việc khai khẩn và tạo dựng. Xóm cổ còn để lại dấu vết đậm nét trên những con đường ngang dọc lát đá và giếng nước cổ xưa, trong khu vườn cây trái lâu đời gồm các loại dừa, cau, xoài, mãng cầu xanh tốt. Khi thực dân Pháp thiết lập Nhà ngục Côn Đảo thì Hòn Cau được tổ chức thành một sở tù để khai thác các nguồn lợi trên đảo này. Dân xóm Bà Thiết bị trục xuất về đất liền.

Khu trại giam Hòn Cau nằm ở trên một dải cát tương đối bằng phẳng ở nửa phía tây thung lũng. Trại giam Hòn Cau gồm 5 gian nhà lợp tranh rộng chừng 6 mét, dài khoảng 20 mét, chỉ có một cửa ra vào, xung quanh bưng kín bằng gỗ ván. Trước mặt nhà giam, chỉ cách vài thước là nhà ăn của tù nhân chạy suốt dãy nhà giam, cũng lợp tranh nhưng xung quanh để trống. Phía trước nhà ăn là một cái sân rộng. Qua sân là một vườn mãng cầu, xa hơn là bãi cát ven biển dài chừng 700 mét. Phía tây trại giam là bàn giấy của tên đội ma tà, còn phía đông trại giam là Nhà bếp, nhà kho và chuồng heo.

Hòn Cau vừa là một sở tù khổ sai, vừa là hòn đảo biệt lập để đày tù. Tuy vậy, bọn chúa ngục không có điều kiện thiết lập một chế độ đày ải quá khắc nghiệt. Buổi sáng, tên đội tập trung tù nhân trước sân để giao công việc, mấy tên ma tà trông coi tù làm và canh gác đề phòng tù trốn. Buổi tối chúng lại bắt tù tập trung trước sân để điểm danh vào khám.

Hằng tháng, thuyền ở Côn Đảo chở lương thực ra Hòn Cau rồi chở hoa quả và thực phẩm về. Mỗi khi có tù trốn, tù ốm hay hoa quả chín nhiều, tên đội lại cho đốt một, hai hoặc ba đống lửa ở mỏm đá phía tây Hòn Cau báo hiệu cho bọn gác ngục ở thị trấn Côn Đảo ra giải quyết. Đến mùa chim yến làm tổ, chúa đảo đưa một kíp tù nhân qua lấy tổ yến về nộp cho hắn.

Hòn Cau từng là nơi đày đọa nhiều thế hệ tù nhân yêu nước. Từ năm 1929, trại giam Hòn Cau có thêm những người tù chính trị cấm cố án nặng thuộc các tổ chức Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí Hội, Quốc dân đảng và một số người chống Pháp thuộc các xu hướng chính trị khác. Tù Quốc dân đảng ở Hòn Cau một số có tư tưởng chống cộng quyết liệt như Nhượng Tống, Đội Sơn, Đội Luyện…

Ngay từ khi bị giam chung ở Hỏa Lò họ đã xuyên tạc chủ nghĩa cộng sản là “tam vô” và ra tờ báo Con đường cách mạng chống lại chủ trương của những người cộng sản. Bị những người cộng sản phê phán tư tưởng tư sản lỗi thời, đường lối cách mạng không triệt để và tính chất manh động thì phái Quốc dân đảng cực đoan vô cùng căm tức, tìm mọi cơ hội trả thù. Vừa bị đày ra Hòn Cau, lợi dụng số lượng đông hơn, họ viết “tối hậu thư” buộc những người cộng sản đầu hàng (?!).

Mặc dầu lúc đầu mới có khoảng năm, sáu người, nhóm cộng sản ở Hòn Cau vẫn kiên quyết bác bỏ tối hậu thư của Quốc dân đảng. Anh em phê phán chủ nghĩa Tam Dân, tranh thủ những người yêu nước chân chính trong hàng ngũ Quốc dân đảng và nêu khẩu hiệu “Liên hiệp đấu tranh”, đòi được tự làm nhà để ở (không ở trong trại giam), đòi phải sử dụng lao động tù nhân vào những việc nhằm cải thiện đời sống người tù và đòi không được nộp thịt vích cho chúa ngục trong lúc Hòn Cau đang thiếu thực phẩm.

Những người yêu nước chân chính trong hàng ngũ Quốc dân đảng và cả những người trung lập đều ủng hộ chủ trương của tù cộng sản. Bọn cực đoan bị cô lập. Tên đội ma tà cai quản ở đây buộc phải chấp nhận các yêu sách của tù nhân. Những người tù cộng sản dựng nhà riêng ở phía đông trại giam, gần ngôi mộ bà Thiết. Tù Quốc dân đảng cũng làm nhà ra ở phía tây trại giam, còn tù thường phạm thì ở lại trong trại.

Khoảng cuối năm 1930, đồng chí Phạm Văn Đồng cùng một số tù chính trị bị đày sang Hòn Cau, “xóm cộng sản” tăng lên gần 20 người. Hầu hết những người cộng sản đều nhất trí rằng: đã là người cộng sản thì ở đâu cũng phải sinh hoạt trong một tổ chức, thống nhất với nhau về tơ tưởng, hành động và sinh hoạt. Anh em tập trung tất cả tiền và quà gia đình gửi ra để dùng chung, tổ chức trồng rau, mì (sắn) và đan lưới đánh cá cải thiện. Một số đồng chí được phân công phụ trách các công tác “ngoại giao”1, tổ chức học tập và cải thiện đời sống.

Tháng 9 năm 1931, nhiều ngồi tù chính trị cấm cố án nặng (trên 10 năm) bị đày tiếp ra Hòn Cau, đưa số tù cộng sản ở đây lên gần 30 người. Đồng chí Phạm Văn Đồng đã tổ chức một cuộc họp toàn thể anh em tù cộng sản để trao đổi tình hình và củng cố tổ chức.

Công việc khổ sai ở Hòn Cau có phần nhẹ nhàng hơn các sở tù khác. Tranh thủ được thời gian và sự dễ dãi của bọn ma tà, nhóm cộng sản tích cực tổ chức học tập. Nhiều đồng chí trước đây là thợ mỏ chưa biết chữ nào, nhờ được hướng dẫn đã đọc thông viết thạo. Người đã có học ít nhiều thì học thêm các môn văn hóa và ngoại ngữ. Mỗi môn học được hướng dẫn vài buổi mỗi tuần, còn chủ yếu là cá nhân tự học, vậy mà học được rất nhiều. Môn ngoại ngữ có người đạt được yêu cầu: đọc nói và viết. Những người giỏi ngoại ngữ tự nghiên cứu sách lý luận bằng tiếng Pháp. Đồng chí Phạm Văn Đồng lược dịch cuốn Kinh tế chính trị học của Lapiđuýt (Lapidus) rồi giảng cho anh em.

Các buổi tối, anh em cộng sản thường sinh hoạt, khi thì quây quần quanh đống lửa nhỏ để thảo luận những vấn đề chính trị, có khi là nghe giới thiệu về những tác phẩm văn học ưu tú trên thế giới hoặc nghe đồng chí Phạm Văn Đồng trình bày những bài học về Cách mạng tháng Mười (1917). Dịp kỷ niệm Cách mạng tháng Mười Nga năm 1931, những người tù cộng sản đã đưa lên “sân khấu” Hòn Cau một màn kịch tự soạn theo cuốn Mười ngày rung chuyển thế giới của Giôn Rít. Hình ảnh đất nước Lênin trong những ngày sôi sục cách mạng đã làm sống lại những bài học của cuộc Cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại, làm say mê cả người diễn và người xem.

Quá trình họe tập, sinh hoạt và thái độ đúng mực của những người cộng sản có ảnh hưởng tốt đến số đông tù nhân ở Hòn Cau. Trong nội bộ tù Việt Nam Quốc dân đảng ở đây diễn ra một sự phân hóa sâu sắc, bắt đầu từ khi cuộc khởi nghĩa Yên Bái thất bại. Việc truyền bá chủ nghĩa Mác-lênin vào Việt Nam và sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam với cương lĩnh cách mạng triệt để đã làm cho nhiều đảng viên Việt Nam Quốc dân đảng nhận rõ sự mơ hồ của chủ nghĩa Tam Dân và tính chất không triệt để trong tôn chỉ, mục đích của Quốc dân đảng. Nhiều cuộc tranh luận gay gắt đã nổ ra. Phái cực đoan đứng đầu là Đội Sơn và Nhượng Tống ra sức báo vệ chủ nghĩa quốc gia thuần túy. Phái tả đại diện là Tương Dân Bảo, Nguyễn Phương Thảo (Nguyễn Bình) đã nghiêng hẳn về phía chủ nghĩa cộng sản. Phái giữa mà đại diện là Phạm Tuấn Tài, Trần Huy Liệu thì say mê lý tương của chủ nghĩa cộng sản nhưng lại không nỡ để cho Quốc dân đảng chết. Họ muốn dung hòa các chủ nghĩa để đem lại một chủ nghĩa mới cho Việt Nam Quốc dân đảng.

Những xung đột về tư tưởng diễn ra dưới mọi hình thức trong nội bộ Việt Nam Quốc dân đảng ở Hòn Cau dã dẫn đến một vài cuộc ẩu đả lẫn nhau. Phạm Tuấn Tài, một sáng lập viên của Việt Nam Quốc dân đảng phải dứng ra dàn xếp. Một tiểu ban giải thích chủ nghĩa của Quốc dân đảng được thành lập và đưa ra lời giải thích: “Trước làm cách mạng dân tộc, sau làm cách mạng thế giới có nghĩa là trừ bỏ những áp bức về chính trị, kinh tế và xã hội (cách mạng) để mưu hạnh phúc cho người Việt Nam (cách mạng dân tộc) và người thế giới (cách mạng thế giới)2.

Bản giải thích này không thuyết phục được ai. Các cuộc xung đột nội bộ vẫn tiếp tục xảy ra. Một số lãnh tụ Quốc dân đảng chủ trương giải quyết mâu thuẫn trên bằng cách tổ chức vượt ngục về đất liền để cải tổ Việt Nam Quốc dân đảng, đổi tên và xây dựng chủ nghĩa mới cho đảng. Cuộc vượt ngục được khởi sự vào đầu năm 1932, cuối mùa gió chướng3. Gió đã yếu và thổi không đều nên bè quanh quẩn ở Hòn Cau, không thoát đi được. Sáng ra bọn gác ngục ở Hòn Cau phát hiện và nổi hiệu lửa cho canô ở Côn Đảo ra bắt lại. Những người cộng sản chưa kịp tổ chức vượt ngục cũng bị đưa về Banh II, chỉ có vài người tù cũ được để lại trông coi vườn cây trái.

Tổ chức và hoạt dộng của tù chính trị Banh II

Banh II được cấu trúc một kiểu như Banh I nhưng được dành riêng để đày ải tù chính trị với chế độ khác biệt hẳn. Tù nhân Banh II bị cấm cố trong khám, mỗi ngày chỉ được ra ngoài hai lần, mỗi lần chưa đến mười phút để nuốt vội miếng cơm hẩm đầy sạn và thóc. Vào cấm cố vài tháng là ghẻ lở đầy người, mòn mỏi đi vì thiếu ánh sáng, khí trời và dinh dưỡng. Thêm vào đó là chế độ ăn uống tồi tệ, nhiều người bị kiết lỵ nặng rồi chết. Năm 1931, Banh II có hơn 300 tù chính trị thì có 30 người chết vì bệnh tật. Tháng 3 năm 1932, Thanh tra thuộc địa ra Côn Đảo đã nhận xét: “Chế độ phát lưu (déportation) hiểu và thực hiện như thế này thì nặng hơn chế độ khổ sai”.

Đáng lẽ người bị án phát lưu được sinh sống tự do như dân thường trên đảo, được giúp đỡ làm nhà riêng, được đưa vợ con ra nếu muốn, được tự do mua sách báo, học tập và nghiên cứu, biên soạn chỉ trừ việc xuất bản phổ biến và đi ra khỏi đảo1. Thế nhưng bất chấp cả luật pháp, bọn thực dân đã thi hành một chính sách đày đọa độc tài và phát xít. Mỗi lần tù nhân đấu tranh đòi quyền lợi của tù chính trị thì bọn chúng đều trả lời thẳng thừng: Không xử tử được tụi bay thì chúng tao phải làm cho tụi bay mục xương trong tù. Nếu như bọn chúa ngục giết tù nhân Banh I bằng khổ sai thì chúng giết tù Banh II bằng cấm cố.

Banh II từ đầu năm 1930 là nơi tập trung nhiều tù chính trị thuộc các tổ chức cách mạng như Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí Hội, Tân Việt cách mạng đảng, Việt Nam Quốc dân đảng, Đảng cộng sản và các tổ chức quần chúng nói trên; có cả một số người yêu nước dưới ảnh hưởng của Nguyễn An Ninh. Nếu như yêu cầu cấp bách đối với Banh I là phải đấu tranh chống chế độ khổ sai giết tù thì yêu cầu khách quan đặt ra cho những người cộng sản ở Banh II là đoàn kết các xu hướng chính trị, đấu tranh đòi cải thiện đời sống, đòi thực hiện chế độ tù chính trị, bảo vệ sinh mạng cán bộ, và tổ chức học tập văn hóa, lý luận, đào tạo rèn luyện cán bộ cho Đảng.

Cuộc thảo luận về vấn dề thành lập chi bộ cộng sản ở Banh II chưa đi đến nhất trí, tù chính trị Banh II tổ chức Ban lãnh đạo dưới hình thức Ban trật tự ở các khám và Ban trật tự chung toàn Banh II. Người trong các ban đó do tù chính trị cứ ra và đấu tranh buộc xếp banh công nhận. Ban trật tự điều khiển toàn bộ hoạt động của tù nhân và giao dịch với xếp banh, gác ngục. Ban lãnh đạo chăm lo công tác cứu tế tù nhân, chăm sóc những người tù đau yếu, bệnh tật… lúc này không ít người tù chưa tin rằng ở Côn Đảo có thể tổ chức và đấu tranh thắng lợi được. Ban lãnh đạo chủ trương đưa khẩu hiệu đấu tranh từ thấp đến cao, kiên trì đấu tranh, giành kết quả thiết thực ban đầu.

Sau trận bão cuối năm 1930, Banh II mới được lợp tạm bằng tranh sơ sài, mưa dột nước ngập trong khám. Ban lãnh đạo yêu cầu lợp lại, xếp banh đồng ý cho đưa tranh tre vào, bắt tù Banh II lợp. Năm sau vẫn dột, chúng cho đưa ngói vào thay. Ban lãnh đạo tiếp tục yêu cầu cho tù được ra sân chơi, được nạo vét giếng, được tự nấu ăn, được trồng rau cải thiện, được nhận thư từ, sách báo…

Những yêu sách như vậy còn thấp hơn nhiều so với chế độ tù chính trị mà luật pháp thực dân đã ghi nhận, nhưng mỗi lần đưa kiến nghị là đại biểu tù nhân bị phạt xà lim, lại phải đấu tranh tập thể, bãi thực, hò la phản đối.

Chuyến tù từ Hòn Cau về đầu năm 1932 và các chuyến tù chính trị ở Khám Lớn (Sài Gòn), Sơn La, Hỏa Lò (Hà Hội) liên tiếp ra Côn Đảo trong những năm 1932-1933 đã đưa vào Banh II nhiều đồng chí có trình độ lý luận. Ban lãnh đạo ở các khám và Ban lãnh đạo chung được củng cố, các đồng chí Phạm Hữu Lầu, Lương Khánh Thiện, Nguyễn Văn Cừ, Hoàng Quốc Việt, Phạm Văn Đồng… đã có nhiều đóng góp trong quá trình tổ chức và lãnh đạo tù nhân Banh II.

Sau nhiều lần đấu tranh, bọn cầm quyền ở Côn Đảo buộc phải để cho tù nhân được tổ chức các hoạt động văn hóa, văn nghệ và học tập chính trị, lý luận. Công tác văn hóa, nghệ thuật trong tù vừa là một nhu cầu thưởng thức nghệ thuật, làm phấn chấn tinh thần, vừa có tác dụng giáo dục tốt, giúp cho người tù sống qua những ngày đen tối, đơn điệu và nặng nề trong ngục thất.

Tù chính trị Banh II đã biên soạn và trình diễn các vở kịch Trưng Nữ Vương, Quang Trung, Đề Thám… để giáo dục truyền thống yêu nước chống ngoại xâm của dân tộc. Tết âm lịch năm 1933, tù chính trị Banh II diễn vở Người bệnh tưởng của Môlie (Molière), tạo được không khí vui tươi, phấn khởi. Anh em tù chính trị Quốc dân đảng cũng đóng góp tích cực vào việc dàn dựng và thưởng thức.

Tết năm 1933 “gánh hát” của Nguyễn Văn Nguyễn ở Sở rẫy An Hải đã trình diễn vở Tứ đổ tường phê phán các tật xấu của xã hội như uống rượu, trai gái, đánh bạc, hút thuốc phiện. Vở tuồng được chuyển thể thành cải lương hợp với thị hiếu nghệ thuật của đồng bào miền Nam, khăng định những tội lỗi xấu xa đó là do xã hội đương thời đẻ ra. Vở hát có tác dụng giáo dục con người và tố cáo xã hội cũ sâu sắc, được đông đảo tù thường và ma tà cùng vợ con họ hoan nghênh ‘ nhiệt liệt. Từ đó, cứ gặp tù cộng sản là họ đề nghị cho xem hát và tỏ ý sẵn sàng giúp mọi phương tiện để diễn kịch.

Tù chính trị Banh II có trong tay nhiều tác phẩm có giá trị của các nhà văn cổ điển Pháp. Những người tù có chung một mối đồng cảm nghệ thuật cùng nhau nghiên cứu và thảo luận những tinh hoa văn hóa của nhân loại. Nhiều đảng viên Quốc dân đảng đã sốt sắng tham gia với anh em cộng sản để đọc, dịch, dàn dựng, biểu diễn và thưởng thức các vở kịch của Môlie và kịch cổ điển Pháp. Nhiều người từng bi quan, bế tắc đã tìm thấy ý nghĩa mới của những ngày tháng ở tù. Họ bắt đầu say mê học tập, nghiên cứu, sống lạc quan, sống có ý nghĩa..

Cuốn sách “Mười ngày rung chuyển thế giới” của nhà văn tiến bộ Mỹ Giôn Rít viết về cuộc Cách mạng tháng Mười Nga được tù chính trị Banh II dịch và chuyền tay nhau đọc. Một số đồng chí được phân công chuyên dịch các tác phẩm: “Xi măng của Gơlátcốp (Gladkov), “Suốt Thép của Xêraphimôvích (Séraflmovitch), giới thiệu về những thành tựu của nền văn học Xô viết và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô.

Các vở kịch lúc đầu được biểu diễn bí mật trong các khám. Một số gác dang biết và tò mò đứng xem. Nhiều người làm gác dang ở nhà ngục này hàng chục năm, đến nay mới được tiếp xúc với văn hóa, nghệ thuật. Lần đầu tiên họ được xem những vở hài kịch của Môlie và những vở kịch cổ điển khác do chính những người tù diễn bằng tiếng Pháp. Họ đề nghị tù chính trị đưa ra diễn công khai ớ sân Banh II cho tất cả cùng xem. Được xếp banh đồng ý, anh em tù chính trị đã trình diễn công khai những vở kịch có giá trị của văn học Pháp.

Có những vở kịch được dàn dựng công phu, với trang phục đúng kiểu phương Tây thế kỷ XVII, từ quần áo mùa đông, giày mũ, râu tóc cho đến súng ống, kèn đồng… Nguyên liệu chủ yếu là những mảnh bao bố mà anh em Nhà bếp lén đem cho, được những bàn tay người tù cắt may thành y phục, phông màn lộng lẫy. Người thợ may Phương Hải, nhạc sĩ Đinh Nhu và gần chục thợ mộc, thợ giày, họa sĩ sốt sắng chuẩn bị suốt đêm ngày. Có đến cả trăm tù nhân tham gia vào một vở kịch từ khi luyện tập cho đến lúc biểu diễn. Nhiều người không được sắm vai cũng xin được đóng góp vào việc dựng sân khấu, kéo phông màn…

Gác ngục Pháp đưa cả vợ con vào xem rất đông. Họ trầm trồ khen các vai hóa trang rất giống, giọng Tây, giọng đầm rất đạt, biểu hiện tinh tế được cả tiếng địa phương nhiều vùng nước Pháp. Các vở kịch không chỉ thành công trong lĩnh vực nghệ thuật mà còn là một thắng lợi về mặt ngoại giao. Nhiều gác ngục Pháp tỏ thái độ kính nể những người tù cộng sản có văn hóa, có nhân cách và hiểu biết sâu rộng. Họ bớt đánh tù và xưng hô cũng bớt phần thô tục. Có gác ngục Pháp đã phát biểu với tù cộng sản: “Bây giờ chúng tôi với hiểu các anh là những người tài giỏi và không có đầu óc dị chủng”. Hoạt động văn hóa nghệ thuật đã góp phần cảm hóa, tranh thủ nhiều gác dang, ma tà, tạo điều kiện thuận lợi cho những cuộc đấu tranh quyết liệt sắp tới.

Phối hợp với phong trào đấu tranh trong nước và quốc tế

Trong thời gian này nhiều cơ sở Đảng trong nước đã được phục hồi. Đảng ta tích cực lãnh dạo cuộc đấu tranh chống khủng bố trắng của thực dân Pháp. Báo chí bí mật và truyền đơn của Đảng kịch liệt lên án chính sách khủng bố dã man của thực dân Pháp và hiệu triệu quần chúng đấu tranh đòi chấm dứt khủng bố, đòi ân xá toàn bộ tù chính trị và xóa bỏ các tòa án quân phiệt ở Đông Dương.

Phong trào đấu tranh ở trong nước cũng bắt đầu khôi phục. Trong hai năm 1933 và 1934 đã có 76 cuộc đấu tranh của công nhân và nông dân. Quốc tế cộng sản trong những năm 1930-1935 đã động viên tất cả các Đảng cộng sản ở Tây Âu lúc đó, và đặc biệt lưu ý Đảng cộng sản Pháp, tìm mọi cách giúp đỡ cách mạng Đông Dương trong lúc gặp khó khăn. Quốc tế cộng sản đã trực tiếp chỉ đạo việc thành lập ủy ban bảo vệ cách mạng Dông Dương (Le Commité de défense de l’indochine) do các nhà trí thức nổi tiếng đứng đầu như Pôn Lănggiơvanh (Paul Langevin), Hăng ri Bác buýt (Hen ri Barbusse), Rômanh Rôlăng (Romain Ronand)…

Ủy ban đã tổ chức quyên góp tiền, tổ chức hội chợ bán các mặt hàng tiêu dùng và mỹ nghệ đê lấy tiền gửi cho tù chính trị ở Côn Đảo và Đông Dương. Các đồng chí lãnh đạo các Đảng cộng sản mỗi lần đến làm việc ở cơ quan Quốc tế cộng sản đều được thông báo tình hình khủng bố trắng của thực dân Pháp, nhận sự chỉ đạo của Quốc tế cộng sản về vấn đề bảo vệ cách mạng Đông Dương. Quốc tế cứu tế đo (S.R.I: Secours Rouge Intemational) dưới sự chỉ đạo của Quốc tế cộng sản đã vận động các luật sư nổi tiếng biện hộ cho mững người cộng sản Việt Nam tại các phiên tòa đại hình ở Đông Dương.

Với tinh thần quốc tế vô sản cao cả, Đảng cộng sản Pháp đã quan tâm đặc biệt đến tình hình cách mạng đông Dương. Tại Đại hội toàn thể lần thứ 11 của Ban Chấp hành Quốc tế cộng sản (1931), đại biểu của Đảng cộng sản Pháp đã nghiêm khắc tự phê bình những thiếu sót của Đảng trong việc ủng hộ cách mạng Đông Dương và có thái độ kiên quyết sứa chữa.

Từ năm 1931 đến năm 1933, đồng chí Trê (Maurice Thorez) đã đọc nhiều bản báo cáo nổi tiếng tại Quốc hội Pháp lên án những hành động tàn ác, dã man của chính quyền thực dân đối với cách mạng Đông Dương và đòi ân xá toàn thể tù chính trị. Theo sáng kiến của Đảng cộng sản Pháp, một ủy ban đòi ân xá chính trị phạm Đông Dương được thành lập ở Paris ngày 9-3-1933 gồm những nhà hoạt động văn hóa xã hội nổi tiếng ở Pháp như Phơranxi Giuốcđanh, Hăng ri Bác buýt, Rômanh Rôlăng, ăngđơrê Viôlít (Andrée vionis), San lây Be (Chaney Bert)… do Pôn Lănggiơvanh đứng đầu. Ngày.5-7-1933, Uy ban đã gửi thư cho Bộ trưởng Bộ thuộc địa Pháp phản đối bản án xử ngày 7-5-1933 tại phiên tòa đại hình đặc biệt ở Sài Gòn và việc đày 89 tù nhân đi Côn Đảo.

Do phong trào đấu tranh chống khủng bố cách mạng Đông Dương đang dâng cao ở Pháp, Chính phủ Pháp phải cử Pôn Rây nô (Paul Reynaud) sang kinh lý Đông Dương cuối năm 1931. Được Đảng cộng sản Pháp vận động, nữ văn sĩ Ăngđơrê Viôlít đã đi cùng đoàn điều tra sang Đông Dương.

Những điều tai nghe mắt thấy trong chuyến đi đã giúp bà viết thiên phóng sự Dông Dương kêu cứu (L’indochine S.O.S) làm chấn động dư luận tiến bộ ở Pháp và toàn thế giới lúc đó. Đảng cộng sản Pháp đã cử các đồng chí Vayăng Cutuyriê (Vailant Couturier), Gabơnen Pê ri (Gabriel Péri), nghị sĩ cộng sản cùng một số nhà báo tiến bộ sang điều tra tình hình Đông Dương.

Đầu năm 1934, phái đoàn Cứu tế đỏ do Gabơrien Pê ri dẫn đầu đã sang Đông Dương. Mặc dù chính quyền thực dân tìm mòi cách ngăn trở, phái đoàn vẫn nắm được tình hình và đề ra nhiều yêu sách cấp thiết đòi cải thiện điều kiện sinh hoạt của chính trị phạm trong các nhà tù ở Đông Dương, nhất là ở Côn Đảo. Phái đoàn còn đòi Chính phủ thuộc địa phải toàn xá tù chính trị và giải quyết các yêu sách của công nhân, nông dân và nhân dân lao động Đông Dương.

Sau khi về nước, đoàn đã tổ chức nhiều cuộc họp báo cáo tình hình ở Đông Dương trước quần chúng nhân dân Pháp. Trong gần một năm, Đảng cộng sản Pháp đã tổ chức 98 cuộc mít tinh, mở một chiến dịch khắp nước Pháp vận động đòi toàn xá chính trị phạm ở Đông Dương, trong đó có nhiều nhà hoạt động xã hội có danh tiếng như Hăng ri Bác buýt, Rômanh Rôlăng, Pôn Ănggiơvanh…

Những tin tức về phong trào đấu tranh của tù nhân Côn Đảo đăng trên báo chí công khai lúc đó được Đảng cộng sản Pháp đưa ra chất vấn ngay tại nghị viện làm cho chính quyền thực dân vô cùng lúng túng. Sự quan tâm sâu sắc của Quốc tế cộng sản, sự ủng hộ chứa chan tinh thần quốc tế vô sản của Đảng cộng sản và nhân dân tiến bộ Pháp là niềm cổ vũ lớn lao đối với cuộc đấu tranh của nhân dân ta và của toàn thể tù chính trị ở Đông Dương.

Bị vạch mặt trước dư luận, chính quyền thực dân Đông Dương phải cử thanh tra ra đảo nghiên cứu biện pháp đối phó. Đại biểu tù nhân đã nhiều lần gửi kiến nghị cho Thanh tra thuộc địa và Toàn quyền Đông Dương yêu cầu cải thiện chế độ nhà tù; không được đánh đập, ngược đãi tù nhân; giảm nhẹ mức khổ sai và thực hiện chế độ tù chính trị.

Tháng 8 năm 1934, nhân một bữa bọn chúa ngục cho tù nhân ăn cá khô hấp chưa chín, dòi bò lổm ngổm trong khay cá, tù chính trị Banh II đã tuyệt thực để phản đối, khẩu hiệu đấu tranh là:

– Không ăn khô mục.

– Để tù Banh II tự nấu cơm, nấu nước.

– Tù nhân được ra sân chơi 2 giờ một ngày, được tắm 2 lần một tuần.

– Tù nhân được tự do gửi và nhận thư từ, bưu kiện.

Banh I cũng phối hợp đấu tranh, tuyệt thực một ngày. Nhiều bản yêu sách của Banh I và các sở tù được gửi lên Quản đốc đòi:

– Không được cho tù ăn khô mục. Bữa ăn phải có rau xanh.

– Mỗi tuần được 2 lần ăn thịt.

– Giảm nhẹ khổ sai.

– Ốm đau được nghỉ và cho thuốc đúng bệnh.

– Không được đánh đập, ngược đãi tù nhân.

Cuộc tuyệt thực của tù chính trị Côn Đảo kéo dài 8 ngày. Thống đốc Nam Kỳ Pagie (Pagès) phải tức tốc đáp thủy phi cơ ra đảo. Nhận được điện báo trước, Quản đốc Buviê lập tức ra lệnh phát lương thực thêm cho tù nhân; cho giấu biệt tất cả roi mây, hèo gậy xuống cống rãnh; cho quét vôi tường Nhà Thương và đưa ngay 35 bệnh nhân bị sốt rét vàng vọt và gãy chân, gãy tay vì khổ sai giấu kín trong khám 6 Banh I.

Tên thày thuốc Châu đón tiếp Pagie tại Nhà Thương bằng một bài diễn văn đọc thuộc lòng: “Bệnh nhân không đông, bệnh nhân được chăm sóc tốt, bệnh nhân được ăn thịt, uống sữa…”. Pagie đến Banh I đúng lúc tù nhân đang xếp hàng ăn cơm trưa. Đồng chí Phạm Hùng lập tức bước ra tố cáo chế độ nhà ngục và đòi cải thiện đời sống tù nhân. Quản đốc Buviê tức điên người. Phải lúc khác thì hắn đã đánh tơi bời trả thù bằng những hình phạt nặng nhất.

Pagie còn được hướng dẫn thăm Nhà bếp, Banh II, Nhà Đèn, Chuồng Bò và một số nơi trên đảo. Thống đốc Nam Kỳ đi đến đâu cũng bị tù nhân ra tố cáo. Đống hèo gậy mà bọn gác dang đã giấu kỹ dưới cống ngầm cũng bị tù nhân lôi ra làm Buviê hết đường chối cãi. Đã đến lúc không thể bưng bít được những tội ác ở nhà ngục Côn Đao, trước xu thế cách mạng đang dâng lên ở Đông Dương và ở Pháp. Thống đốc Nam Kỳ phải giải quyết nhiều yêu sách cho tù nhân. Mỗi tuần tù nhân được ăn hai bữa thịt, mỗi bữa 50 gam; tù chính trị ở Banh II mỗi ngày được ra sân chơi 6 tiếng đồng hồ ; tù nhân được nhận thư và bưu kiện của gia đình.

Tù chính trị Banh II được tự nấu ăn, được dọn vệ sinh, được trồng rau cải thiện, được đọc sách và nhận sách. Ngoài việc làm bếp và dọn vệ sinh, tù Banh II còn được ra làm các việc nhẹ nhàng trong sân trại giam như đập đá dăm, may quần áo.

Thoát khỏi chế độ cấm cố, làm việc được tự do hưởng ánh nắng và khí trời, sức khỏe của tù nhân khá hẳn lên. Ban trật tự sắp xếp mọi người vào các công việc phù hợp với sức khỏe. Ra làm việc được lãnh tiền công để góp quỹ cứu tế và mua sách vở học tập, lại có điều kiện liên hệ chặt chẽ với Banh I.

Việc tiếp nhận sách báo, tin tức và học tập văn hóa, nghiên cứu lý luận được đẩy mạnh hơn trước. Ban đời sống tích cực chỉ đạo việc cải thiện đời sống cho tù nhân. Kíp làm bếp đã tổ chức làm cối giã gạo, bảo quản thực phẩm, nấu ăn vệ sinh, trồng rau, nuôi gà, vịt…

Đời sống của tù nhân khá hơn rõ rệt. Chế độ khổ sai cũng bớt phần hà khắc. Nhiều yêu sách đòi giảm nhẹ mức khổ sai của Banh và các sở tù được mặc nhiên thừa nhận. Sự đoàn kết đấu tranh của tù nhân Côn Đảo dưới sự lãnh đạo của các tổ chức cộng sản trong những năm 1930-1934 đã tạo thành sức mạnh to lớn, hòa nhịp với phong trào cách mạng ở trong nước và trên thế giới ngăn chặn bàn tay khủng bố của kẻ thù. Tỷ lệ tù nhân chết giảm xuống 3% năm 1934 và 1,7% năm 1935.

Khi những người cộng sản nên khẩu hiệu “Một tuần được ăn thịt hai lần” thì những người tù thường phạm hầu như không tin rằng có thể đấu tranh được. Có tên ma tà đã tuyên bố thẳng: “Nhà tao đã ba đời làm gác ngục ở đây mà chưa bao giờ thấy tù được quá 2 lần trong một năm. Chúng này có mà đòi ngôi sao trên trời”.

Phải đến khi các yêu sách được giải quyết thì tù thường phạm mới thật sự tin tưởng và kính phục những người cộng sản. Tuy vậy, bọn chúa ngục Côn Đảo vẫn tìm mọi cách để cúp phạt, bớt xén từng gam thịt, từng lạng gạo, tăng thêm định mức lao động khổ sai… Tù nhân lại phải tố cáo và đấu tranh đòi lại.

Hơn bất cứ nơi nào, những người cộng sản ở Côn Đảo thấm thía một chân lý: Muốn sống phải tranh đấu. Thắng lợi giành được trong những năm 1930-1934 đã tạo điều kiện cho bước phát triển mới của phong trào đấu tranh ở Côn Đảo trong những năm sắp tới.

Trường học chủ nghĩa cộng sản và đấu tranh cách mạng

Học tập và vươn lên là truyền thống của những người cộng sản. Tù chính trị ở Banh II không phải đi làm khổ sai nên anh em sớm có điều kiện tổ chức học tập Từ năm 1931, bằng trí nhớ của mình, đồng chí Nguyễn Văn Cừ đã chép lại bản Luận cương chính trị (10-1930) của Đảng ta để huấn luyện cho anh em.

Mùa hè năm 1932, nhóm tù cộng sản ở Hòn Cau bị đưa về banh II, tiếp tục duy trì việc học văn hóa và nghiên cứu lý luận. Năm 1933, các chuyến tù ở Khám Lớn (Sài Gòn) và Sơn La, Hỏa Lò (Hà Nội) đã đưa ra Côn Đảo nhiều cán bộ có trình độ lý luận. Trên cơ sở những thắng lợi giành được trong các cuộc đấu tranh, Ban lãnh đạo Banh II chủ trương biến nhà tù đế quốc thành trường học cách mạng.

Nhờ sự giúp đỡ của binh lính, thủy thủ và những công chức tiến bộ ở Bưu Điện, Nhà Thương, Nhà Đèn, những người tù cộng sản ở Côn Đảo đã mua được nhiều tác phẩm lý luận như Tuyên ngôn của Dảng cộng sản, Chống Đuy rinh, nhiều tập của bộ Tư bản của Mác và Ăng ghen, cùng những tác phẩm của Lênin được Nhà xuất bản Xã hội của Đảng cộng sản Pháp xuất bản lúc đó.

Sách báo được những người tù khổ sai Banh I bí mật tiếp nhận rồi chuyển vào Banh II qua những cơ sở ở Nhà bếp, Sở tẩy và những ma tà có cảm tình. Khi bọn thực dân buộc phải công nhận cho tù chính trị được đọc sách và nhận sách thì gia đình và các đồng chí trong đất hến cũng gửi ra nhiều sách, báo, làm phong phú thêm “tủ sách” của tù chính trị Côn Đảo.

Ban lãnh đạo Banh II tổ chức đóng lại bìa sách và chép ra thành nhiều bản để sử dụng, còn bản gốc được bảo quản rất kỹ trong các “tủ sách” bí mật trong khám. Ban lãnh đạo tổ chức tóm tắt, lược dịch nhiều tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác như: Tuyên ngôn của Đảng cộng sản, Tư bản, Chống Đuy rinh, Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệt phê phán, Làm gì, Bệnh ấu trĩ tả khuynh trong phong trào cộng sản, Hai sách lược của Đảng xã hội dân chủ, Nguyên lý của chủ nghĩa Lênin, Những vấn đề của chủ nghĩa Lênin, v. v…

Các cuốn sách Những vấn đề cơ bản của chủ nghĩa Mác của Pơlêkhanốp, Kinh tế chính trị học của Lapiđuýt cũng được dịch ra và biên soạn thành chương trình học tập cho các đối tượng có trình độ khác nhau. Ban lãnh đạo còn tổ chức một bộ phận chuyên sao các tài liệu ra nhiều bản để phục vụ các lớp học và gửi cho chi bộ Banh I, gửi về đất liền.

Lớp học chính trị nghiên cứu Chính cương, Sách lược vắn tắt và Luận cương chính trị của Đảng ta. Các vấn đề cơ bản như Yêu cầu khách quan của xã hội Việt Nam, tính chất và nhiệm vụ cách mạng, động lực chủ yếu của cách mạng và sách lược đấu tranh được tù chính trị dành nhiều thời gian thảo luận. Đồng chí Ngô Gia Tự lúc còn ở Banh II đã góp nhiều ý kiến, bàn sâu thêm những vấn đề trong bản Luận cương chính trị về việc đánh giá vai trò của giai cấp tư sản và giai cấp địa chủ ở nước ta, về sách lược phân hóa kẻ thù, tranh thủ bạn đồng minh, dù chi là tạm thời và cô lập kẻ thù nguy hiểm trước mắt.

Hai lớp triết học và kinh tế chính trị học chương trình B (trung cấp) thu hút đông đảo cán bộ đảng viên ở Banh II. Một số đồng chí có trình độ lý luận, đã qua các lớp huấn luyện của đồng chí Nguyễn Ái Quốc ở Quảng Châu hoặc tốt nghiệp Đại học Phương Đông ở Liên Xô về được chỉ định làm giảng viên. Từng bài học đều được giảng viên nghiên cứu kỹ rồi trình bày trước lớp. Các đề mục và nội dung chính được viết trên nề khám bằng những mẩu san hô hoặc gạch non.

Sau mỗi bài giảng, anh em lại thảo luận sôi nổi trong từng nhóm và thảo luận chung trong lớp. Những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản khoa học đã soi sáng con đường cách mạng Việt Nam và củng cố niềm tin vững chắc vào sự nghiệp giải phóng dân tộc cho những người cộng sản.

Người tù án 5 năm, 10 năm tin có ngày về ráng học để phục vụ cách mạng. Người tù án chung thân lưu đày cũng tin tưởng vào sự thành công cửa cách mạng mà học tập. Ngay cả những người không nghĩ đến ngày về cũng say mê học tập để hiểu thêm lẽ sống, để sống lạc quan, thêm sức mạnh đấu tranh với quân thù.

Lớp A (chương trình cao cấp) dành cho các đồng chí có trình độ văn hóa, lý luận và ngoại ngữ, trong đó có các đồng chí Nguyễn Văn Cừ, Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng… Lớp học này không có giảng viên, mọi người cùng nhau nghiên cứu các tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin. Mỗi đồng chí đọc kỹ một tác phẩm rồi trình bày nội dung chủ yếu cho anh em nghe, sau đó mới trình bày kỹ từng chương, từng đoạn, giải nghĩa từng câu, từng ý, trên cơ sở đó mà thảo luận. Những vấn đề về bạo lực cách mạng và chuyên chính vô sản được thảo luận rất sôi nổi. Mỗi bài học còn được liên hệ với quá trình vận động cách mạng ở Việt Nam và rút ra những kinh nghiệm bổ ích.

Nội dung chương trình học tập và những vấn đề lý luận cơ bản được phản ánh trên tạp chí ý hiến chung xuất bản hàng tháng ở khám 3. Báo được viết trên giấy học trò khổ 13×19 cm, môi số đều có phần tin tức, bình luận, xã hội và nghiên cứu lý luận. Báo được bí mật chuyền tay dưới dạng những bức thư gửi cho nhau để phục vụ việc học tập và nghiên cứu lý luận.

Khám 5 ra tờ báo Người tù đỏ có tính chất phổ cập, khổ 9 x 13 cm. Báo ra hàng tuần, đưa tin tức tình hình, phát động đấu tranh và giáo dục chủ nghĩa Mác – Lênin dưới dạng những câu hỏi và trả lời. Đồng chí Nguyễn Văn Cừ vừa là chủ bút, vừa là cây bút chính của tờ báo. Đồng chí còn là cây bút lý luận sắc sảo, thường xuyên viết cho báo ý kiến chung. Tù chính trị ở Banh I và Banh II đều tích cực viết báo. Báo Người tù đỏ phù hợp với trình độ của nhiều người nên nhận được khá nhiều bài.

Sách báo thường được giấu trên mái nhà. Buổi tối, anh em công kênh nhau leo lên đưa sách xuống đọc dưới ngọn đèn nhỏ được che chụp kín trong góc khám. Sách báo ngày càng nhiều và có những cuốn sách kinh điển rất dày không thể giấu trên mái nhà được nữa, Ban lãnh đạo tổ chức đào hầm bí mật trên đầu tường và trong góc khám để giấu, gọi là CQBM (cơ quan bí mật). Mỗi lần đưa sách ra đọc là phải bố trí bảo vệ chặt chẽ, đề phòng bọn gác dang đi tuần và những kẻ xấu phát hiện. Cũng có lần bọn gác dang ập vào khám xét bất ngờ, tịch thu nhiều sách, báo, tài liệu. Mãi đến cuối năm 1934 bọn thực dân mới thừa nhận chế độ tù chính trị và cho tù nhân đọc sách, nhưng không cho đọc báo, sau này mới cho đọc trong một thời gian.

Tù chính trì ở Banh II còn thảo luận nhiều vấn đề thuộc các lĩnh vực chính trị, kinh tế, triết học, lịch sử, thời sự và văn học nghệ thuật. Cuối năm 1933 có cuộc thảo luận về vụ án Đimitơrốp (Dimitrov). Những người cộng sản Việt Nam trong nhà ngục Côn Đảo vô cùng phẫn nộ trước hành động cơ hội thỏa hiệp của Quốc tế II và lo lắng cho phong trào cộng sản Đức.

Thái độ hiên ngang và bản cáo trạng đanh thép mà Đimitơrốp đẽ kết tội bọn phát xít trước tòa án Lai xích (Leipzig) là niềm cổ vũ lớn đối với những người cộng sản Việt Nam, đồng thời củng cố thêm lòng tin vào sự tất thắng của chủ nghĩa cộng sản.

Năm 1934, có cuộc tranh luận vấn đề Liên Xô vào Hội quốc liên (tiền thân Liên hợp quốc). Lúc đầu có ý kiến cho rằng Liên Xô và Hội quốc liên sẽ bị thiểu số, rằng Lênin khi còn sống đã từng vạch mặt Hội quốc liên… song nhiều ý kiến khác phân tích tình hình lúc này chủ nghĩa đế quốc đã đi vào con đường phát xít hóa, mâu thuẫn nội bộ chúng tăng lên, vì vậy cần phải lợi dụng diễn đàn này để tuyên truyền chính nghĩa, cô lập bọn hiếu chiến, lập mặt trận rộng rãi đấu tranh cho hòa bình, chống chiến tranh và bảo vệ các nước nhỏ yếu.

Cuộc tranh luận sôi nổi và kéo dài, sau cùng hầu hết đều tán thành việc Liên Xô vào Hội quốc liên. Các vấn đề chính trị, triết học được thảo luận hằng ngày, vấn đề gì chưa hiểu rõ thì dừng lại đọc thêm tài liệu và nghiên cứu sách kinh điển của chủ nghĩa Mác, cố gắng nắm bản chất của vấn đề rồi liên hệ với tình hình thế giới, liên hệ với truyền thống dân tộc Việt Nam và rút ra những bài học kinh nghiệm.

Những vấn đề lý luận được anh em để nhiều thì giờ tranh luận. Đồng chí Nguyễn Văn Cừ và đồng chí Lê Duẩn thường có những ý kiến phân tích sâu và xác đáng, có sức thuyết phục đối với anh em. Đồng chí Mười Cúc (Nguyễn Văn Linh) cũng là một tấm gương tiêu biểu về tinh thần học tập, phấn đấu vươn lên của tù chính trị ở Côn Đảo. Khi vào tù, đồng chí mới 16 tuổi, nhờ say mê học tập, trong vòng ba tháng, đồng chí đã tham gia dịch thuật các tác phẩm lý luận dưới sự hướng dẫn của các đồng chí Phạm Văn Đồng, Nguyễn Kim Cương. Nhiều đồng chí đã trưởng thành về lý luận Mác – Lênin ngay trong nhà tù đế quốc và sau này trở thành những người lãnh đạo xuất sắc của Đảng ta.

Ban lãnh đạo Banh II còn tổ chức học tập các môn văn hóa như: lịch sử, địa lý, văn hóa nghệ thuật và ngoại ngữ (tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Trung Quốc). Giờ tắm nắng, tù chính trị đem tấm bản đồ thế giới vẽ to bằng chiếc chiếu treo trên gốc cây bàng, rồi ngồi quây quanh nghe các “giáo sư” giảng giải.

Bài học về đất nước Liên Xô và Cách mạng tháng Mười được giảng viên trình bày rất kỹ và được học viên tiếp thu một cách hào hứng, say mê. Lãnh thổ Liên Xô rộng lớn dược tô màu đỏ nổi bật trên bản đồ. Có tên gác dang khó chịu giật xuống làm rách tấm bản đồ. Tù nhân phản đối kịch liệt. Hôm sau, một tấm bản đồ mới vẽ lại được treo lên, thủ đô Mạc Tư Khoa được đánh dấu bằng hình một trái tim đỏ chói. Tên gác dang giở giọng châm biếm:

– Chỉ còn một chấm đỏ thế thôi à ?

Anh em kiêu hãnh trả lời:

– Phải! Một chấn đỏ nhưng nó sẽ lan rộng khắp.

Các đồng khí giỏi ngoại ngữ đã đọc và thảo luận sôi nổi các tác phẩm văn học có ở Banh II lúc đó, từ các tác phẩm văn học nổi tiếng của Coócnây (Comeine), Miôlie (Molière), Vinh (Alfred de Vighy), Huy gô (Victor Hu go), Muyxê (Alfred de Musset), Do la (émile Zola), Phơrăng (Anatole France), Rôlăng (Romain Ronand), Bác buýt (Hen ri Barbusse)… cho đến các tác phẩm văn học Việt Nam lúc đó như Đoạn tuyệt của Nhất Linh, Cô Tư Thung của Nguyễn Công Hoan, thơ của Xuân Diệu, Huy Cận, Thế Lữ, v.v… Anh em tù chính trị rất chú ý đến phong trào Thơ mới. Trân trọng sự sáng tạo nghệ thuật của Thơ mới là ở chỗ các nhà thơ lúc ấy đã đi vào chủ nghĩa lãng mạn tiểu tư sản trong lúc đang cần có chủ nghĩa lãng mạn cách mạng.

Đấu tranh tư tưởng với Việt Nam Quốc dân đảng

Việc học tập văn hóa, lý luận và thưởng thức nghệ thuật ở Côn Đảo ngày càng lôi cuốn nhiều anh em Quốc dân đảng tham gia. Mặc dù các lãnh tụ cực đoan ra sức tuyên truyền xuyên tạc chủ nghĩa cộng sản nhưng phần lớn đảng viên và quần chúng Quốc dân đảng đều nhận thấy những người cộng sản sống có tổ chức, có tình thương và có ý chí học tập, vươn lên, phấn đấu cho lý tưởng cách mạng.

Ngay từ khi chưa hiểu chủ nghĩa cộng sản, họ đã cảm phục nhân cách của những người cộng sản. Sách báo mác xít và quá trình học tập, thảo luận ở Banh II có sức thuyết phục những người yêu nước chân chính trong hàng ngũ Quốc dân đang hơn là nội dung nghèo nàn của chủ nghĩa Tam Dân và tôn chỉ mục đích mập mờ của Việt Nam Quốc dân đảng. Nhiều người đã nghiêng hẳn về lập trường vô sản như các anh Tưởng Dân Bảo, Nguyễn Phương Thảo, Nguyễn Đức Chính, Trần Huy Liệu… Các anh Tố Chấn, Tô Hiệu ở Banh I đã sớm giác ngộ, đứng vào hàng ngũ của những người cộng sản và tích cực tham gia hoạt động, đấu tranh.

Thấy quần chúng ngả theo cộng sản ngày càng nhiều, những thủ lĩnh Quốc dân đảng cực đoan vu cáo những người cộng sản làm tan rã hàng ngũ của họ và coi “Cộng sản là kẻ thù số 1, đế quốc là kẻ thù số 2” (!) Tên Đội Sơn, trùm Quốc dân đảng đã có lần bộc lộ tâm địa của hắn qua lá thư gửi riêng cho chúa đảo Buviê: “Tôi rất đồng tình với ngài rằng bọn cộng sản còn nguy hiểm hơn cả bênh dịch hạch”.

Nhóm Quốc dân đảng cực đoan chống cộng ra mặt. Khi những người cộng sản nêu khẩu hiệu đấu tranh đòi cải thiện đời sống thì họ xuyên tạc: “Tưởng làm cách mạng thế nào chừ chỉ biết đòi ăn thôi à (?!) Tù chính trị Banh II phát động học tập thì họ khiêu khích: “Tù chung thân, học để xuống nghĩa địa khỏi lạc đường à (?!). Tù chính trị Banh I đấu tranh đòi giảm nhẹ khổ sai họ cũng phản đối: “Đấu tranh nó còn bắt làm nhiều, càng chết”. Mỗi lần Ban lãnh đạo tù chính trị vận động quần chúng đấu tranh thì họ làm ầm lên cốt để báo cho bọn gác ngục biết.

Đối với họ vào tù là “tiêu ma sự nghiệp’, cốt sao được yên thân. Họ ra tờ báo Tiêu sầu để tự an ủi và chống lại chủ trương của những người cộng sản. Từ sau thất bại của cuộc khởi nghĩa Yên Bái (2-1930), một bộ phận Quốc dân đảng đã chuyển hẳn sang chủ nghĩa quốc gia cải lương. Một số lãnh tụ cực đoan đã đi vào con đường chống cộng quyết liệt làm tay sai cho thực dân Pháp.

Bọn Tâm Cụt âm mưu ám sát Tôn Đức Thắng, một đồng chí trung kiên có uy tín ở Banh I. Còn Đội Sơn, Đội Lãng thì tổ chức ám sát các đồng chí Phạm Văn Đồng, Hoàng Quốc Việt và một số người có vai trò lãnh đạo ở Banh II. Tù chính trị cộng sản phải lập các đội tự vệ để theo dõi hành động của bọn này và bảo vệ các đồng chí. Mưu sát cá nhân không thành, bọn trùm Quốc dân đảng ở Banh II chuẩn bị gây chiến với những người cộng sản, nhưng quần chúng của họ không ủng hộ. Những người cộng sản nắm được tình hình và tích cực chuẩn bị đối phó Bọn Quốc dân đảng cực đoan bị vạch mặt và bị cô lập, chúng đành xin phép xếp banh cho ra ở riêng một dãy, hy vọng sẽ tách được quần chúng ra khỏi ảnh hưởng của chủ nghĩa cộng sản.

Cuối năm 1934, xếp Banh II đồng ý cho tù Quốc dân đảng ra ở riêng từ khám 6 đến khám 10, còn tù cộng sản vẫn ở từ khám 1 đến khám 5, giữa hai dãy khám có hàng rào dây thép gai. Một số đảng viên Quốc dân đảng giác ngộ chủ nghĩa Mác-lênin đã chuyển sang ở chung với những người cộng sản. Ban lãnh đạo Banh II cũng bí mật gợi ý trước cho một số người đã giác ngộ ở lại trong hàng ngũ Quốc dân đảng để tiếp tục giáo dục, cảm hóa những anh em khác.

Người cộng sản Trần Xuân Độ đã cùng với Tưởng Dân Bảo, Nguyễn Đức Chính1, Nguyễn Văn Xuân tổ chức một lớp học văn hóa mà thực chất là học chủ nghĩa Mác-lênin. Anh em học các môn lịch sử, thời sự, ngoại ngứ, bình luận văn học, nghệ thuật và bí mật nghiên cứu sách báo mác xít. Những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-lênin được thảo luận một cách khéo léo dưới dạng phê phán những xu hướng tư tưởng trước Mác, phê phán các quan điểm duy tâm, các quan điểm nghệ thuật vị nghệ thuật lúc đó. Các cuộc thảo luận còn hướng tới chỗ khẳng định niềm tin vào con người với những học thuyết khoa học có khả năng cải tạo được xã hội. Tờ báo Delfray (Đằng sau ngọn triều giận giữ) làm nhiệm vụ hướng dẫn, thảo luận, nghiên cứu các vấn đề của chủ nghĩa Mác-lênin.

Lớp học lúc đầu có khoảng 10 người, sau tăng lên 100. Chủ nghĩa Mác-lênin đã soi sáng trí tuệ và tâm hồn của một số người yêu nước mà lâu nay họ mới chỉ hiếu một cách mơ hồ về chủ nghĩa Tam Dân. Nhiều người đã dứt khoát đứng hẳn về lập trường của những người cộng sản.

Trong nhiều bức thư gửi cho anh em, bè bạn ở đất liền, mặc dù bị chế độ kiểm duyệt rất gắt gao, Nguyễn Đức Chính cũng hé ra những dòng tâm sự về sự lựa chọn ấy. Bức thư ngày 28-8-1936 gửi cho người em ruột ở Hà Nội có đoạn khẳng định: “Anh vui sướng lắm, nhất là ngày anh ra khỏi được chỗ xung đột của hai quan niệm: Duy tâm và Duy vật, của hai tư tưởng Quốc gia và Xã hội. Ra khỏi không phải là đứng lên trên hẳn những cái đó rồi nhìn cả hai bên bằng con mắt chán nản, hoặc hoài nghi, hoặc khinh bỉ đâu. Ra khỏi là chọn lấy một trong hai cái bất tương dung ấy” 1.

Bọn trùm Quốc dân đảng cực đoan hết sức lo sợ sự tan rã không thể tránh khỏi của Việt Nam Quốc dân đảng. Họ chủ trương “củng cố nội bộ bằng cách gây chiến với bên ngoài”, tổ chức đánh một số đồng chí cộng sản có uy tín với quần chúng Quốc dân đảng và khủng bố những quần chúng của họ đã giác ngộ cộng sản. Thấy bọn cực đoan ráo riết chuẩn bị, anh em quần chúng Quốc dân đảng kiên quyết phản đối, làm thất bại âm mưu của bọn này.

Gác dang Pháp vào xét các khám Quốc dân đảng thu được nhiều gậy gộc và sắt nhọn. Không sử dụng được bạo lực, bọn cực đoan quay lại phá lớp học bằng mọi cách. Mấy tên tay chân được gài vào lớp học nêu ra lý lẽ: không bao giờ người Quốc dân đảng lại đi học chủ nghĩa Mác-lênin. Anh em kiên quyết bác bỏ với lý luận rằng: “Những người cộng sản theo chủ nghĩa Mác-lênin vẫn nghiên cứu chủ nghĩa Tam Dân và các chủ nghĩa khác, tại sao cấm người Quốc dân đảng nghiên cứu chủ nghĩa Mác-lênin. Đuối lý bọn này tìm cách lấy cắp những tài liệu học tập lý luận mác xít của anh em trong khám, nhưng không gì ngăn được những người yêu nước chân chính đến với chủ nghĩa Mác-lênin.

Bất lực, bọn phản động đi vào con đường khủng bố nội bộ. Chúng kết án tử hình 4 người: Tưởng Dân Bảo, Trần Xuân Độ2, Nguyễn Đức Chính và Nguyễn Văn Xuân về tội “đưa chủ nghĩa cộng sản vào lung lạc, làm tan rã nội bộ” rồi giao cho tên Đội Lãng thì hành. Đội Lãng đã dùng dao sắc bất ngờ cắt cổ anh Tưởng Dân Bảo. Hành động giết người của y bị phát hiện, mọi người la lên làm y hoảng hồn. Nghĩ rằng anh Bao đã chết, y chạy đi tìm 3 người còn lại nhưng trong cơn hoảng loạn, y đã cầm dao đâm vào cổ tự tử. Đội Lãng bị đốc tờ Nhã bỏ cho chết luôn, còn Tưởng Dân Bảo được ông cứu sống.

Tối hôm ấy, bọn cực đoan do tên Lý Khái cầm đầu tổ chức mặc niệm Đội Lãng nhằm tiếp tục khủng bố những người yêu nước chân chính, song đội ngũ những người yêu nước chân chính trong hàng ngũ Việt Nam Quốc dân đảng đã đoàn kết lại, khẳng định một cách dứt khoát lập trường của mình. Cả một số trí thức nho học trong Quốc dân đảng trước đây vẫn giữ thái độ ôn hòa nay cũng lên tiếng phản đối bọn cực đoan. Cuộc mặc niệm Đội Lãng thất bại thảm hại.

Lớp học chủ nghĩa Mác-lênin trong hàng ngũ Quốc dân đảng vẫn tiếp tục. Riêng Phạm Tuấn Tài3, thời gian ở Côn Đảo đã nghiên cứu nhiều tác phẩm lý luận của Mác-ăngghen và Lêmn. Với cương vị một người sáng lập ra Quốc dân đảng, anh rất trăn trở, cứ mấy tháng lại đưa ra mặt dự thảo cương lĩnh mới của Quốc dân đảng, cái sau tiến bộ hơn cái trước và ngày càng xích gần đến chủ nghĩa Mác-Lênin. Khi được ân xá, anh đã tâm tình với những người còn ở lại: “Quốc dân đảng đã quá thời rồi, các anh em còn chân chính cách mạng nên đi theo con đường cộng sản”.

Nếu như cuộc khởi nghĩa Yên Bái đã kết thúc vai trò của Việt Nam Quốc dân Đảng thì trường học cộng sản trong Nhà tù Côn Đảo đã mở ra con đường cho những người yêu nước chân chính trong hàng ngũ Quốc dân đảng. Nhiều người đã gia nhập hàng ngũ cộng sản khi hiểu rằng chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được đất nước khỏi ách thực dân.

Tổ chức vượt ngục, cung cấp cán bộ về cho Đảng

Bị đày ải trên một hòn đảo giữa biển khơi, cách đất liền hàng trăm cây số nhưng ý chí vượt đảo về đất liền tiếp tục hoạt động cách mạng luôn thôi thúc những người tù chính trị. Mùa gió chướng hàng năm thổi vào đất liền là mùa tù nhân trốn lên núi đóng bè, kết buồm vượt đảo. Gió chướng ở Côn Đảo từng đợt thường mạnh đến cấp 7, cấp 8. Gặp khi gió mạnh thổi đều thì chỉ một ngày một đêm là bè có thể dạt vào đất liền.

Những, người tù thường phạm đã từng vượt đảo thành công nhiều lần truyền cho nhau kinh nghiệm thá bè, đón chiều gió chướng và lái theo hướng tây bắc để bè dạt vào bờ biển Tây Nam Bộ, không để cho gió thổi dạt sang tận bên Xiêm.

Trong lúc đi làm khổ sai, những người tù đã nhắm sẵn những vạt rừng kín đáo gần biển, chọn trước những cây gỗ búng (một loại gỗ nổi) có thể đóng bè, bớt từng phần cơm ít ỏi trong các bữa ăn để phơi khô làm lương thực dự trữ. Họ phải chuẩn bị cả thùng thiếc để đựng nước ngọt, các dụng cụ để đóng bè như dao, búa, cưa, đinh… Bọn gác ngục kiểm soát rất chặt và phạt rất nặng khi phát hiện được người tàng trữ những đồ “quốc cấm” có thể dùng để vượt đảo, nhưng tù nhân vẫn có thể xoay xở và mua được nếu có tiền.

Một bè gỗ ghép vội bằng dây rừng, một túi cơm khô và vài lít nước ngọt để vượt hàng trăm cây số trên biển là một việc đầy nguy hiểm. Thế mà trước khi vượt biển, họ còn phải vượt qua một hệ thống canh phòng chặt chẽ của gác dang, ma tà, lính canh và cả một đội rờsẹc (recherche)1 chuyên truy lùng và săn đuổi tù trốn.

Sở Rờsẹcl thường xuyên có trên dưới một trăm tên, được tuyển chọn trong đám tù lưu manh, dưới quyền chỉ huy của một tên gác dang Pháp thuộc loại gian ác làm chủ sở. Bọn này được mang sắc phục riêng, được trang bị mã tấu và chó săn, được hưởng nhiều đặc quyền đặc lợi và trở thành tay sai đắc lực cho bọn chúa ngục.

Lực lượng rờsẹc được chia làm hai toán: Toán nằm bãi và Toán Chỉ Tồn. Toán Chỉ Tồn chia nhau theo dõi các kíp tù khổ sai của Sở Chỉ Tồn, phát hiện các âm mưu vượt ngục và tổ chức săn duỗi, truy tìm khi có tin báo tù trốn. Toán nằm bãi rải ra canh gác tất cả các bãi biển ở Côn Đảo. Chúng theo dõi từng dấu chân trên cát, từng loại cây gỗ nhẹ trên rừng mà tù nhân thường chặt đóng bè, phát hiện được dấu hiệu tù trốn là lập tức phi báo về trụ sở.

Những người tù vượt ngục không may rơi vào tay bọn này là bị chúng đánh đập hết sức dã man. Chính tên chủ sở đến chỉ huy cuộc tra tấn, khai thác cách tổ chức vượt ngục, nơi mua bán, cất giữ các dụng cụ vượt đảo và những người có liên quan. Sau khi đã hành hạ người tù nhiều lần đến chết đi sống lại, chủ Sở rờsẹc mới cho trả họ về banh để xếp banh và chúa ngục đày đọa họ vào các “địa ngục” Hầm đá, Hầm xay lúa và Sở Củi – chuồng bò. Nhưng ngay cả cái chết và những hình phạt man rợ nhất cũng không ngăn dược các cuộc vượt đảo cửa tù nhân.

Theo báo cáo của Thanh tra thuộc địa, từ năm 1930 đến năm 1935 đã có 3.664 lượt tù Côn Đảo vượt ngục. Hơn 3.000 người bị bắt lại và chịu những hình phạt khắc nghiệt nhất, còn 444 người đã thoát được ra biển. Chắc chắn rằng trong hơn 400 người thoát được ra biển ấy đã có nhiều người bị chết chìm trong biển cả, chỉ có một số ít do may mắn mà về được đến đất liền. Một vài tốp tù thường phạm đã phải quay trở lại vì bị nhiều đàn cá mập săn đuổi quanh bè.

Mùa gió chướng năm 1930, biết người tù yêu nước Bửu Đình đang tìm cách vượt ngục, Quản đốc Buviê cho đày Bửu Đình ra Hòn Tre. Một thân một mình với hai bàn tay trắng trên một hòn đảo chỉ có cây và đá, thế mà Bửu Đình cũng về được đến đất liền. Trước khi về còn để lại 4 câu thơ châm biếm gửi chúa đảo Buviê2. Một năm sau thực dân Pháp bắt được Bửu Đình và lại đày ra Côn Đảo. Buviê đày Bửu Đình một lần nữa ra Hòn Tre. Thế rồi một tốp tù thường vượt ngục đã ghé Hòn Tre và cho Bửu Đình cùng về.

Biết bao thử thách hiểm nghèo đặt trước một cuộc vượt ngục của tù Côn Đảo. Họ có thể bị mạng lưới truy tầm bắt lại và hành hạ; có thể bị giông bão nhận chìm hoặc gặp sóng lớn và nước xoáy đánh vỡ bè, làm mồi cho cá mập; có thể mất phương hướng và gió lặng để bè lênh đênh trên biển, hết nước ngọt, hết lương thực ăn…

Nhiều cảnh thương tâm dã xảy ra trên biển. Dù có quyết tâm cao, chuẩn bị chu đáo đến đâu, thành công trong vượt đảo vẫn là rất hiếm, sự may mắn trở thành yếu tố quyết định cho thắng lợi của các cuộc vượt đảo, nhưng tất cả sự đe dọa và trừng phạt ấy đều không ngăn nổi ý chí vượt ngục của người tù. Nhà tù Côn Đảo đã là hình phạt tận cùng rồi, chẳng còn gì đáng sợ hơn nữa.

Nhờ gần gũi tù thường phạm, những người cộng sản có điều kiện nghiên cửu kỹ cách thức vượt ngục. Từ khi chi bộ cộng sản được thành lập (1932), chủ trương vượt ngục được xác định và được chuẩn bị một cách tích cực. Các đồng chí ở Nhà bếp, nhà kho tích trữ cơm khô; các đồng chí ở Nhà Thương tìm cách kiếm thuốc chống nôn, dầu xoa, thuốc bệnh; anh em ở Bản Chế lén sản xuất các loại cưa, dao, đục, đinh sắt; bộ phận làm ở Nhà Đèn gửi mua thêm lương thực, thực phẩm và thùng thiếc để đựng nước uống. Đến khi có sáng kiến đóng thuyền, anh em gửi mua tôn, dầu hắc, vải bạt, búa, đinh, v.v…

Chi bộ lập Quỹ giải phóng để quyên góp tiền ủng hộ các cuộc vượt ngục và lựa chọn những đồng chí có năng lực lãnh đạo đưa về tăng cường cán bộ cho Đảng. Những đồng chí án nặng từ chung thân khổ sai đến 20 năm khổ sai được chú ý chọn trước. Nhiều đồng chí khác đang làm khổ sai, có điều kiện vượt ngục cũng được giúp đỡ tiền bạc, lương thực, thuốc men và dụng cụ. Nhà Đèn và nhà chú ma tà số 5 thường là nơi cất giấu các phương tiện để cung cấp cho các tốp vượt ngục.

Mùa gió chướng năm 1932, Lương Văn Tụy cùng một số đồng chí vượt đảo bị vỡ bè hy sinh trên biển. Nhiều tốp cộng sản vượt ngục đã bị bắt lại, giam trong xà lim và hầm xay lúa. Năm 1933, anh em rút kinh nghiệm tổ chức đóng thuyền. Các đồng chí Nguyễn Hỡi, Tống Phúc Chiếu… được chỉ định đi chuyến ấy. Thuyền được đóng trên một sườn núi phía Lò Vôi. Đồng chí Nguyễn Hỡi đã trốn lên núi, phát cây mở đường để khiêng thuyền xuống. Thuyền được hạ ở mũi Tàu Bể
1
[/color][/sup], vừa ra được hơn một trăm thước thì bị một con sóng lớn đánh chìm thuyền. Nguyễn Hời đuối sức bị sóng cuốn đi. Hai đồng chí bơi vào bờ thì không thấy Nguyễn Hời, đồng chí Tống Phúc Chiều bơi ra tìm lần nữa và bị sóng cuốn đi luôn…

Trở về tiếp tục hoạt động cách mạng luôn luôn là mềm khát vọng của những người tù cộng sản. Những tổn thất đau đớn không làm nhụt ý chí vượt ngục của họ. Chi bộ rút kinh nghiệm các cuộc vượt ngục, kiên trì phương án đóng thuyền. Năm 1934, tổ chức Đảng và Hội tù nhân ở các kíp tù khổ sai đã được củng cố. Những người cộng sản đã giành được quyền điều khiển công việc trong nhiều kíp tù khổ sai, do đó có thuận lợi hơn trong việc tổ chức vượt đảo. Một số tù thường phạm có kinh nghiệm đóng thuyền và đi biển được giác ngộ và lựa chọn tăng cường cho các chuyến vượt ngục sắp tới. Những người biết đóng thuyền được vận động cho ra làm ở các sở tù bên ngoài, nơi bộ máy trị tù lỏng lẻo hơn cả. Một số đồng chí được chi bộ trách nhiệm chỉ đạo việc bí mật đóng thuyền. Chi bộ định ngày khởi hành và lựa chọn, chỉ định từng người trở về trong mỗi chuyến vượt ngục.

Cuối năm 1934, chi bộ tổ chức cho Ngô Gia Tự, Tô Chấn, Lê Quang Sung và nhiều đồng chí có năng lực lãnh đạo vượt đảo. Chuyến đi được chuẩn bị công phu. Thuyền đóng bằng gỗ búng, rộng rãi và chắc chắn, hạ thủy vào một đêm nhiều sao, biển êm, gió nhẹ. Ai cũng hy vọng thành công nhưng trông đợi hết ngày này qua ngày khác vẫn không nhận được một tin tức gì.

Từ tháng 4-1934 đến tháng 4-1935, chi bộ tổ chức được hai chuyến vượt đảo thành công. Chuyến đầu gồm các đồng chí: Tống Văn Trân, Vũ Công Phụ, Tạo Gồng, Toán, Kim, Xuyến và 2 người tù thường (4-1934). Anh em tổ chức đón thuyền ở Đá Trắng. Khi hạ thủy, thuyền bị rò, anh em phải khắc phục ngay và chặt thêm cây bó vào 2 bên mạn cho sóng khỏi lật thuyền. Sau 3 ngày 3 đêm, thuyền đã cặp vào Bến Tre, vùng quê của đồng chí Tạo Gồng. Các đồng chí liên lạc được ngay với Đảng, một số đồng chí được bổ sung vào cơ quan Xứ ủy Nam Kỳ.

Tiếp sau đó, chuyến vượt ngục của các đồng chí Tạ Uyên, Nguyễn Hữu Tiến, Phạm Hồng Thám, Trần Quang Tặng… ngày 8-4-1935 cũng thành công, thuyền cập vào bờ biển Tây Nam Bộ. Các đồng chí cũng bắt liên lạc ngay với Đảng và lao vào công tác, góp phần khôi phục và củng cố Xứ ủy Nam Kỳ. Các đồng chí Tạ Uyên, Tống Văn Trân sau trở thành những cán bộ lãnh đạo chủ chốt của Xứ ủy, là những người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ (23-11-1940) và đã hy sinh anh dũng.

Các đồng chí ở Côn Đảo trở về đã báo cáo cụ thể với Xứ ủy Nam Kỳ về sự ra đời và hoạt động của chi bộ cộng sản ở Nhà tù Côn Đảo; báo cáo những ý kiến của chi ủy Côn Đảo về tình hình tư tưởng, chủ trương hoạt động cửa những người cộng sán ở Nhà tù Côn Đảo và đề nghị với Đảng có ý kiến chỉ đạo, phối hợp đấu tranh chống chính sách khủng bố của thực dân Pháp, đòi ân xá toàn bộ tù chính trị…

Theo Điều lệ mới mà Đại hội lần thứ nhất của Đảng ta họp ở Ma Cao (1935) đã bổ sung, chi bộ cộng sản ở Nhà tù Côn Đảo được công nhận là một Chi bộ đặc biệt dưới sự chỉ đạo của Xứ ủy Nam Kỳ.

Trong những năm 1934-1935, một số đồng chí án nhẹ, mãn án tù Côn Đảo trở về đều được chi bộ giao nhiệm vụ bắt liên lạc với Đảng, nhờ đó mà giừ được liên lạc với đất liến. Các đồng chí vượt ngục và mãn hạn trở về đều tìn gặp Xứ ủy Nam Kỳ và liên lạc ra Côn Đảo.

Cuối năm 1934 đồng chí Nguyễn Văn Nguyễn từ Nhà tù Côn Đảo trở về đã viết một loạt bài phóng sự về chế độ tù đày vô cùng dã man ở nhà tù này, đăng liên tục trên báo La Lutte (Tranh Đấu) từ tháng 10 năm 1934 đến tháng 12 năm 1935. Lần đầu tiên những tội ác cực kỳ man rợ của thực dân Pháp ở Nhà tù Côn Đảo từ nhiều năm được bưng bít đã bị vạch trần ngay tại Đông Dương, làm xôn xao cả dư luận tiến bộ ở Pháp và trên thế giới.

Mở rộng Mặt trận đấu tranh

Qua thư từ và cơ sở của Đảng trên các chuyến tàu hàng tháng ra Côn Đảo, Chi bộ đặc biệt đã cung cấp những tin tức mới nhất về đất liền. Những hành động tàn ác của bọn gác ngục Pháp và phong trào đấu tranh của tù nhân ở Côn Đảo được đăng ngay lên báo La Lutte (Tranh Đấu), kèm theo cả những yêu sách đấu tranh và lời kêu gọi của tù nhân Côn Đảo đã làm cho dư luận trong nước hết sức xúc động và phẫn nộ. Đảng ta đã tích cực chỉ đạo phong trào đấu tranh đòi ân xá tù chính trị và vận động quần chúng quyên góp tiền, thuốc men, thực phẩm… gửi ra ủng hộ tù chính trị ở Côn Đảo.

Để đối phó với dư luận tiến bộ, chính quyền thực dân Đông Dương cho tên chúa đảo hung bạo Buviê về Pháp nghỉ và điều Cơrêmadi (Crémazy) ra thay. Cơrêmadi đã già đời trong nghề mật thám ở Đông Dương, nói sõi tiếng Việt, thành thạo nhiều thủ đoạn mua chuộc, lừa mị. Tết dương lịch năm 1935, trong lúc Cơrêmadi cùng binh lính và gác dang Pháp linh đình tiệc rượu thì hắn lại “ra ân” cho tù nhân một con bò già đang bị bệnh. Được biết con bò bị sưng gan, ruột và phổi đầy mủ, toàn thể tù nhân đã đồng tâm phản đối không ăn. Cuộc tẩy chay vạch mặt thủ đoạn lừa mị đê tiện của Cơrêmadi đã mở đầu một thời kỳ đấu tranh đồng loạt và quyết liệt trên đảo.

Ngày 12-2-1935, tàu Méclanh (Merlin) chở ra Côn Đảo 150 giỏ cá khô1 trong đó có 100 giỏ cá thối, lúc nhúc dòi. Đó là thứ cá phế thải mà bọn thầu cơm tù đã mua tranh của chủ thầu phân bón với giá rẻ mạt. Tù nhân Banh I và Banh II đều phản đối, kiên quyết không nhận. Đốc tờ Nhã đến kiểm tra cũng xác nhận là không thể ăn được và yêu cầu loại bỏ số cá thối đó. Quản đốc, Cơrêmadi phải hứa với tù chính trị Banh II là sẽ trả lại cho nhà thầu 100 giỏ cá thối. Nói vậy nhưng hắn lại đem phát cho các sở tù khổ sai. Được sự chi đạo thống nhất của chi ủy, các sở tù Đá Trắng, Sở Tiêu, Sớ Củi – Chuồng Bò… đều phán đối không nhận cá thối, buộc bọn chúa ngục phải đem đồ làm phân bón.

Chuyến tàu tiếp theo chở ra 150 giỏ cá khô, 50 giỏ cá tốt được phân phát cho bọn gác ngục, còn 100 giỏ cá thối chúng lại đem cưỡng phát cho các sở tù bất chấp sự phán đối của tù nhân. Chi bộ đặc biệt quyết định phát động một đợt đấu tranh rộng lớn trên toàn đảo chống việc cho tù nhân ăn cá khô mục thối.

Ngày 1-3-1935, kíp đốn cây ở Bãi Bàng đấu tranh không nhận cá thối, hai mươi người bị trả về Banh I, chịu phạt xiềng và ăn cơm nhạt, uống nước lã. Ngày 2-3-1935, năm mươi tù nhân ở Bản Chế và Sở tẩy phản bói cá thối cũng bị phạt xiềng trong khám 6-7. Buổi chiều hôm ấy hàng trăm tù nhân sở Chỉ Tồn tuyệt thực phản đối lệnh phạt đối với 70 tù nhân trong khám 6-7. Tên Xếp chánh Cơrítsơchiani hăm dọa: “Súng của tao sẽ trả lời yêu sách của tụi bay”.

Ngày 3-3-1935, Thống đốc Nam Kỳ ra lệnh cấm cố tất cả những người tù cộng sản đang làm khổ sai ở Banh I. Quản đốc Cơrêmadi trực tiếp đôn đốc việc cùm xiềng và cấm cố tù nhân. Một trăm hai mươi người tù cộng sản bị đánh đập dã man, bị xiềng và cấm cố trong khám 6-7. Chi ủy họp cấp tốc, quyết định tổ chức tuyệt thực để chặn bàn tay khủng bố của kẻ thù. Đại biểu tù nhân khám 6-7 tuyên bố với xếp banh nhịn ăn, nhịn uống, đòi tháo xiềng, xóa bỏ cấm cố, đòi chấm dứt việc cho tù nhân ăn khô mục và đòi không được đánh đập, ngược đãi tù nhân.

Nhịn ăn và nhịn uống cùng một lúc là một hình thức đấu tranh quá cao, trong khi các nơi chưa kịp phối hợp đấu tranh hưởng ứng và tương quan lực lượng chưa thuận lợi, nên sau 3 ngày đêm, khám 6-7 chủ trương kết thúc cuộc tuyệt thực.

Mặc dù phần lớn các đồng chí lãnh đạo của chi bộ bị cấm cố, phong trào đấu tranh chống ăn cá khô mục vẫn phát triển mạnh. Tùy theo tình hình của từng nơi mà các sở tù nêu thêm nhiều khẩu hiệu cụ thể. Kíp san hô đòi được tắm rửa sau mỗi ngày làm việc; Hầm xay lúa đòi bỏ xiềng xích; kíp xe bò tiếp tục nêu khẩu hiệu: “mỗi xe 7 người”. Những sở có đông tù chính trị thì nêu thêm khẩu hiệu: “Chế độ chính trị cho tù chính trị”, “Tù chính trị phải được đọc sách báo”, v.v… Chi bộ tích cực chuẩn bị cho một cuộc đấu tranh tuyệt thực lớn trên quy mô toàn đảo, kết hợp với các hình thức bãi công, đưa yêu sách.

Khoảng giữa năm 1935, sau 2 chuyến vượt ngục thành công của tù cộng sản, Quản đốc Cơrêmadi đưa vào cấm cố toàn bộ tù cộng sản đang làm khổ sai ở các sở ngoài. Hơn 100 người bị giam vào khám 8 và khám 9, một số ít ở khám 10 chung với tù Quốc dân đảng. Khám 6-7 tập trung nhiều đồng chí có trình độ, trở thành trung tâm lãnh đạo lúc đó.

Tin Đảng ta công nhận chi bộ cộng sản ở Nhà tù Côn Đảo là một Chi bộ đặc biệt trực thuộc Xứ ủy Nam Kỳ đã đem đến cho các đảng viên niềm phấn khởi và tin tưởng ngay giữa lúc ở trong cấm cố, xích xiềng. Chi ủy được cung cố lại gồm các đồng chí Hồ Văn Long, Phạm Hùng, Nguyễn Công Thương (tức Lê Văn Lương)… Tờ báo Người tù đỏ ở Banh II được chuyển về Banh I xuất bản ở khám 6-7 với cái tên Tiến Lên là cơ quan thông tin và tranh đấu của chi bộ.

Chi bộ khẩn trương chuẩn bị cho cuộc đấu tranh sắp tới. Một số đảng viên còn lọt lại ở các sở tù bên ngoài là nòng cốt chỉ đạo phong trào đấu tranh của tù thường phạm ở những nơi này, đồng thời giữ vững liên lạc với đất liền. Ngày 18-5-1935, khám 6-7 mở đầu đợt đấu tranh đòi xóa bỏ cấm cố, đòi gỡ bỏ các tấm tôn che trên cửa sổ1, đòi cải thiện đời sống và không được đánh đập, ngược đãi tù nhân.

Banh II phối hợp đấu tranh, đưa yêu sách đòi cải thiện đời sống, đòi đảm bảo các quyền lợi của tù chính trị. Cùng thời gian này tên gác ngục Căng tanh (can tin) coi kíp đốn củi đã hành hung đánh chết 2 tù nhân. Toàn thể tù nhân Sở Củi – Chuồng Bò và nhiều sở tù khác bỏ việc tổ chức thành từng đoàn kéo về bàn giấy Xếp chánh đưa yêu sách:

– Phản đối Căng tanh giết người.

– Phản đối đánh đập và xiềng xích.

– Phải giảm nhẹ khổ sai.

– Cho tù ăn đủ chế độ và được tắm giặt.

– Chế độ chính trị cho tù chính trị.

– Phản đối chế độ cấm cố khám 6, 7.

Một bản yêu sách chung của tù nhân Côn Đảo được thảo ra gửi Quản đốc:

– Cấm chỉ đối xử dã man, đánh đập, ngược đãi tù nhân.

– Bớt giờ làm việc trong ngày..

– Mỗi năm phát ít nhất 3 bộ quần áo, 3 chiếc chiếu2.

– Ban đêm phải thắp đèn trong các khám.

– Ăn uống phải được cải thiện, không được cho tù ăn khô mục thối.

– Mỗi tháng cho ăn 2 lần thịt bò.

– Cho một chuyên viên điều trị bệnh lao phổi vì 75% tù nhân đã mắc bệnh lao phổi.

– Tù chung thân phát lưu được quyền sinh sống tự do ở ngoài các “banh”.

Do được chuẩn bị chu đáo và đưa tin trước về đất liền, báo La Lutte đã đưa tin ngay khi cuộc tuyệt thực nổ ra làm cho bọn thực dân Đông Dương vô cùng lúng túng. Bọn chúa ngục Côn Đảo tìm mọi cách dụ dỗ những người tuyệt thực. Buổi sáng chúng pha sữa nóng đem đến, buổi trưa và buổi chiều chúng lại đưa cơm nóng và thịt vích xào rất thơm vào tận trong khám. Bọn gác ngục hạ giọng năn nỉ anh em ăn cơm, còn yêu sách thì chúng chỉ hứa quanh co là sẽ nghiên cứu giải quyết. Khám 8-9 lập tức tuyên bố tuyệt thực hưởng ứng khám 6-7. Các sở tù khổ sai cũng lần lượt bỏ việc kéo về hưởng ứng như một cuộc tồng đình công, bãi thực. Bọn chúa ngục vô cùng lúng túng nhưng chúng vẫn ngoan cố chưa chịu chấp nhận yêu sách. Chi ủy chỉ đạo anh em kiên trì đấu tranh, quyết giành lấy một thắng lợi, dù nhỏ.

Cuộc tuyệt thực kéo dài đến ngày thứ 9. Hai người hấp hối phải đưa đi cấp cứu, nhưng vẫn tiếp tục tuyệt thực tại Nhà Thương. Đồng chí Nguyễn Hữu Tiêm kiệt sức hy sinh…

Đến lúc ấy Quản đốc Carêmadi mới buộc phải chấp nhận yêu sách. Hắn tuyên bố sẽ không đánh đập tù nhân, không cho tù ăn cá khô mục thối, cho gỡ các tấm tôn che trên cửa sổ, cho tù nhân 2 khám cấm cố ra chơi mỗi ngày một giờ ở sân sau khám. Tù cộng sản ở Banh I được “hưởng” chế độ “nửa chính trị”, được mua đồ dùng ở căng tin mỗi tuần một lần, được nhận thư và quà của gia đình gửi mỗi tháng một lần, được đọc sách nhưng không được đọc báo.

Cuộc tuyệt thực kết thúc thắng lợi. Đồng chí Mai Ngọc Can đang cấp cứu tại Nhà Thương chưa biết kết quả nên tuyệt thực thêm một ngày nữa.

Ngay sau khi cuộc tuyệt thực thắng lợi, nhiều đồng chí còn mệt lả vẫn lao vào công việc. Tờ báo Tiến lên ra ngay một số tường thuật cuộc tuyệt thực và tổng kết kinh nghiệm đấu tranh. Hưởng ứng cuộc vận động của chi uy, trên một trăm bản hồi ký viết về cuộc tuyệt thực 9 ngày đã được gửi về Ban biên tập để đăng trên các số báo Tiến lên tiếp theo3. các đồng chí trong chi ủy thường làm việc suốt đêm để viết báo cáo và tài liệu gửi về Xứ ủy Nam Kỳ.

Năm 1935, phong trào cách mạng trong nước đã được phục hồi, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ nhất của Đảng ta họp ở Ma Cao (3-1935) đã khôi phục hệ thống tổ chức Đảng từ Trung ương đến các cơ sở trong cả nước. Phong trào đấu tranh của nhân dân lao động Pháp cũng đang phát triển mạnh nhưng bọn phản động thuộc địa vẫn ráo riết chống lại phong trào cách mạng. Năm 1935, chúng lựa những người tù thuộc loại “cứng đầu” ở Trung Kỳ đày luôn ba chuyến ra Côn Đảo. Khu cấm cố Banh I trở thành nơi “tụ hội” của những người cộng sản Việt Nam ở khắp ba miền Bắc – Trung – Nam.

Đấu tranh đòi Tổng đại xá tù chính trị

Theo sáng kiến của Đảng cộng sản Pháp, tháng 5 năm 1935, tại Pa ri đã tổ chức một hội nghị chống phát xít với sự tham gia của Đảng cộng sản, Đảng xã hội, Đảng xã hội Pháp cấp tiến, Tổng công đoàn, Tổng liên đoàn lao động thống nhất và các đoàn thể quần chúng của các đảng phái nói trên. Hội nghị đã quyết định thành lập Mặt trận nhân dân chống phát xít và chiến tranh.

Tháng 1 năm 1936, Mặt trận nhân dân công bố cương lĩnh tranh cử của mình. Bản cương lĩnh đặt lên trên hàng đầu khẩu hiệu Đại xá (Amlistie général) trong đó có vấn đề ân xá tù chính trị ở Đông Dương. Cuộc vận động thành lập Mặt trận dân chủ của Đảng cộng sản Đông Dương cũng phát triển sôi nổi. Toàn quyền Đông Dương xoa dịu dư luận bàng cách ân xá 6 tù chính trị ở Côn Đảo (1-1936) và sau đó giảm án cho 15 người khác, phần lớn từ án chung thân xuống 20 năm cấm cố; một vài người được giảm xuống 15 năm.

Nắm được tình hình trong nước và trên thế giới đang có bước phát triển lớn, Chi bộ đặc biệt Banh I và Ban lãnh đạo Banh II đã động viên anh em ra sức học tập nâng cao trình độ để có dịp trở về hoạt động được nhiều hơn cho Đảng.

Tết âm lịch năm 1936, đại biểu tù nhân khu cấm cố Banh I gửi kiến nghị lên Quản đốc đòi được mở cửa khám, được đi lại tự do trong banh vui chơi 3 ngày Tết. Cơrêmadi phải chấp nhận. Chi bộ đặc biệt chỉ đạo tổ chức vui Tết cho anh em phấn khởi, nhằm bồi dưỡng ý chí chiến đấu. Bản hịch Banh I trình bày vở kịch Tết của ai và vở tuồng Xã hội đồi bại được khán giả tù và ma tà hoan nghênh nhiệt liệt.

Bọn phản động thuộc địa vẫn ráo riết chống lại phong trào cách mạng đang dâng cao. Đầu năm 1936, tên bạo chúa Buviê được điều từ Pháp sang nhận lại chức Quản đốc Nhà tù Côn Đảo. Buviê ra lệnh tước hết những quyền lợi mà tù nhân đã giành được trong các cuộc đấu tranh dưới thời Quản đốc Cơrêmadi (1935). Bọn gác dang được lệnh đàn áp thẳng tay.

Một buổi, tù nhân Sở Chi Tồn (lúc này hầu hết là tù thường phạm) làm khổ sai về sớm hơn thường ngày. Xếp Banh I cho gác dang chặn tù ngay trước cổng banh đánh đập tàn nhẫn, hơn trăm người tù thường phạm quằn quại dưới ngọn roi tàn bạo. Tiếng kêu la của họ thảm thiết và uất hận. Lập tức hàng trăm người tù cộng sản trong khu cấm cố Banh I bật dậy hò la phản đối:

– Đả đảo khủng bố!

– Đả đảo Buviê!

Tù chính trị ở Banh II cũng phẫn nộ thét vang các khẩu hiệu phản đối bằng tiếng Pháp:

– Đả đảo thực dân Pháp!

– Đả đảo Buviê!

– Đả đảo Cơrítsơchiani!.

Buviê giận tím mặt, hắn ra lệnh khủng bố thẳng tay. Bọn gác dang bỏ đám tù thường phạm, mở kho khiêng gần chục cần xé mây cà vông2 vào các khám tù Cộng sản. Thế rồi mỗi tên rút một, hai khúc mây xông vào quật thẳng cánh lên đầu tù nhân. Đánh đến nát khúc mây, chúng lại rút khúc khác đánh tiếp. Chúng đánh từ cửa khám cho đến khi dồn hết tù nhân vào trong góc khám. Nhiều tên mỏi tay ngồi thở hồng hộc rồi xông vào đánh nữa. Đánh nát hết mấy cần xé mây cà vông, cả bọn mới mệt mỏi và lặng lẽ kéo nhau ra.

Anh em tù nhân lập hàng rào từ cửa khám đỡ đòn cho nhau. Cuối cùng tất cả bị dồn vào góc tường, chồng chất lên nhau thành một đống. Lớp thanh niên trẻ nằm trên cùng, da thịt rách nát, vết roi mây nổi lằn bầm tím cả người. Khi bọn quỷ sứ rút ra rồi, cả khám tù lặng đi, xác roi mây dập nát ngổn ngang trong khám. Anh em tù ngồi dậy, tất cả ngó nhau cùng cười. Máu của những anh em trẻ còn nhuộm thành vệt đỏ trên mái tóc điểm bạc của đồng chí Tôn Đức Thắng. Nhiều đồng chí bị đánh nát cả lưng, hàng tháng trời không nằm được, phải ngồi dựa vào nhau.

Chi bộ đặc biệt quyết định phát động một phong trào đấu tranh mạnh mẽ chống chế độ tàn bạo của tên Quản đốc Buviê và đòi đại xá tù chính trị. Hai tờ báo ý kiến chung và Tiến lên tích cực vận động cho cuộc đấu tranh sắp tới. Đối với tù thường phạm, chi bộ vận động nêu các khẩu hiệu:

– Đòi được ân xá.

– Đòi không được đánh đập, ngược đãi tù nhân.

– Đòi cải thiện bữa ăn hàng ngày, bỏ cá khô mục.

Riêng tù chính trị nêu các yêu sách:

– Thả hết tù chính trị. Trong lúc chưa thả thì thi hành ngay chế độ tù chính trị, đưa toàn bộ tù chính trị về đất liền để cho gia đình được thăm hỏi.

– Bãi bỏ cấm cố, bỏ xiềng chân tay.

– Cải thiện bữa ăn hằng ngày, không ăn khô mục.

Hình thức đấu tranh là đưa yêu sách, nếu địch khủng bố thì sẽ bãi thực, hò la phản đối; các sở tù khổ sai sẽ phối hợp đấu tranh bằng cách bỏ việc. Toàn đảo lập ủy ban tranh đấu, mỗi banh lập một Ban tranh đấu, các khám đều tổ chức các đội tự vệ để chống khủng bố.

Ngày 18-3-1936, đồng chí Phạm Hùng đưa yêu sách của tù nhân Banh I cho Quản đốc. Buviê xổ ngay một tràng chửi rủa thô tục rồi ra lệnh cho tay chân: “Đánh thắng cánh. Nhốt hầm. Đấy chính là quyền lợi của chúng nó ở được hưởng ở Côn Lôn”.

Bọn gác dang rút những khúc mây cà vông xông vào khám 6-7 đánh túi bụi và bắt đồng chí Phạm Hùng giam xuống xà lim. Đội tự vệ khám 6-7 câu tay thành hàng rào chắn trước cửa khám đỡ đòn và bảo vệ cho các đồng chí ở phía trong. Tất cả tù nhân Banh I dồn ra các của khám thét vang:

– Đả đao Buviê! Đả đảo khủng bố!

– Đả đảo chế độ cấm cố!

– Phải thả hết tù chính trị!

Anh em Banh II cũng đổ ra các cửa lớn, leo lên các cửa sổ hô khẩu hiệu “đả đảo”, “phản đối” vang cả đảo. Quản đốc Buviê trực tiếp chỉ huy cuộc đàn áp. Bọn gác dang xông vào đánh hết đám này đến đám khác. Tù nhân Khâu (số tù 5930) bị đánh chết ngay tại chỗ. Hàng trăm người bị thương ở đầu, gãy tay, phải đưa ra nhà thương băng bó rồi giam riêng ở khám 10. Số tù nhân Việt Nam Quốc dân đảng ở khám 10 không dám đấu tranh, sợ bị khủng bố lây đã xin với xếp banh cho chuyển qua khám khác.

Tù nhân Banh I tuyên bố tuyệt thực phản đối khủng bố và đòi các quyền lợi chính đáng đã ghi trong yêu sách. Cuộc tuyệt thực kéo dài 9 ngày ở các khám tù cấm cố, 6 ngày ở một số khám tù khổ sai. Các sở tù đều nghỉ việc để hưởng ứng.

Cuộc đàn áp đẫm máu của Buviê sau đó đã được báo Le Lutte đưa tin và bị dư luận tiến bộ công phẫn lên án. Thống đốc Nam Kỳ buộc phải chỉ thị cho Quản đốc Côn Đảo cải thiện chế độ nhà tù, không được để cho dư luận coi bọn chúng như bọn người buôn nô lệ châu Phi. Buviê đành phải chấp nhận phần lớn yêu sách của tù nhân. Riêng yêu sách đòi ân xá tù chính trị hắn hứa sẽ chuyển lên Thống đốc Nam Kỳ và Toàn quyền Đông Dương.

Được tin Mặt trận nhân dân Pháp giành thắng lợi lớn trong cuộc bầu cử Quốc hội Pháp ngày 3-5-1936. Chi bộ đặc biệt quyết định tiến thêm một bước nữa. Ngày 28-5-1936, chi ủy thảo yêu sách gửi Thống đốc Nam Kỳ, Bộ trưởng Bộ thuộc địa và Thủ tướng Pháp đòi đại xá tù chính trị. Ngày 11-6-1936, một cuộc bãi thực, lãn công lại nổ ra trên toàn đảo để nhắc lại các yêu sách ngày 28-5-1936 đòi tổng đại xá.

Cuộc vận động thành lập Mặt trận dân chủ Đông Dương của Đảng ta cũng phát triển rầm rộ, hàng chục vạn tờ truyền đơn xuất hiện trong cả nước. Qua báo chí tiến bộ, Đảng ta đã đưa ra 12 yêu cầu tự do dân chủ trong đó có vấn đề tự do cho tù chính trị.

Tháng 6-1936, Chính phủ phái tả của Mặt trận nhân dân lên cầm quyền ở Pháp do Lông Bơ lum (Lon Blum), lãnh tụ Đảng xã hội làm Thủ tướng và Mariuýt Mu tê (Marius Moutet), đảng viên Đảng xã hội làm Bộ trưởng Bộ thuộc địa. Ra đời trong lúc phong trào nhân dân đấu tranh chống phát xít lên cao, Chính phủ Pháp buộc phải thi hành một số quyền lợi cho quần chúng lao động ở trong nước và các thuộc địa theo cương lĩnh của Mặt trận nhân dân Pháp. Ngày 14-7-1936, thực dân Pháp tập trung hơn 90 tù chính trị ở Côn Đảo về khám 10 Banh I, chuẩn bị đưa về Sài Gòn đòi ân xá.

Giữa lúc đó Chi bộ đặc biệt nhận được bản báo cáo của đồng chí Manuinxki (Manouinsky) tại Đại hội của Đảng bộ thành phố Lêningrát về những vấn đề cơ bản của Đại hội lần thứ 7 Quốc tế cộng sản cùng tạp chí Thư tín quốc tế, cơ quan thông tin của Quốc tế cộng sản.

Bản báo cáo của đồng chí Manuinxki đã phân tích sâu sắc bản chất và nguy cơ của chủ nghĩa phát xít, đề ra mục tiêu trước mắt của giai cấp vô sản, không phai lựa chọn giữa nền chuyên chính vô sản và dân chủ tư sản mà phải lựa chọn giữa nền dân chủ tư sản hay chủ nghĩa phát xít; nhiệm vụ cấp bách của giai cấp vô sản lúc này là phải tập hợp mọi tầng lớp nhân dân, không phân biệt giai cấp, tôn giáo, xu hướng chính trị, để lập Mặt trận nhân dân rộng rãi, đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít và chiến tranh, đòi tự do, cơm áo, hòa bình.

Ngay đêm 14-7-1936, Chi bộ đặc biệt phổ biến ngay nội dung nghị quyết Đại hội lần thứ 7 Quốc tế cộng sản đến khám tù chính trị chuẩn bị được ân xá. Chi bộ còn truyền đạt cho Banh II và tổ chức cho toàn thể đảng viên ở Banh I học tập, nghiên cứu nội dung, nghị quyết mới nhất của Quốc tế cộng sản đối với phong trào cách mạng thế giới.

Trong vòng 4 tháng cuối năm 1936 đã có hơn 500 tù chính trị ở Côn Đảo được trả lại tự do trong đó có đến một nửa là đảng viên cộng sản, chiếm khoảng 50% số tù chính trị ở được ân xá lúc đó1. Lớp đảng viên cộng sản ở tù ra, nhất là số đảng viên từ Côn Đảo trớ về là một nguồn cán bộ quý của Đảng. So với 6 năm trước, khi Đảng ta ra đời, hàng trăm đảng viên từ Nhà tù Côn Đảo về đã trưởng thành về lý luận, dày dạn trong đấu tranh cách mạng và nắm được sự chỉ đạo mới nhất của Quốc tế cộng sản đối với phong trào cách mạng thế giới.

Mặc dù nhiều đồng chí mang bệnh nặng sau những năm bị đày ải và bị đánh đập tàn nhẫn ở Côn Đảo, nhiều đồng chí bị tan nát gia đình bởi sự khủng bố đê hèn của chính quyền thực dân, tuyệt đại bộ phận tù cộng sản được trả lại tự do đều lao vào hoạt động.

Quá trình học tập, nghiên cứu lý luận Mác-lênin trong nhà tù đã củng cố lập trường giai cấp và lòng tin vững chắc vào thắng lợi của lý tưởng cách mạng. Những cuộc đấu tranh một mất một còn chống chế độ đày ải man rợ trong tù đã tôi luyện ý chí và bản lĩnh cách mạng cho những người cộng sản. Vì thế mà chính sách của kẻ thù không tiêu diệt được những người cộng san mà trái lại, họ trở nên “cứng như sắt, vững như đồng”.

Đội ngũ cán bộ này đã tăng cường cả về số lượng và chất lượng lãnh đạo cho Đảng ta, vừa đúng lúc Đảng ta nắm được thời cơ, phát động cao trào Mặt trận dân chủ Đông Dương sâu rộng, hiếm có ở một nước thuộc địa. Trong khi đó thì hàng trăm đáng viên Việt Nam Quốc dân đảng cùng về một lượt chi có vài người tiếp tục hoạt động cách mạng trở lại. Đó là những người đã chuyển hẳn sang hàng ngũ cộng sản, còn tuyệt đại bộ phận đảng viên Quốc dân đảng nằm im, không hoạt động chính trị nữa.

Bằng vốn lý luận và những kinh nghiệm hoạt động đã được tổng kết trong nhà tù, những người cộng sản đã thể nghiệm thành công trên nhiều lĩnh vực hoạt động như củng cố, xây dựng cơ sở Đảng; tổ chức quần chúng; tổ chức mít tinh, biểu tình, diễn thuyết, làm báo công khai… Có những đồng chí trước kia là công nhân, nông dân mà nay ở tù về diễn thuyết rất hay, biết phân tích tình hình thế giới, tình hình Đông Dương và xu thế cách mạng tất yếu của thời đại làm cho quần chúng khâm phục và tin tưởng.

Nhiều đồng chí đã trở thành những cán bộ lãnh đạo xuất sắc của Đảng ta trong cao trào Mặt trận dân chủ Đông Dương (1936-1939) như Nguyễn Văn Cừ, Hoàng Quốc Việt, Lê Quẩn, Nguyễn Chí Diều, Ung Văn Khiêm, Lê Thanh Nghị, Nguyễn Văn Linh, Hà Huy Giáp, Trần Huy Liệu… Đồng chí Nguyễn Văn Cừ được cứ vào Ban Thường vụ Trung ương (3-1938) và sau đó giữ chức Tổng bí thư của Đảng.

Nhà tù đế quốc không tiêu diệt được ý chí của những người cộng sản. Những người cộng sản đã đấu tranh đòi quyền sống và biến nhà tù đế quốc thành nơi đào tạo rèn luyện cán bộ cung cấp cho Đảng. Sau này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đánh giá: “Biến cái rủi thành cái may, các đồng chí của ta đã lợi dụng những ngày tháng ở tù để hội họp và học tập lý luận. Một lần nữa, việc đó chứng to trung chính sách khủng bố cực kỳ dã man của kẻ thù chẳng nhưng không ngăn trở được bước tiến của cách mạng mà trái lại, nó đã trở nên một thứ lửa thử vàng, nó rèn luyện cho người cách mạng thêm cứng rắn, và kết quả là cách mạng đã thắng, đế quốc đã thua”2.

Củng cố lại đội ngũ

Quản đốc Buviê hằn học nhìn từng đoàn tù xuống tàu về đất liền. Tại cầu tàu, hắn đã chỉ vào những người tù Quốc dân đảng và nói với anh em tù cộng sản: “Đáng lẽ chỉ cho những người này về. Các anh về nguy hiểm lắm!”. Trước đó, Buviê đã hậm hực ghi vào hồ sơ của đồng chí Phạm Văn Đồng: “Đừng có đưa người tù này về xứ sở của nó. Việc thả nó ra sẽ trở thành một nguy cơ cho Nhà nước”.

Không đầy 10 năm sau, chính những người tù này đã tham gia lãnh đạo cuộc Cách mạng tháng Tám (1945), lật đổ ách thực dân gần 100 năm của chúng.

Thắng lợi của phong trào Mặt trận nhân dân Pháp và phong trào Mặt trận dân chủ Đông Dương đã làm giảm hẳn số lượng tù chính trì ở Côn Đảo. Năm 1937, nhà ngục Côn Đảo còn 2.018 tù nhân, trong đó có khoáng 200 là tù chính trị. Qua báo chí tiến bộ, Đảng ta đã nhiều lần đòi Chính phủ Pháp phải lập tức trả lại tự do cho tất cả tù chính trị mà chúng còn giam giữ ở Côn Đảo và các nhà tù khác ở Đông Dương.

Chính quyền thực dân Đông Dương tìm mọi lý do để không thả những người tù còn lại. Tuy vậy chúng cũng buộc phải giảm án và để cho tù nhân được hưởng những quyền lợi mà họ đã đấu tranh giành được trong những năm 1934 – 1936.

Chế độ nhà ngục Côn Đảo căn bản không thay đổi. Banh II lúc ấy còn hơn 100 tù chính trị, trong đó có gần 20 đảng viên cộng sản. Anh em cộng sản vẫn tiếp tục nghiên cứu sâu nhiều vấn đề của chủ nghĩa Mác-lênin. Phần lớn số đảng viên Quốc dân đảng còn ở lại đã giác ngộ chủ nghĩa cộng sản. Phái cực đoan còn vài tên. Bọn này lâu lâu lại kiếm chuyện gây gổ, nhưng trước sự đoàn kết nhất trí cao của tù chính trị cộng sản và không được quần chúng Quốc dân đảng đồng tình nên chẳng bao giờ chúng thực hiện được ý đồ xấu. Một số anh em Quốc dân đảng xin sang ở không và sinh hoạt với những người cộng sản.

Banh I khi ấy còn khoảng 40 đảng viên cộng sản vẫn bị cấm cố trong khám 6. Một số đồng chí khác ở chung với thường phạm trong một vài sở tù khổ sai. Chi bộ đặc biệt được củng cố lại. Đồng chí Nguyễn Duy Trinh là Bí thư, chi ủy có các đồng chí Hồ Văn Long, Phạm Hùng, Nguyễn Công Thương (Lê Văn Lương)… Tổ cố vấn không còn nữa.

Hội tù nhân cũng được củng cố lại, đồng chí Tôn Đức Thắng làm Chủ tịch Hội. Phối hợp với phong trào Mặt trận dân chủ Đông Dương đang phát triển mạnh trong nước, ngày 2-2-1937, Chi bộ đặc biệt thảo một bức thư gửi Toàn quyền Đông Dương phản đối chế độ nhà tù hà khắc, đòi tổng đại xá, đòi các quyền tự do dân chủ và tự do triệu tập Đông Dương đại hội.

Các đồng chí từ Nhà tù Côn Đảo trở về hoạt động trong phong trào Mặt trận dân chủ (1936 – 1939) đã gửi ra Côn Đảo nhiều báo chí công khai lúc đó như Tin tức, Nhành Lúa, La Lutte (Tranh đấu), No tre Voi (Tiếng nói của chúng ta), Le humanité (Nhân đạo, cơ quan Trung ương của Đảng cộng sản Pháp), tạp chí Thư tín quốc tế… Đây là thời kỳ mà Chi bộ đặc biệt nhận được nhiều báo chí và tin tức tài liệu, có điều kiện tổ chức học tập, nghiên cứu sâu sắc nhiều vấn đề lý luận, chính trị, thời sự cũng như đường lối và sách lược đấu tranh của Đảng ta.

Giữa năm 1937, bức thư của đồng chí Nguyễn Chí Diễu gửi ra Côn Đảo thông báo chính sách mới và phương châm tổ chức mới của Đảng đã đem lại một không khí hết sức phấn khởi cho anh em. Chi bộ đặc biệt đã tổ chức nghiên cứu một cách nghiêm túc chủ trương thành lập Mặt trận nhân dân chống phát xít của Quốc tế cộng sản và chủ trương thành lập Mặt trận dân chủ Đông Dương của Đảng ta: Vấn đề Sách lược đấu tranh được thảo luận sôi nổi và vận dụng vào hoạt động trong tù.

Các hình thức đấu tranh được áp dụng một cách mềm dẻo hơn. Trước đây thường đấu tranh trực diện, nay được phối hợp nhiều hình thức, kể cả kiến nghị, gây dư luận, vận động, tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ của những người trong hàng ngũ địch, phân hóa và cô lập cao độ kẻ thù chủ yếu…

Năm 1938, đồng chí Nguyễn Ái Quốc từ Liên Xô trở về hoạt động ở Trung Quốc. Đồng chí đã có ý kiến chỉ đạo Đảng ta lúc này không nên nêu những khẩu hiệu quá cao mà phải đấu tranh cho những quyền lợi cấp thiết ở xứ thuộc địa, “đòi các quyền dân chủ, tự do tổ chức, tự do hội họp, tự do báo chí và tự do ngôn luận, đòi ân xá toàn thể chính trị phạm”.

Tờ báo Dân chúng, cơ quan ngôn luận công khai của Đảng cộng sản Đông Dương lúc đó đã vạch trần những thủ đoạn giả dối của Bộ trưởng thuộc địa Mu tê (Marius Moutet) và bọn phản động thuộc địa đang chống lại chương trình của Mặt trận nhân dân Pháp; tố cáo bọn chúng còn giam giữ nhiều người cộng sản như Nguyễn Lương Bằng, Phạm Quang Lịch… ở Sơn La; Tôn Đức Thắng, Nguyễn Duy Trinh, Phạm Hùng, Nguyễn Công Thương… ở Côn Đảo.

Báo Dân chúng đưa lại nhiều tin và bài của báo La Défense (Bảo vệ, cơ quan ngôn luận của Hội cứu tế nhân dân Pháp), phản ánh phong trào đấu tranh sôi nổi của nhân dân lao động Pháp đòi thả hết tù chính trị ở Đông Dương.

Bọn chúa ngục Côn Đảo vẫn bắt tù nhân đập đá, mở thêm các lộ giao thông, mở tuyến đường sắt từ Bản Chế lên Sở Củi và Sở Đá dưới chân Núi Chúa. Trong lúc kíp xe bò chuyên chở củi và vật liệu vẫn được chấp nhận 7 người đẩy một xe, mỗi ngày 3 chuyến thì đột nhiên ở kíp làm đường sắt, bọn gác dang bắt mỗi xe 2 người và bắt đi 6 chuyến trong buổi sáng. Nhóm cộng sản trong kíp làm đường sắt đã lãnh đạo một cuộc đấu tranh bằng hình thức lãn công. Buổi sáng ấy kíp tù chỉ đi 3 chuyến. Hết giờ, bọn gác dang quất roi túi bụi, bắt đi cho đủ 6 chuyến. Giữa trưa, mọi người làm càng uể oải, bọn chúng đánh cả kíp một trận tơi bời rồi phạt hầm những người cầm đầu.

Từ cuối năm 1938, nguy cơ chiến tranh thế giới đã đến gần. Chính phủ Pháp do Đalađiê (Daladier thuộc Đảng xã hội cấp tiến) đứng đầu ngày càng ngả về phía hữu. Giai cấp tư sản Pháp ráo riết chuẩn bị tấn công vào Đảng cộng sản và quần chúng lao động. Chính quyền thuộc địa Đông Dương cũng bắt đầu trở mặt, bắt bớ, khủng bố những người hoạt động trong phong trào Mặt trận dân chủ Đông Dương.

Bọn chúa ngục Côn Đảo ngày càng lì lợm. Mỗi lần tù nhân đấu tranh chúng chỉ nhượng bộ những yêu sách nhỏ như bớt việc khổ sai, cho tắm giặt, cho mua thuốc hút… Chi bộ đặc biệt vẫn theo dõi sát tin tức, tình hình, củng cố tổ chức và chuẩn bị cho những cuộc đấu tranh sắp tới Lợi dụng mỗi lần bọn gác ngục điều động tù nhân, chi bộ lại vận động cho một số đảng viên được nhận vào làm ở các kíp Nhà bếp, Sở tẩy, Bản Chế, Nhà Thương, Sở Lưới, Nhà Đèn và một số sở ngoài. Nhờ đó mà chi ủy trong cấm cố vẫn nắm được tin tức hàng ngày trên đảo, liên hệ được với các cơ sở và liên lạc được với Xứ ủy Nam Kỳ.

Trong lúc tình hình ở Đông Dương và ở Pháp đang xấu dần đi, những người cộng sản ở Côn Đảo tích cực chuẩn bị các mặt tư tưởng và tổ chức để bước vào một thời kỳ đấu tranh mới, trong điều kiện có thể sẽ gay go và quyết liệt hơn.

Giai đoạn: Nhà tù Côn Đảo từ 1862 đến 1930

Nguồn: Lịch sử nhà tù Côn Đảo 1862 – 1975

Rate this post

Để lại một bình luận