Đền thờ Công chúa Bàn Tranh hay còn được người dân trên đảo gọi là đền thờ Bà Chúa Xứ, là ngôi đền cổ do người Chăm xây dựng từ cuối thế kỷ XVI. Đền thờ được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng di tích lịch sử quốc gia tại Quyết định số 227/QĐ-BVHTTDL ngày 28/01/2015.
Theo truyền thuyết, Bàn Tranh là công chúa vương quốc Chămpa, do phạm tội đã bị vua cha đày ra đảo khi còn rất trẻ cho đến về già cũng không một lần được trở về đất liền và sau khi mất, xác Bà đã được an táng tại đây. Khoảng đầu thế kỷ XVII ngôi đền được người Việt tiếp quản, gìn giữ và thờ phụng cho đến ngày nay.
Đền thờ Bà Chúa Xứ ở Phú Quý
Đền thờ công chúa Bàn Tranh tọa lạc tại xã Long Hải, huyện Phú Quý, tỉnh Bình Thuận và có hướng chính quay về phía Nam; cách núi Cao Cát khoảng 500m về phía Tây – đây là ngọn núi hùng vĩ, nên thơ và được coi là thắng cảnh đẹp nổi tiếng của đảo Phú Quý. Từ cảng Phan Thiết theo đường biển về hướng Đông Nam 56 hải lý (105km) là đến đảo Phú Quý, từ đây theo con đường nhựa liên xã đi qua xã Long Hải khoảng 8km là đến di tích.
Đền thờ công chúa Bàn Tranh thể hiện bước kế thừa, tiếp biến và dung hợp văn hóa của cộng đồng người Việt khi đến tiếp quản và xây dựng cuộc sống trên đảo Phú Quý. Điều đặc biệt ở đây là tín ngưỡng thờ công chúa Bàn Tranh đã trở thành tín ngưỡng chung và thiêng liêng nhất của người dân trên toàn đảo; việc trông coi, thờ phụng và cúng tế hàng năm được diễn ra luân phiên giữa các làng trên đảo, mỗi làng được lưu giữ sắc phong, phụng thờ và cúng tế trong thời gian 1 năm, qua năm sau sẽ luân chuyển sang làng khác và cứ thế luân chuyển khắp các làng trên đảo theo trình tự.
Từ khi tạo lập đến nay, đền thờ công chúa Bàn Tranh đã trải qua gần 400 năm tồn tại, do tác động của môi trường biển đảo khắc nghiệt nên ngôi đền đã được các thế hệ người Chăm và người Việt tiếp nối tu bổ, tôn tạo nhiều lần nhưng vẫn giữ nguyên được hướng của ngôi đền và phần mộ của công chúa Bàn Tranh trong đền thờ, lấy đó làm cốt để đặt khám thờ bên trên. Trong đó, đợt trùng tu năm 2009 đã làm cho diện mạo đền thờ trở nên bề thế và trang nghiêm với các hạng mục: Cổng chính, Cột cờ, Bình phong, Võ ca và Chính điện được phân bố trên một trục thẳng; ở về phía bên hữu hơi lệch về phía sau theo hướng nhìn từ trước vào là nhà Khói, bao bọc di tích là hệ thống tường thành kiên cố.
Đền thờ công chúa Bàn Tranh còn lưu giữ 3 bia Kut thờ công chúa Bàn Tranh được tạc từ đá hoa cương màu xám xanh có niên đại khoảng 400 năm. Các di vật là hoành phi, câu đối, chiêng, trống, chuông, chân đèn, đỉnh đồng, lư hương và 5 sắc phong của các đời vua triều Nguyễn phong tặng cho công chúa Bàn Tranh. Ngoài ra, còn có 3 sắc phong chung cho cả công chúa Bàn Tranh và thầy Sài Nại. Thầy Sài Nại là thương gia sống vào thế kỷ XVI, thường theo các thương thuyền vượt đại dương đến nhiều nước để buôn bán và bên cạnh nghề buôn ông còn là một thầy thuốc giỏi. Trong một chuyến hải trình, thuyền bị bão tố đẩy dạt vào đảo Phú Quý và lúc này trên đảo đã có công chúa Bàn Tranh; Thầy Sài Nại đã kết nghĩa chị em với công chúa, ở lại đảo sinh sống, hành nghề bốc thuốc chữa bệnh cứu giúp dân nghèo. Sau khi qua đời, ông đã được người dân an táng, lập đền thờ trên đảo.
Vào một ngày nọ, vì lý do cãi lại thánh chỉ của vua cha nên Bàn Tranh công chúa bị khép vào tội phản nghịch, phải chịu cảnh lưu đày tới nơi biên ải, vĩnh viễn không được trở về. Dù phép nước nghiêm cẩn, nhưng vì thương con nên vua cha lệnh cấp cho hai tỳ nữ, một số vật dụng như: lều, bạt, dụng cụ lao động, một số hạt giống và lương thực đủ dùng trong một năm. Sau một thời gian dài ngược sóng lênh đênh trên biển, đoàn thuyền áp giải người con gái phạm luật triều đình cũng đã cập bến, đến đảo an toàn.
Khi thuyền cập bến, Phú Quý hiện ra là một hòn đảo hoang sơ, vắng vẻ và trơ trọi vô cùng! Trên đảo lúc bấy giờ chỉ toàn là cây rừng, cỏ dại mọc um tùm; cộng thêm có gió bấc thổi mạnh và cái rét cuối năm nên quang cảnh xứ đảo chiều đông càng thêm hoang tàn, xơ xác. Cảnh vật ấy càng khiến làm cho lòng người đi đày càng thêm cô quạnh.
Nhưng âu là số phận đã định, Bàn Tranh công chúa cùng tỳ nữ của mình tìm nơi dựng lều, quyết định an trụ và bắt đầu công cuộc khai hoang phục hóa, trồng trọt mưu sinh. Một túp lều bằng cỏ tranh nằm nép mình bên chân núi Cao Cát thuộc thôn Đông Hải, xã Long Hải hiện nay đã được dựng lên để che sương gió, nắng mưa.
Trời không phụ lòng người, từ một hòn đảo hoang vu, cỏ dại mọc nhiều, nhờ sức người khai phá, chăm bón, tưới tiêu đã trở thành vùng đất trù phú, được phủ bởi màu xanh mượt mà của những nương khoai, bắp, đậu… Đặc biệt, là màu xanh giống lúa cạn (lúa đỏ) và bông để dệt vải Bạch bố dùng để nộp thuế cho triều đình mà sách Đại Nam thực lục và Đại Nam nhất thống chí (2 bộ chính sử do triều Nguyễn (1802 – 1945) biên soạn) đề cập.
Thời gian thấm thoát trôi qua, những cánh buồm xuôi ngược, từ các tỉnh miền Trung, ngư dân người Việt đi biển tránh bão tố ghé nơi đây ẩn nấp, thấy đất lành nên họ ở lại làm ăn. Từ đây, nhiều làng mạc, xóm thôn được mọc lên ngày càng nhiều.
Do có công đầu trong việc đưa lên đảo Phú quý những giống cây lương thực, hoa màu và hướng dẫn người dân trên đảo khai khẩn đất đai làm ruộng vườn, hình thành xóm làng và chỉ dạy người dân cách trồng trọt, làm các nghề thủ công. Với những công lao to lớn đó, nhân dân trên đảo đã tôn vinh, gọi là Bà Chúa đảo.
Sau khi Bà mất, để tưởng nhớ công ơn người dân đã xây đền thờ Bà. Hàng năm đúng vào ngày mất của Bà, nhân dân Phú Quý mở hội tại đền thờ, trước là để tri ân công đức Bà, sau là để những người con của đảo có dịp gặp gỡ, vui chơi và cùng hướng tới những giá trị cội nguồn tốt đẹp của dân tộc.
Do khi sống có nhiều công trạng trong việc khai khẩn đất đai, quy tụ nhân dân hình thành xóm làng, khi mất đi linh hiển bảo vệ vùng biển phía Nam của Tổ quốc, hộ trì dân đi biển tai qua nạn khỏi trong nhiều trận bão tố, nên công đức của Bà được truyền tụng: Hạnh đức của Bà đời chiêm ngưỡng ngàn năm tôn kính; Công ơn sự nghiệp độ linh thiêng muôn thuở còn ghi.
Các vua triều Nguyễn cũng đã phong Bà là Hiển dũng Chương uy Hùng nghị Đoan túc chi Thần, từ đời vua Minh Mạng (1820-1840) cho tới vua Khải Định (1916-1925) tặng cho Bà 8 sắc phong, giao cho nhân dân đảo Phú Quý thay nhau hương khói, phụng thờ.
Ngày nay tuy người Chăm không còn sinh sống trên đảo, nhưng câu chuyện về nàng công chúa Chăm đã trở thành tấm gương sáng, đi vào tâm thức người dân mà cho đến hôm nay danh thơm tiếng tốt vẫn được gìn giữ và trao truyền cho hậu thế.
Tình sử Công chúa Bàn Tranh trên đảo Phú Quý
Theo sử Chăm, Công chúa Bàn Tranh là con gái út của vua Po Kathit, còn có tên Po Dam, hiệu Bàn La Trà Nguyệt (Maha Banla Tranguyet) làm vua từ năm 1458 đến 1460. Giai đoạn này nội chiến xảy ra liên miên, do tranh giành ngôi vương, Vương quốc Champa chia thành hai Tiểu vương quốc Bắc – Nam.
Công chúa Bàn Tranh của Tiểu vương quốc Champa Panduranga (Chiêm Thành Nam – Phan Rang, gồm các vùng đất Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận và Bình Thuận) đem lòng yêu say đắm chàng trai Po Sanimpan cùng dân tộc nhưng theo đạo Hồi (Isalam cũ), phạm điều cấm kỵ tôn giáo đối với người Chăm theo đạo Bà La Môn (Ấn Độ giáo) truyền thống. Cuộc tình của Công chúa Bàn Tranh đã gây ra sóng gió dữ dội trong Hoàng tộc, gây bất bình trong thần dân Chiêm Thành lúc bấy giờ.
Dù rất yêu thương công chúa, nhưng Tiểu vương Po Kathit không thể chấp nhận một cuộc hôn nhân khác tôn giáo và sự phản đối gay gắt của thần dân với Hoàng tộc. Vua đành để cho quần thần khép nàng vào tội phản nghịch, buộc ly khai khỏi Hoàng tộc, phạt lưu đày đến đảo hoang, vĩnh viễn không bao giờ được trở về. Tiểu Vương cấp cho Bàn Tranh hai tỳ nữ theo hầu cùng một số dụng cụ sản xuất, đánh bắt hải sản, lều bạt và nhiều hạt giống lương thực để bắt đầu một cuộc sống nơi hoang đảo như một ân huệ sau cùng đẫm tấm lòng nhân ái của vua cha.
Sau nhiều ngày giong buồm, chèo ngược sóng lênh đênh trên biển xuôi về hướng Đông Nam, nơi có Thánh Ala ngự trị vĩnh hằng trong tôn giáo Bà La Môn, đoàn thuyền áp giải Công chúa Bàn Tranh đã cập vào bờ của một hòn đảo có hình dáng như một con cá Thu, chính là xã Ngũ Phụng, Cù Lao Thu – huyện đảo Phú Quý ngày nay.
Hơn 100 binh sĩ và cung hầu rước công chúa xuống thuyền lạy từ biệt lần cuối cùng để giong thuyền về bờ, bỏ lại công chúa và một số tùy tùng, người hầu tâm phúc nơi hoang đảo, bắt đầu một sự sống mới. Công chúa Bàn Tranh cùng những người hầu dựng lều ngay dưới chân núi Cao Cát, thuộc thôn Đông Hải, xã Long Hải ngày nay, tiến hành phát quang cỏ dại, chặt cây rừng, dọn đất, tìm nguồn nước ngọt và giữ lửa để bắt đầu tạo dựng cuộc sống tự lập, tự cung, tự cấp như thuở hồng hoang của lịch sử. Công chúa Bàn Tranh và những người hầu tâm phúc chính là những ngư dân đầu tiên khai phá vùng đất hoang đảo.
Với dụng cụ đánh bắt cá mang theo, với cuốc xẻng, rựa dao, những cư dân đầu tiên bằng kinh nghiệm, truyền thống cần mẫn, chăm chỉ, rất giỏi nghề trồng trọt, chăn nuôi, đánh bắt hải sản được truyền lại từ bà mẹ Chăm vĩ đại của làng Mỹ Nghiệp (Play Chakleng), mẹ vua Po Klong Garai thế kỷ XIII, nên chẳng bao lâu trên hoang đảo, sự sống đã được gieo hạt, nẩy mầm và sinh sôi từng ngày, từng ngày…
Năm 1460, Vua Po Kathit nhường ngôi cho em trai là Trà Toàn, vương triều diễn ra nhiều xung đột. Biến cố lịch sử với cuộc “Bình Chiêm” của Vua Lê Thánh Tôn nước Đại Việt). Các triều vua Chiêm Thành về sau do nhiều cuộc nội chiến, tranh giành nhau dần dần suy yếu. Khi Tiểu Vương Po Kathit qua đời, vua kế vị từng có chỉ dụ cho Công chúa Bàn Tranh được phép trở về đất liền, nhưng với tình yêu và nỗi đau trong quá khứ, công chúa đã khước từ, chấp nhận cuộc sống vất vả nhưng tươi vui trên vùng đất đảo đã dày công tạo dựng.
Khi công chúa qua đời, người dân trên đảo lập mộ bia chôn cất và xây miếu thờ Bà Chúa. Bà được vinh danh là người đầu tiên lập ra hòn đảo ngọc Phú Quý lung linh giữa biển Đông ngày nay. Đất quanh miếu thờ được dân gọi là ruộng Vua, di tích giếng nước cổ người Chăm tại Ngũ Phụng, Đông Hải, Tam Thanh ngày nay vẫn còn với thành xây đá khối, lớp sát đáy có chèn gỗ. Ghi nhận những công lao to lớn của Công chúa Bàn Tranh, các vua Triều Nguyễn đã phong bà là Hiển dũng Chương uy Hùng nghị Đoan túc chi Thần. Từ đời vua Minh Mạng (1820-1840) cho tới vua Khải Định (1916-1925) đã ban tặng cho bà 8 sắc phong, giao cho ngư dân đảo Phú Quý thay nhau hương khói, phụng thờ và trao truyền cho hậu thế.
Trong miếu thờ Bà Chúa, hiện còn một số di vật linh thiêng như bài vị, bệ thờ, liên đối, hoành phi viết bằng chữ Hán, ca ngợi tài năng, công đức Công chúa Bàn Tranh như:
Hiển hách miếu thần ngàn năm còn đó
Linh thiêng cung thánh vạn thuở chẳng dời
Câu đối khắc bằng chữ Hán gắn ở cột đền thờ có nội dung:
Linh thần hiển hách phù trong đảo
Giúp nước thay trời cứu vạn dân.
Lễ hội đền thờ Công chúa Bàn Tranh
Lễ hội đền thờ công chúa Bàn Tranh diễn ra vào ngày mùng 3 tháng giêng hàng năm và đây cũng là ngày giỗ Bà. Vào dịp lễ hội, Ban Quản lý đền thờ tổ chức nghi lễ thỉnh rước sắc phong của công chúa Bàn Tranh tại làng đang lưu giữ, thờ phụng sắc về đền thực hiện tế lễ. Đoàn lễ khởi hành nghinh rước sắc phong tại làng đang giữ sắc rồi đi qua các ngõ đường trong làng, sau đó thẳng tiến về đền thờ công chúa Bàn Tranh. Khung cảnh rước sắc phong diễn ra trang nghiêm, thành kính; nhưng cũng không kém phần đông vui, nhộn nhịp hòa với âm thanh rộn rã của nhạc lễ nổi lên liên tục trên đường đi. Âm sắc của lễ hội hòa vào giữa những dòng người trực tiếp tham gia đoàn lễ với những dòng người từ khắp các làng quê trên đảo cùng tề tựu hai bên đường và đi theo đoàn lễ. Đây là nét đẹp riêng biệt thể hiện sắc thái văn hóa độc đáo mang tính đặc thù gắn với đời sống tín ngưỡng, tâm linh thiêng liêng của người dân xứ đảo từ bao đời nay, khó có thể tìm thấy ở trên đất liền hay các hòn đảo khác ở Việt Nam.
Trải qua những thăng trầm bể dâu của lịch sử, miếu thờ Bà Chúa vẫn tồn tại trên hòn đảo Phú Quý như một khẳng định vị thế chủ quyền của những cư dân của cộng đồng các dân tộc Việt Nam đầu tiên, đã khai khẩn vùng đất đảo xinh đẹp ngọc ngà giữa biển Đông.
Phú Quý ngày nay còn là một điểm du lịch độc đáo với những đặc sản hải sản trên đảo và những di tích, thắng cảnh đẹp ngẩn ngơ say đắm du khách. Có dịp đến thăm Phú Quý, du khách còn nghe kể nhiều chuyện thú vị về tập quán, tín ngưỡng của người dân bản xứ. Trong đó có chuyện về trai gái trên đảo không bao giờ tổ chức đám cưới hỏi rình rang như người trong đất liền.
Có thể, từ ngàn xưa, do ảnh hưởng tập tục mẫu hệ của Công chúa Bàn Tranh và mối tình sử bi thương, nghiệt ngã của công chúa nên sau này có sự hội tụ của nhiều cư dân miền Trung đến đây lập nghiệp nhưng trên đảo vẫn duy trì đời sống văn hóa, tinh thần riêng biệt. Trai gái lớn lên tự do tìm hiểu nhau và khi nhà gái chấp thuận thì chàng trai về nhà vợ ở rể. Lao động biển rất cần ngư dân ra khơi mỗi ngày. Khi gia đình có việc cần chàng trai xin phép về gia đình giúp đỡ cha mẹ trong thời gian nhất định. Cho đến khi nào cô gái sinh được con trai, chàng trai mới dắt dâu con về gia đình chồng trình báo ra mắt.
Gia đình nhà trai tổ chức một tiệc mừng, báo cáo với họ hàng thân tộc về con dâu và cháu nội. Không lễ dạm hỏi, vu quy, không đám cưới, không xe hoa… nhưng hầu như các cặp vợ chồng trẻ trên đảo đều sống thủy chung, hạnh phúc với nhau cho đến ngày răng long, đầu bạc. Tuy cộng đồng cư dân trên đảo rất nhỏ, nhưng sống khu biệt ba xã cách biệt khác nhau. Điều kiện thiên nhiên, thời tiết, khí hậu khác lạ so với đất liền. Tín ngưỡng, tập tục của cư dân sống trên đảo cũng có nhiều nét khác.
Vài năm gần đây, do sự phát triển kinh tế, xã hội và công nghệ thông tin đã tác động, ảnh hưởng đến đời sống cư dân đảo đặc biệt là giới trẻ. Nhưng người dân trên đảo Phú Quý vẫn lưu giữ những giá trị văn hóa, tinh thần và lịch sử trên đảo theo cách riêng của họ, tạo nên một nét chấm phá văn hóa đặc sắc, độc đáo giữa đất trời mây nước phương Nam.
Vào các dịp lễ hội, còn diễn ra nhiều loại hình diễn xướng văn hóa dân gian như chèo Bả trạo, hát Bội, múa Tứ linh… là những loại hình diễn xướng dân gian độc đáo của người dân đảo Phú Quý.