Ngày nay, Côn Đảo là một khu di tích lịch sử cách mạng vượt trên mọi thời đại, một vùng đất hứa của Việt Nam giành cho mọi người hướng về, tìm đến để nhớ lại cội nguồn và giáo dục truyền thống Cách mạng cho thế hệ tuổi trẻ hôm nay và mãi mãi về sau…
HỆ THỐNG NHÀ TÙ CÔN ĐẢO (1862-1975)
A. Các trại giam thời Pháp
1. BAGNE (BANH) I: Còn được gọi các tên lao I, trại CỘNG HOÀ, TRẠI 2 và sau cùng ( 11/1974 ) được gọi là trại PHÚ HẢI xây dựng năm 1862 và chỉnh trang lại kiên cố năm 1896.
– Tổng diện tích 12.015m2
– Trong đó diện tích phòng giam 2.915m2
– Nhà phụ thuộc 1.531m2
– Khoảng trống, cây xanh 7.569m2
– Bao gồm: 10 phòng giam tập thể (chia làm 2 dãy, mỗi dãy 5 phòng)
– 01 phòng gaim đặc biệt
– 20 xà lim (hầm đá
– 01 hầm xay lúa (thời Mỹ nguỵ chuyển thành bệnh xá)
– 01 khu đập đá (khổ sai trong Banh)
Ngoài ra còn có các công trình phụ như: Câu lạc bộ, phòng hớt tóc, nhà bếp, nhà ăn, giảng đường, nhà nguyện, phòng trật tự, nhà kho, văn phòng giám thị và sân vườn.
Đây là trại giam lớn và cổ nhất ở Côn Đảo, nơi đây mang đậm dấu tích của các thời kỳ lịch sử.
2. BANH II : Còn gọi các tên: Lao II, trại NHÂN VỊ, trại 3, và sau cùng là trại PHÚ SƠN.
– Xây dựng năm 1916, nằm cạnh Banh I
– tổng diện tích: 13.228m2
– Trong đó diện tích phòng giam: 2.414m2
– Nhà phụ thuộc 854m2
– Khoảng trống, cây xanh 9.960m2
– Bao gồm: 13 phòng giam tập thể, 01 khu biệt lập có 14 xà lim .
– 01 phòng tối (nằm cạnh văn phòng giám thị)
Ngoài ra còn có các công trình phụ như: Phòng y tế, nhà ăn, nhà bếp, câu lạc bộ, phòng hớt tóc, phòng trật tự, văn phòng giám thị và sân vườn.
3. BANH 3: Còn gọi các tên: Lao III, Trại BÁC ÁI, Trại 1, và sau cùng là trại PHÚ THỌ.
Xây dựng năm 1928, cách Banh I, Banh II khoảng 1km.
– Tổng diện tích: 12.700m
– Diện tích phòng giam: 1.200m2
– Thời Pháp gồm có: 3 dãy phòng giam, trong đó có 2 dãy phòng giam tập thể và 1 dãy biệt lập, 1 khu nhà bếp , 1 khu bệnh xá (dành để cách ly bệnh kiết lỵ).
Sau cách mạng tháng 8-1945 trại giam này được chỉnh trang lại còn 2 dãy phòng giam (theo số thứ tự từ phòng 1-8)
THỜI MỸ-NGUỴ: Xây thêm 2 phòng 9 và 10 phía sau bệnh xá.
Đặc biệt phòng 10, Mỹ-Nguỵ dùng làm khu biệt lập để bổ sung cho khu chuồng cọp nên được ngăn ra 15 khu biệt giam, trên trần không có song sắt như chuồng cọp, chỉ đang bằng kẻm gai chằng chịt. Người tù bị giam ở đây đã đặc cho nó một cái tên rất dí dỏm: “BIỆT LẬP CHUỒNG GÀ”
Các công trình phụ: Nhà ăn, nhà kho, nhà bếp, văn phòng giám thị và sân vườn.
4. BANH III PHỤ: Còn gọi các tên Lao III phụ, trại phụ BÁC ÁI, TRẠI 4 và cuối cùng là TRẠI PHÚ TƯỜNG.
– Xây dựng năm: 1941
– Tổng diện tích: 5.804m2
– Diện tích phòng giam: 962m2
– Nhà phụ thuộc: 152m2
– Khoảng trống: 4.690m2
– Bao gồm: 08 phòng giam tập thể (chia làm 2 dãy, mỗi dãy 4 phòng)
Công trình phụ: Nhà bếp, nhà kho, bệnh xá và sân vườn.
* Banh III cùng với Banh III phụ và trại 5 ( thời Mỹ -nguỵ xây dựng 1962) tạo thành 1 cụm bao quanh khu biệt lập nổi tiếng: “Chuồng cọp Pháp”
5. CHUỒNG CỌP PHÁP
– Xây dựng năm: 1940
– Tổng diện tích: 5.475m2
– Diện tích phòng giam 1.408m2
– Phòng tắm nắng 1.873m2
– Khoảng trống: 2.194m2
– Bao gồm: 120 phòng biệt giam (chia làm 2 khu, mỗi khu 60 phòng
Bên trên có song sắt kiên cố và có hành lang ở giữa dành cho cai ngục, trật tự đi lại kiểm soát, hành hạ người tù (ném vôi bột, dội nước bẩn).
Ngoài ra còn có 60 phòng không có mái che được gọi là “Phòng tắm nắng” (chia làm 4 dãy, mỗi dãy 15 phòng).
Phòng tắm nắng còn là nơi để dùng hành hạ, phơi nắng, phơi mưa người tù hoặc là lôi người tù ra đó để đánh đập, tra tấn.
Cuối năm 1970 Mỹ-Thiệu ra lệng giải toả chuồng cọp (họ biến khu biệt lập này thành chuồng nuôi Thỏ) để xoa dịu làn sóng đấu tranh của tù nhân cũng như phong trào yêu nước ở miền nam Việt Nam và dư luận Quốc tế.
6. BIỆT LẬP CHUỒNG BÒ :
Thời Mỹ-Nguỵ còn gọi là trại An Ninh Chuồng Bò.
– Xây dựng năm: 1930
– Tổng diện tích: 4.410m2
– Diện tích phòng giam: 547m2
– Chuồng trại: 270m2
– Khoảng trống: 3.293m2
– Bao gồm: 9 phòng biệt giam, 24 hộc chứa heo, 2 chuồng nhốt bò, một hầm chứa phân bò.
Năm 1963: Để mở rộng nhà tù Mỹ-nguỵ sữa chữa 24 hộc nuôi heo thành 24 phòng giam.
Hầm phân bò: Sâu 3m chia làm 2 ngăn có hệ thống cống ngầm từ chuồng nuôi bò dẫn sang.
Địch sử dụng hầm phân bò này để ngâm người tù xuống đó tra tấn hành hạ cực kỳ dã man và bí mật.
B. Các trại giam thời Mỹ-nguỵ
7. TRẠI 5B : Còn gọi là trại PHÚ PHONG
– Xây dựng năm: 1962
– Tổng diện tích: 3.594m2
– Diện tích phòng giam 1.400m2
– Bao gồm: 12 phòng giam tập thể chia làm 3 dãy (mỗi dãy 4 phòng) và một khu nhà bếp.
8. TRẠI 6: Còn gọi là trại PHÚ AN
– Xây dựng năm: 1968
– Tổng diện tích: 42.140m2
– Diện tích phòng giam 2.556m2
– Nhà phụ thuộc: 696m2
– Nhà ở: 27m2
– Khoảng trống: 38.861m2
Bao gồm: 20 phòng gaim và 8 xà lim được chia làm 2 khu A và B, (mỗi khu có 10 hpòng giam và 4 xà lim).
Ngoài ra còn có nhà bếp, nhà ăn, nhà trật tự.
9. TRẠI 7: Còn gọi là trại PHÚ BÌNH hay “Chuồng cọp kiểu Mỹ”
– Xây dựng năm: 1971
– Tổng diện tích: 25.768m2
– Trong đó: Diện tích phòng giam 2.562m2
– Nhà phụ thuộc: 637m2
– Nhà ở: 173m2
– Khoảng trống: 22.369m2
Bao gồm: 384 phòng biệt giam chia ra làm 4 khu: AB – CD – EF- GH. Mỗi khu có 2 dãy, mỗi dãy 48 phòng. Đây là kiểu nhà giam đặc biệt bằng bê tông không có bệ nằm, người tù phải nằm dưới nền xi măng ẩm thấp.
Đây cũng là nơi nổi dậy đầu tiên vào lúc 12 giờ đêm 30-4 rạng sáng 1-5-1975 (tại khu GH) giải phóng nhà tù Côn Đảo thoát khỏi cảnh “Địa Ngục Trần Gian” suốt 113 năm.
10. TRẠI 8: Còn gọi là trại PHÚ HƯNG
Xây dựng năm: 1971
Tổng diện tích: 26.200m2
Bao gồm: 20 phòng giam và 8 xà lim, chia ra làm 2 khu, mỗi khu 10 phòng và 4 xà lim
11. TRẠI 9: Mỹ-nguỵ đang cho đổ bê tông, đúc cột, nền thì hiệp Pa-ri ký kết nên đã bỏ dở.
* HỆ THỐNG NHÀ TÙ CÔN ĐẢO qua 2 thời kỳ PHÁP – MỸ xây dựng tổng cộng:
– 127 phòng giam
– 42 xà lim
– 504 phòng “Biệt lập chuồng cọp”
Bên cạnh đó còn có các cơ sở tù để đày ải người tù làm lao dịch khổ sai nhằm giết dần, giết mòn sinh mạng người tù, đồng thời phục vụ toàn diện các mặt đời sống cho bộ máy hành chánh của địch.
CÁC SỞ TÙ
Các sở này lần lượt xuất hiện trước sau không đồng loạt, nhằm 2 mục đích:
– Phục vụ toàn diện các mặt đời sống cho bộ máy hành chánh của địch và cho đời sống của người tù trên đảo.
– Cải tạo người tù bằng lao động khổ sai.
Dựa theo các tài liệu, tính đến khoảng 1930 có ít nhất 18 sở tù sau đây đã đi vào hoạt động.
1. SỞ LƯỚI : Chuyên đánh bắt hải sản quản lý ghe xuồng, khi cần thì truy bắt tù vượt ngục trên biển.
2. SỞ RUỘNG : Chuyên đóng cày bừa, sản xuất dụng cụ công tác và làm ruộng.
3. SỞ LÀM ĐÁ : Ở dưới chân núi chúa. Chuyên khai thác đá bằng cốt mìn và các dụng cụ thủ công, đập thành đá hộc, đá dăm để làm đường.
4. SỞ KÉO CÂY : Sở này còn gọi là sở Ông Câu, chuyên khai thác gỗ lớn thả theo sườn úi cho lăn xuống biển rồi kết thành bè chờ xà lúp kéo về.
5. SỞ CHUỒNG BÒ : Có hai công việc :
– Chăn nuôi bò, heo .
– Kiếm 4 loại củi khác nhau: Củi dùng cho nhà máy nhiệt điện, củi đốt tha, củi nung vôi và củi nầu bếp ở các Banh, đây là một trong những sở phải làm việc nặng nề, lao lực đáng sợ nhất .
6. SỞ LÒ GẠCH: Sản xuất gạch xây dựng các nhà ở và trại giam.
7. SỞ LÒ VÔI : Sở này do kíp tù ở khám chỉ tồn phụ trách 2 khâu: Đi lấy san hô ngoài biển đem về nung san hô thành vôi bột.
8. SỞ MUỐI: Làm ruộng muối ở làng An Hội.
9. SỞ BÃN CHẾ: Là xưởng tiểu thủ công nghiệp, khai thác tay nghề của tù để làm các nghề mây, cẩn ốc, đồi mồi, mộc, cơ khí.
10. SỞ TIÊU: Là một nông trường rộng lớn, đầy làm sơn chướng khí, người Pháp cho chồng cây mít rồi chồng tiêu, cho tiêu leo lên cây mít.
11. SỞ RẪY AN HẢI : Là nông trường lớn ở làng An Hải. Trồng nhiều loại cây ăn trái và cung cấp giống cây trồng cho toàn đảo.
12. SỞ CỎ ỐNG: Nông trường lớn hơn ở An Hải, thuộc làng Cỏ Ống cây trồng cũng phong phú và đa dạng hơn nhưng chủ yếu là sở lúa. Sở này cách trung tâm 12km nên việc chuyên chở đi lại rất khó khăn và vất vả.
13. SỞ HOÀ NI: (Vanilliers) trồng cây Va-ni để đưa về Sài Gòn bán. Về sau sở Hoà Ni còn là sở trồng trọt hoa màu.
14. SỞ BÔNG HỒNG: Lúc đầu trồng bông hồng, sau chuyển thành rau quả (còn gọi là sở Bông Hường).
15. SỞ RẪY ÔNG LỚN: Là khu vườn rộng lớn của viên quản đốc nhà tù, trồng cây ăn trái và nuôi vích, Đồi mồi.
16. SỞ ÔNG ĐỤNG: Trồng cây màu như khoai, dắn, bầu, bí sở này ở xa nhất, bên sườn phía tây Núi Chúa.
17. SỞ VỆ SINH : Trưng dụng tù ở các trại để lo việc vét đường, hốt rác, đổ phân, đúng da đây chỉ là khu tạp dịch hàng ngày.
18. SỞ ĐẤT DỐC : Trồng cây ăn trái, chăn nuôi gia cầm, gia súc.
KHU NHÀ CHÚA ĐẢO
Tổng diện tích 18.600m2 trong đó nhà chính và phụ 1.250m2, sân vườn 17.000m2.
Đây là nơi ở và làm việc của 53 đời chúa Đảo trải qua 113 năm (1862-1975)
Từ sau ngày giải phóng đến nay, nhà chúa Đảo được dùng làm nơi trưng bày lưu niệm về khu di tích Côn Đảo.
CẦU MA THIÊN LÃNH
Dưới chân núi Chúa, con đườngtừ thị trấn chạy tới đó chia làm 3 nhánh:
– Nhánh thứ nhất chạy từ Nghĩa Trang Hàng Dương.
– Nhánh thứ nhì chạy qua khu Sở Tiêu.
– Nhánh thứ 3 (ở giữa 2 nhánh kia) chạy thẳng lên đèo Ông Đụng qua rặng núi tới bãi Ông Câu bên bờ tây của Đảo.
Từ năm 1930-1945 thực dân Pháp mở nhánh này đến sở Ông Câu để tiện kiểm soát tù vượt ngục. Khi mở đường bọn chúa ngục bắt tù nhân khiêng đá xây trên đèo Ông Đụng một cây cầu. Do địa thế núi cheo leo, hiểm trở, lao dịch nặng nhọc quá sức, người tù bị chết hại đến 356 người (theo người tù nhẩm tính) mà cầu chỉ mới xây được 2 mố cầu, mỗi mố cao khoảng 8m . Cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công, công trình này bỏ dở dang. Tên MA THIÊN LÃNH do tù nhân lấy tên ngọn núi Ma Thiên Lãnh ở Triều Tiên, địa thế hiểm ác khó lên xuống, phỏng theo truyện tàu “Tiết Nhân Qúi Chinh Đông” đặt tên cho cầu này.
CẦU TÀU LỊCH SỬ 914
Cầu tàu nằm tại trung tâm bãi biển chính của thị trấn Côn Đảo (phía trước nhà Chúa Đảo) , được khởi sự xây dựng từ năm 1873. Đây cũng là nơi chứng kiến nỗi cực nhục đầu tiên của những người bị đưa ra Đảo tù đày, nhiều người chỉ qua cầu một lần rồi vĩnh viễn yên nghĩ tại Côn Đảo. Nhưng cầu tàu cũng là chứng kiến những giờ phút vinh quang xúc động mỗi dịp Đảo được giải phóng, Con số 914 được đặt tên cho cầu là do người tù nhẩm tính số người tù ngã xuống vì lao dịch, tai nạn trong quá trình khổ sai xây cầu . Có nhiều tài liệu nêu danh cầu tàu có số khác nhau: 871, 917, 917 nhưng được nhiều người biết phổ biến nhất với danh số 914.
CÔNG QUÁN
Phía trong của cầu tàu, bên trái (cách bờ biển khoảng 20m) có một nhà CÔNG QUÁN được xây dựng cùng thời điểm với Cầu Tàu, trên tường có tấm biển ghi bằng chữ Pháp: “Dans cette maison, vécut le grand compositeur Camille Saint-Saeens du 20 mars au 19 Avril 1895. II acheva 1/opéra BRUNEHILDA” . Có nghĩa là: Tại ngôi nhà này, nhà soạn nhạc vĩ đại Camille Saint-Saeens đã từng sống từ ngày 20-3 đến 19-4-1895. Tại đây ông đã hoàn thành vở nhạc kịch BRUNEHILDA . Đó là dấu tích của một nhà soạn nhạc lớn của nước Pháp có chân trong viện Hàn Lâm ở Pa-Ri đã đến thăm Côn Đảo.
NGHĨA TRANG HÀNG DƯƠNG
Có diện tích khoảng 20 ha, là nơi yên nghĩ của hàng vạn chiến sĩ cách mạng và đồng bào yêu nước Việt Nam qua nhiều thế hện bị tù đày kéo dài 113 năm đã lần lượt hy sinh dưới ách tàn bạo của thực dân và đế quốc. Nghĩa Trang Hàng Dương Côn Đảo là một di tích căn thù, có giá trị tố cáo chế độ thực dân, đế quốc đồng thời giáo dục truyền thống cho các thế hệ. Do đó Nghĩa Trang Hàng Dương Côn Đảo khác hẳn với các nghĩa trang liệt sĩ trong nước ta, không phô trương khác với thực tế lịch sử mà hài hoà với cảnh trí thiên nhiên, gây ấn tượng tưởng niệm sâu lắng .Mổi nắm đất ở Nghĩa Trang Hàng Dương Côn Đảo là một dấu tích của bao sự kiện đấu tranh cách mạng đối với liệt sĩ, mỗi thời kỳ đấu tranh.
“Núi Côn Lôn được pha bằng máu
Đất Côn Lôn năm, sáu lớp xương người
Mỗi bước chân che lấp một cuộc đời
Mỗi tảng đá là một trời đau khổ”
“Nghĩa Trang Hàng Dương vùi chôn bao số phận
Hết lớp này, lớp khác lên trên
Mặt phẳng lì không mô đất nhôn lên
Không bia mộ, không tên và không tuổi”
NGHĨA TRANG HÀNG DƯƠNG CÔN ĐẢO được khởi công xây dựng và tôn tạo ngày 19/12/1992 chia làm 4 khu:
KHU A : Gồm 688 ngôi mộ ( có 7 mộ tập thể ) trong đó 86 mộ có tên và 602 mộ khuyết danh. Đa số các phần mộ từ năm 1945 về trước. Nơi đây có ngôi mộ liệt sĩ cách mạng Lê Hồng Phong và nhà yêu nước Nguyễn An Ninh
KHU B: Gồm 695 ngôi mộ (có 17 mộ tập thể) trong đó 275 mộ có tên và 420 mộ khuyết danh. Đa số các phần mộ từ năm 1945 đến 1960. Nơi đây có mộ của nữ anh hùng Võ Thị Sáu và anh hùng Cao Văn Ngọc .
KHU C: Gồm 372 ngôi mộ (có 1 mộ tập thể) trong đó 329 mộ có tên và 43 mộ khuyết danh. Đa số các phần mộ từ 1960 đến 1975. Nơi đây có ngôi mộ của anh hùng Lê Văn Việt .
KHU D: Gồm 148 ngôi mộ, trong đó 11 mộ có tên và 137 mộ khuyết danh. Đặc biệt Khu D là khu mộ qui tập những nấm mộ từ Hòn Cau và Hàng Keo về. (Số liệu trên được tính đến năm 2004)
Nguồn: BQLDT LS Cách Mang Nhà Tù Côn Đảo