Daily Archives: Tháng Mười 18, 2020

Huyện đảo Phú Quý tỉnh Bình Thuận

Huyện đảo Phú Quý với diện tích hơn 17 km2 (chỉ tính đảo lớn) nhưng có tới hàng chục ngàn dân. Đây là một trong những hòn đảo có mật độ dân số khá đông. Người dân chỉ sinh sống ở đảo chính, còn ở Hòn Tranh (một đảo nhỏ bên cạnh, thuộc huyện đảo Phú Quý) và một số đảo đá hầu nhưng không có dân sinh sống.

Hành chính huyện đạo Phú Quý có 3 xã: (1) Long Hải: thôn Tân Hải, Quý Hải, Đông Hải, Phú Long; (2) Ngũ Phụng (huyện lỵ): thôn Phú An, Thương Châu, Quý Thạnh và (3) Tam Thanh: thôn Mỹ Khê, Hội An, Triều Dương

Vị trí đảo Phú Quý

Phú Quý (còn gọi là cù lao Thu hay cù lao Khoai Xứ) là một đảo nhỏ, với diện tích 16 km². Huyện đảo Phú Quý thuộc tỉnh Bình Thuận, khoảng cách tới các vùng lân cận:

  • Cách thành phố Phan Thiết 120 km về hướng Đông Nam.
  • Cách quần đảo Trường Sa 540 km về phía Tây Bắc.
  • Cách thị xã Cam Ranh, tỉnh Khánh Hòa 150km (về phía Nam).
  • Cách Côn Đảo 330km (về phía Đông Bắc).
  • Cách thành phố Vũng Tàu 200km (về phía Đông).
Đảo ngọc Phú Quý

Ngoài đảo chính, chung quanh đảo Phú Quý còn Hòn Đá Cao hướng tây-bắc, Hòn Đỏ hướng đông-bắc và Hòn Tranh và Hòn Hải hướng Tây Nam.

Lịch sử đảo Phú Quý

Đã từ lâu đảo Phú Quý trở nên rất quen thuộc với nhiều người qua sử sách xưa dưới nhiều tên gọi: Cổ Long, Thuận Tịnh, Cù Lao Khoai Xứ, Cù Lao Thu… Từ niên hiệu trị thứ 4 (1844) vì tiềm năng kinh tế dồi dào và số lượng đặc sản đáng kể biệt nạp cho Triều đình Huế, đảo được đổi tên từ Tổng Hạ sang Tổng Phú Quý trực thuộc huyện Tuy Phong, phủ Ninh Thuận, tỉnh Bình Thuận. Hiện nay, Phú Quý là một huyện đảo xa của tỉnh Bình Thuận.

Tuy là một hòn đảo nằm biệt lập giữa trùng dương nhưng dấu tích phát hiện được cho thấy đảo đã được khai phá tạo nên cuộc sống ở đảo từ rất sớm. Trong quá trình khai thác đá quánh, nhân dân đã tìm thấy những mộ vò lớn. Trong mộ có chôn theo một số công cụ lao động như rìu, bôn và cả những chiếc vòng đeo tay bằng đá với kỹ thuật chế tác rất tinh xảo. Điều này phù hợp với những giai thoại được lưu truyền rằng trước khi có sự khai phá thiên nhiên của những con người từ lục địa, ở đây đã có một giống người “Thượng” sinh sống bằng nghề hái lượm và bắt cá ven biển. Trải qua những biến thiên của lịch sử, Phú Quý là nơi hội tụ của nhiều luồng dân di cư từ lục địa ra với nhiều thành phần dân tộc khác nhau. Trong đó người Kinh đóng vai trò chủ thể.

Khi bắt đầu phát triển mạnh kỹ thuật đóng thuyền buồm với những chiếc thuyền ra được khơi xa thì cũng là lúc có nhiều người từ lục địa đặt chân lên đảo. Cùng với những phần mộ còn xót lại trên đảo, sự tích công chúa Bàng Tranh chứng tỏ người Chăm đã có mặt ở đảo này. Sự tích kể rằng: Bàng Tranh là một công chúa xinh đẹp vì chống lệnh vua cha nên bị kết tội phản nghịch nên bị kết đày ra đảo.

Biển Phú Quý

Bên cạnh đó, do không chịu nổi sự hà khắc của chế độ nông nô, bất mãn với triều đình phong kiến, nhiều người đã tìm đường ra đây lập kế sinh nhai. Người Kinh có mặt ở đảo cũng từ rất sớm. Lúc bấy giờ, vào một thời điểm mà triều đại phong kiến Việt Nam đang trượt nhanh trên con đường mục nát, nạn đói xảy ra ở nhiều nơi. Ở các tỉnh miền trung lúc bấy giờ, những người cùng khổ hoặc phải bán vợ đợ con hoặc phải phiêu dạt đi khắp nơi để kiếm sống. Và Phú Quý là một điểm đến an lành mà họ đã tình cờ bắt gặp. Trong thời kỳ Trịnh-Nguyễn phân tranh (1627–1672), rất nhiều ngư dân thuộc các tỉnh duyên hải miền trung, hoặc chạy giặc lánh nạn, hoặc đi tìm nguồn cá, thuyền của họ vượt sóng trùng dương đã gặp phải những trận cuồng phong khốc liệt và “xiêu” lên đảo.

Cùng với người Kinh, một số người Hoa cũng hoà nhập vào cộng đồng cư dân ở Phú Quý. Vàơ thế kỷ 17, một số quan lại nhà Minh sau khi chống nhà Thanh thất bại, đã phải trốn ra nước ngoài. Từng đoàn thuyền vượt biển tiến về phía nam, trong số đó có hàng chục thuyền đã quyết định dừng chân lập nghiệp ở Phú Quý. Người Hoa đến đây sống dựa vào các ngành nghề như dệt tơ lụa, buôn bán. Quá trình phát triển về sau, một số người do làm ăn trở nên giàu có đã lần lượt tìm vào các thành phố lớn ở đất liền, chỉ một số ít còn lại trên đảo.

Khi dân cư ngày một đông hơn thì các hình thức tổ chức xã hội cũng dần dần được hình thành. Và thời Lê Hiển Tông – Cảnh Hưng (1740–1786), nhà Lê đã tổ chức trên đảo thành từng hộ bạch bố đến đội bạch bố rồi dần dần trở thành ấp và làng. Tuy số dân lúc bấy giờ chưa đông đúc nhưng Phú Quý có đến 14 làng và 1 ấp. Mỗi làng được lập trên cơ sở một nhóm nhỏ ngư dân, đôi lúc chỉ có từ 10 đến 12 tránh đinh và thường mang những tên cũ của địa phương trước khi đến đây lập nghiệp: Thoại Hải, Thế Hanh, Thế An, Hội Thiên, Hội Hưng, Hương Lăng, Mỹ Xuyên, Phú Ninh, An Hoà, Hải Châu, Thương Hải, Triều Dương, Hội An, Mỹ Khê và ấp Quý Thạnh. Từ niên hiệu Đồng Khánh – Nguyễn Cảnh Tông năm thứ 1 (1886), toàn đảo được tổ chức thành 11 làng và đến năm 1930 do sự sáp nhập hai làng Phú Ninh vào Phú Mỹ và Hương Lăng vào Quý Thạnh nên chỉ còn lại 9 làng: Long Hải, Phú Mỹ, An Hoà, Hải Châu, Thương Hải, Quý Thạnh, Triều Dương, Mỹ Khê và Hội An. Hiện nay, đảo được chia làm 3 xã: Long Hải, Ngũ Phụng, Tam Thanh.

Phú Quý trong một thời gian dài đã sống trong điều kiện khép kín tự cung tự cấp với những hoạt động kinh tế như trồng trọt, đánh bắt hải sản, một số ngành nghề thủ công như dệt vải, đan võng, ép dầu… Trong đó, ngư nghiệp đóng vai trò chủ đạo.

Du lịch đảo Phú Quý 

Đảo Phú Quý cũng có rất nhiều cảnh đẹp, có nhiều điểm tham quan hấp dẫn du khách như Hòn Hải (cột mốc A6 trên biển), Hòn Trứng, Hòn Khoai và đặc biệt là Hòn Tranh. Trên đảo còn có chùa cổ Linh Quang (xây dựng từ năm 1747), chùa Linh Sơn, đền công chúa Bàn Tranh… với nhiều huyền thoại ly kì, hấp dẫn. Vì thế, mô hình du lịch sinh thái biển, văn hóa đang rất phổ biến trên đảo.

Huyện đảo Phú Quý

Đảo Phú Quý có 3 xã là Tam Thanh, Ngũ Phụng và Long Hải với mật độ dân cư khá dày. Hiện nay nhu cầu vào đất liền Phan Thiết của bà con để mua sắm, chữa bệnh, học hành ngày càng cao. Tuyến vận tải biển Phan Thiết – Phú Quý, ngoài 5 tàu chuyên vận chuyển hàng hóa, còn có 4 tàu vận chuyển khách được trang bị hiện đại, tốc độ cao. Nếu như ngày trước ra đảo phải mất 7 tiếng thì hiện nay du khách chỉ mất khoảng 3 tiếng.

Nhưng từ Trung tâm Thành phố muốn di chuyển đến Phú Quý chỉ có duy nhất một cách là đi tàu. Tới bến cảng TP. Phan Thiết bạn có thể đón được tàu đi Phú Quý một cách dễ dàng. Tuy nhiên, tàu ra đảo không phải ngày nào cũng chạy, nên bạn cần gọi trước để xem lịch tàu chạy.

Hiện tại, ra Phú Quý có 2 loại tàu di chuyển ra đảo:

  • Tàu chậm đi Phú Quý: Nếu đi tàu chậm bạn mất khoảng 6h đồng hồ để di chuyển. Giá vé ghế thường: 150k/người và phế phòng: 250k/người.
  • Tàu cao tốc đi Phú Quý: Mất khoảng 4h để có thể di chuyển ra đảo. Giá vé di chuyển: 250k/người hoặc 350k/người tùy từng loại ghế.

Đặt vé tàu cao tốc Phú Quý Island đi đảo Phú Quý, quý hành khách vui lòng liên hệ: 088921123408892712340889371234

Một số câu hỏi thường gặp về huyện đảo Phú Quý

Đảo Phú Quý thuộc tỉnh nào?

Phú Quý là một huyện đảo thuộc tỉnh Bình Thuận, Duyên hải Nam Trung Bộ, Việt Nam.

Từ năm Thiệu Trị thứ tư (1844), vì tiềm năng kinh tế dồi dào và số lượng đặc sản đáng kể nộp cho triều đình Huế, đảo được đổi tên từ Tổng Hạ sang Tổng Phú Quý trực thuộc huyện Tuy Phong, phủ Ninh Thuận, tỉnh Bình Thuận.

Diện tích đảo Phú Quý là bao nhiêu?

Đảo Phú Quý có diện tích tự nhiên khoảng 17,82 km², gồm 3 xã là Long Hải, Ngũ Phụng và Tam Thanh. Đảo Phú Quý cách thành phố Phan Thiết 56 hải lý (khoảng 110km về phía Đông).

Phú Quý cũng được xem là một quần đảo với 12 đảo lớn, nhỏ nằm ngoài cùng hệ thống đảo ở cực Nam Trung Bộ, cách TP Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận khoảng 110 km về phía Đông Nam; cách quần đảo Trường Sa 540 km về hướng Tây Nam; cách TP Cam Ranh, tỉnh Khánh Hòa 150 km về phía Nam; cách Côn Đảo 330 km về phía Đông Bắc và cách TP Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu 200 km về phía Đông

 

 

10 cảnh đẹp trong “Hà Tiên Thập Cảnh”

“Hà Tiên Thập Cảnh” – Vùng đất biên thùy cực nam Tổ quốc thuộc tỉnh Kiên Giang, đã được biết đến khi nơi đây hội tụ 10 danh lam thắng cảnh hoang sơ đầy hấp dẫn tiêu biểu của Nam bộ.

Tiêu Tự Thần Chung

Theo sách Mạc Thị Gia Phả, sau khi triều đình nhà Thanh được thành lập tại Trung Hoa, một vị quan trung thành với nhà Minh là Mạc Cửu đã rời bỏ quê hương trôi dạt xuống vùng Đông Nam Á. Năm 1695, ông thần Phục vua Chân Lạp và xin được đến làm ăn tại Mang Khảm. Đến năm 1714, Mạc Cửu xin sát nhập Mang Khảm vào xứ Đàng Trong. Chúa Hiển tông Nguyễn Phúc Chu đồng ý phong cho Mạc Cửu chức Tổng binh, sau phong Cửu Lộc hầu. Vùng Mang Khảm được đổi thành trấn Hà Tiên.

Một thời gian sau, thân mẫu của Ngài Mạc Cửu là Thái Thái phu nhân cũng được đưa đến đây. Để có nơi chốn cho mẹ tu hành trong những năm cuối đời, Khai trấn Cửu Lộc Hầu Mạc Cửu đã cho xây dựng chùa Tam Bảo sau khi Thái Thái phu nhân quy y với Hòa thượng Ấn Hạ thuộc dòng Lâm Tế đời thứ 35. Tu hành được một thời gian, Thái Thái phu nhân tọa hóa trước Phật Đài. Mạc Cửu cho đúc kim thân của mẹ để thờ, đúc một Đại hồng chung để cúng và nghe tiếng chuông mà tưởng niệm mẹ hiền. Năm 1735, Mạc Cửu qua đời, con ông là Mạc Thiên Tứ (hay Mạc Thiên Tích) thay cha làm Đô đốc Tổng binh. Nổi tiếng là một người có tài làm thơ. Mạc Thiên Tích sáng tác 10 bài thơ Nôm lấy tựa chung là “Hà Tiên thập cảnh ngâm khúc” là mười bài vịnh 10 cảnh đẹp Hà Tiên, trong đó có bài “Tiêu tự thần chung” (Tiếng chuông sáng sớm ngân vang ở cảnh chùa tịch mịch) :

Rừng thiền xít xát án ngoài tào

Chuông gióng chùa Tiêu tiếng tiếng cao

Chà thỏ bạt vang muôn khóm sóng

Oai kình tan tác mấy cung sao

Não phiền kẻ nấu sôi như vạc

Trí huệ người mài sắc tựa đao

Mở mịt gẫm dường say mới tỉnh

Phù sanh trong một giấc chiêm bao

Sắc tứ Tam Bảo

Đời trụ trì đầu tiên của chùa Tam Bảo là Hòa thượng Ấn Hạ cũng là vị Hòa thượng khai nguyên cho Phật giáo xứ Hà Tiên. Đến nay, chùa Tam Bảo đã trải qua 19 đời trụ trì là những vị chân tăng như Hòa thượng Hòa Quang, Thiền sư Nhất Đới, Thiền sư Trí Tàng, Thiền sư Hoằng Ân, Thiền sư Hải Huệ, Thiền sư Giác Ngạn, Thiền sư Như Đức, Thiền sư Như Khả, Thiền sư Phước Chơn, Hòa thượng Thuần Hạnh, Yết ma Phước Thành, Hòa thượng Phước Ân (1920 – 1946), Hòa thượng Phước Quang, Hòa thượng Quảng Đức, Hòa thượng Vĩnh Đạt, Hòa thượng Chánh Định, Thượng tọa Thiện Giác (1960 – 1974) và từ năm 1974 đến nay là Ni sư Thích Nữ Như Hải (thế danh Huỳnh Thị Phước).

Sinh năm 1944 tại xã Hòa Ân, huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh, mẹ mất sớm, cha đi làm ăn xa, thủa nhỏ sống trong tình thương của ngoại và dì , năm 15 tuổi, Ni sư xuất gia tại Quan Âm tu viện vừa tu học vừa dạy trẻ từ lớp 1 đến lớp 5. Năm 1962, Ni sư được Bổn sư đưa đến Diệu Ấn ni tự tại thị xã Phan Rang tu học và sau đó, tiếp tục học thế pháp tại trường Bồ Đề Phan Rang. Đến năm 1963, Ni sư lại được đưa về tu học tại chùa Dược Sư suốt trong 11 năm vừa học thế pháp, vừa học Phật học. Năm 1974, Ni sư được Hòa thượng Thích Huyền Vi và Hòa thượng Thích Thanh Từ cử về trụ trì chùa Sắc Tứ Tam Bảo Hà Tiên cho đến nay.

Chùa Tam Bảo Hà Tiên trong những năm 1960

Từ ngày thành lập đến nay, chùa Tam Bảo đã được nhiều lần trùng tu lớn và nhỏ. Hai lần trùng tu được xem là lớn nhất là trong thời gian trụ trì của Hòa thượng Phước Ân (1920 – 1946) và trong thời gian trụ trì của Ni sư Như Hải từ 1974. Trong lần trùng tu lớn thứ 1, Hòa thượng Hồng Ân đã cho xây dựng lại chùa Tam Bảo với dáng vẻ khang trang uy nghiêm như ngày nay và cho trồng một số cây sao đến nay đã trở thành cổ thụ. Lần thứ 2, sau khi được cử về trụ trì chùa Tam Bảo, Ni sư Như Hải đã bắt đầu cho kiến tạo và trùng tu một số công trình như An vị Đức Quán Thế Âm Bồ Tát lộ thiên cao 5 m, nặng 7 tấn (1974), Lợp lại mái ngói Chánh điện và Nhà Tổ (1979), An vị tôn tượng Thiên Thủ Thiên Nhản (1987), An vị Đức Bổn sư Thích Ca ngồi dưới cội Bồ đề (1983), xây dựng cổng Tam quan, phục chế bức tường đã sụp đổ và chỉnh trang cảnh quan xung quanh chùa (1992).

Vốn xuất thân từ một Đoàn sinh Gia đình Phật tử nên Ni sư rất quan tâm đến tổ chức này. Năm 1985, Gia đình Phật tử chùa Tam Bảo được thành lập đã hướng dẫn thanh thiếu niên tu học tốt, thực hành Bi Trí Dũng trong đời sống. Ngoài ra, chùa Tam Bảo còn tổ chức thọ Bát Quan Trai mỗi tháng, được đặt tên là Đạo tràng Tuệ Giải, không những hướng dẫn Phật tử tu học còn thực hành hạnh từ bi thường tham gia công tác từ thiện xã hội kết hợp với Chữ Thập Đỏ Hà Tiên để luôn luôn thực hiện phương châm “tốt đạo, đẹp đời”.

Kim Dự Lan Đào

Theo tài liệu do nhà chụp hình nỗi tiếng ở Hà Tiên ngày xưa, ông Quách Ngọc Bá viết trong quyển sách du lịch « HATIEN PHOTO »: Pháo Đài là một trái núi nhỏ ở ngay cửa sông Hà Tiên, cách chợ 600 m. Từ hồi Nam Triều đến thời Pháp thuộc vẫn là cứ điểm quân sự trấn giử biển cả, trên có bố trí trọng pháo nên tên gọi là Pháo Đài.

Pháo Đài của thời xưa là những trang lịch sử oai hùng, từng làm kinh khủng giặc Thái Lan bằng những thần công, đại bác, đã phá kỷ lục tên tre lẩy nỏ.

Kim Dự Lan Đào

Thời họ Mạc, vị trí Pháo Đài ở ngay giữa hải cảng Hà Tiên, ngó ra vịnh Thái Lan, hình thể ví như cửa thành thiên nhiên để che chở nội địa. Mạc Thiên Tích đã so sánh với nhiệm vụ, với địa vị mình là tướng lảnh trọng yếu trấn giử biên cương qua bài thơ « Kim Dự Lan Đào » (Kim: vàng, Dự: hòn đảo nhỏ, Lan: ngăn chận, Đào: sóng to, « Kim Dự Lan Đào: Hòn đảo vàng nhỏ ngăn chận sóng to):

Kim Dự nầy là núi chốt then,

Xanh xanh dành trấn cửa Hà Tiên,

Ngăn ngừa nước dữ khôn vùng vẩy,

Che chở dân lành khỏi ngửa nghiêng,

Thế vững kình càng trên Bắc hải,

Công cao đồ sộ giữa Nam thiên,

Nước an chẳng chút lông thu động,

Rộng bủa nhơn xa tiếp bá xuyên.

(Trích Thơ Nôm của Mạc Thiên Tích)

Cách đây hơn một thế kỷ, hòn đảo Pháo Đài còn tách rời khỏi đất liền. Do có thủy triều lên cao thấp, nước lớn nước rồng, khoảng cách giữa hòn đảo nầy và đất liền xa gần khác nhau nên dân gian có đặt truyền thuyết là hòn Kim Dự là một hòn đảo nổi trôi ra trôi vô theo con nước….Cũng có một truyền thuyết khác nói rằng Kim Dự là một hòn đảo nổi, dưới hòn đảo đó có một con Giao Long nằm ẩn mình tu lâu đời. Thỉnh thoảng con Giao Long cựa mình thì làm cho hòn đảo lay chuyển, khi trôi ra xa, khi dạt vào gần bờ. Trong thời Pháp chiếm Hà Tiên, do công sức của các tù nhân, họ xây đắp một con đường nối liền đảo Pháo Đài với chợ Hà Tiên, gọi là đường Cầu Đá, dần dần con đường trở thành đường đất, rộng rải đủ cho xe cộ lưu thông. Bây giờ con đường trở thành một đại lộ đã tráng nhựa. Con đường nầy nối từ khu Chùa Quan Thánh (tên đúng là Miếu Quan Thánh Đế) chạy thẳng đến dưới chân núi Pháo Đài, ngày nay chính là đại lộ Mạc Thiên Tích. Xóm nhà hai bên con đường nầy còn có tên là xóm Cầu Đá.

Về địa hình, trên đỉnh Pháo Đài có dạng trái xoan, có công sự phòng thủ hình chữ U, chu vi khoảng 84,5 m và cao gần 3 m, công sự phòng thủ nầy được xây dựng trên đỉnh núi Pháo Đài (còn gọi là núi Đại Kim Dự), núi cao khoảng 25 m. Thời vua Minh Mạng thứ 15 (1834) Pháo Đài được thành lập để trở thành căn cứ quân sự phòng thủ, nhà Nguyễn cho đắp đồn lũy trên đồi, đặt súng thần công nên từ đó có tên là Pháo Đài. Ngày nay tên Pháo Đài cũng được dùng để đặt tên cho Phường Pháo Đài thuộc thị xả Hà Tiên. Thời Pháp chiếm Hà Tiên trên Pháo Đài có lập một ngọn Hải Đăng và có nhân viên người Pháp quản lý. Trong thời kỳ chiến tranh 1960 -1970 ngọc Hải Đăng bị bỏ hoang phế, ngày nay đã được phục hồi. Trong thời gian Hà Tiên chưa có bệnh viện, người Pháp dùng mặt bằng trên Pháo Đài để làm trạm y tế. Đến khi bệnh viện Hà Tiên được cất lên, người Pháp xây dựng một nhà nghỉ mát trên mặt bằng Pháo Đài, gọi là Bungalow. Suốt những năm chiến tranh 60 – 70 Pháo Đài trở thành căn cứ quân sự, có tiểu đoàn 528 Địa Phương Quân đóng trên đó, lúc đó Đại Úy Trần Văn Thiệt là tiểu đoàn trưởng, dân chúng không được lui tới. Hiện nay Pháo Đài đã được phát triển thành một nơi ngắm cảnh, nghỉ ngơi, có khách sạn, hồ bơi, hoàn toàn được xem như một nơi tự do du lịch và dạo chơi rất lý thú.

Lộc Trĩ Thôn Cư

“Lộc trĩ thôn cư” – một trong mười danh thắng của Hà Tiên thập cảnh, cách thị xã Hà Tiên (Kiên Giang) chừng 5km và giáp với đất bạn Campuchia.

Tích xưa kể rằng thuở sơ khai, nơi đây trời nước mênh mông, có một chú nai con trên rừng thường tìm xuống bãi uống nước. Một ngày kia, nai con mải vui, say mê với cảnh đẹp nên lạc đường về. Đang mùa dông bão, sóng dữ xô đập vào bờ, chú nai con tội nghiệp đói khát, kiệt sức đã chết gục bên bờ cát… Nơi ấy trở thành Mũi Nai và ngày nay nếu đứng ở đỉnh đồi đối diện hoặc đi trên thuyền từ biển nhìn vào bờ, bạn sẽ thấy ngọn núi phía xa trông giống như hình một chú nai đang vục đầu uống nước.

Biển Mũi Nai hoang sơ

Xóm quê “Lộc trĩ thôn cư” dựa lưng vào vách núi, nằm dưới những rặng dừa quanh năm hứng gió biển khơi nay trở thành một điểm du lịch sinh thái nổi tiếng ở đồng bằng sông Cửu Long.

Nam Phố Trừng Ba

Bãi biển Nam Phố nay thuộc xã Dương Hòa, huyện Kiên Lương, tỉnh Kiên Giang.

Bãi biển này nằm cạnh quốc lộ 80 từ thành phố Rạch Giá đi Hà Tiên. Từ trung tâm thị xã Hà Tiên xuôi về phía Nam khoảng 10 km, du khách sẽ thấy một vùng trời nước mênh mông sóng lặng như tờ.

Nam Phố có nghĩa là bãi ở phía Nam, trừng ba tức là sóng lặng, nước yên. Cái tên này đã nói lên phần nào vẻ đẹp của thắng cảnh.

Bãi biển Nam Phố

Nam Phố được nhắc đến qua bài thơ “Nam Phố trừng ba” trong cuốn “Hà Tiên thập cảnh vịnh” của Mạc Thiên Tứ.

Nam phố trừng ba

Nhất phiến thương mang nhất phiến thanh,

Trừng liên giáp phố lão thu tình.

Thiên hà đới vũ yên quang kiết,

Trạch quốc vô phong lãng mạt bình.

Hướng hiểu cô phàm phân thuỷ cấp,

Xu triều dung phảng tải vân khinh.

Tha tri nhập hải ngư long nặc,

Nguyệt lãng ba quang tự tại minh.

Thạch Động Thôn Vân

Thạch Động thuộc địa phận xã biên giới Mỹ Đức, cách trung tâm thành phố Hà Tiên khoảng 4km. Do nằm bên quốc lộ 80 và cách biên giới nước bạn Campuchia chỉ khoảng 3km nên nơi đây rất thuận tiện đến trải nghiệm dụ lịch, khám phá kết hợp.

Đứng xa xa từ phía quốc lộ 80 nhìn lên, Thạch Động nhô lên như đầu vị tướng oai dũng sừng sững hướng mặt nhìn về phía biển. Còn đứng theo hướng từ phía biên giới nhìn lại, khu vực núi Thạch Động hiện lên yên bình một màu xanh của cây rừng, phía dưới chân núi là ngồi nhà dân đơn sơ giản dị, xa xa là cánh đồng lúa chín vàng bạt ngàn, cùng những cây thốt nốt lẻ loi vươn mình cao vút. Tất cả đã tạo nên một vẻ đẹp hoang sơ của Thạch Động, mang một vẻ đẹp đặc trưng của xứ Hà Tiên.

Đến phía trước, bên trái lối lên Thạch Động là tấm bia đá căm thù, được dựng lên nhằm kỉ niệm về cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam của thế kỷ trước, và Thạch Động là một dấu tích lịch sử, là địa điểm phòng thủ chiến lược quan trọng trong cuộc chiến bảo vệ biên cương oai hùng ngày ấy.

Bước vào Thạch Động là những hang đá lớn nhỏ được hình thành do sự biến đổi của địa chất. Một ngôi chùa có tên Tiên Sơn được xây trong một hang động lớn nhất của Thạch Động, được cho là xây vào cuối thế kỷ 18, thờ phật Thích Ca và bồ tát Quan Thế Âm. Ngôi chùa được làm bằng tường gạch cùng những cột gỗ đen bóng không trạm chỗ, nằm lọt trong hang động đã tạo nên sự tò mò cho du khách tham quan.

Cửa hang chính rộng lớn, có bậc đá để đón khách ra vào, ba cửa hang nhỏ thông lên cao và một cửa hang nhỏ thông xuống lòng đất mà người dân thường gọi là ngõ “xuống âm phủ”. Trên vách của các hang động với những hốc đá nhô ra lọt vào hiện tại đang là nơi trú ngụ của hàng trăm con chim bồ câu.

Trong hang có nhiều thạch nhũ tạo thành từ quá trình biến đổi địa chất, ngày nay đã trở thành những hình thù kỳ thú, kích thích trí tượng tượng của khách tham quan. Đặc biệt, một khối thạch nhủ ở cửa hang phía trước dài tầm 3m, được nhiều người hình dung là cánh bên phải của một con đại bàng.

Đến với Thạch Động, du khách sẽ được nghe kể rất nhiều những câu chuyện bí ẩn về những vách đá có hình thù kỳ lạ, là nơi phát tích truyện cổ tích Thạch Sanh. Tương truyền, phía Đông của động có một cửa hang thông thiên nên khi ánh sáng rọi xuống người xưa gọi là “đường lên trời”. Theo truyền thuyết xưa, Thạch Sanh đã theo cửa miệng hang này để vào bên trong động giết đại bàng tinh, cứu công chúa Quỳnh Nga và con trai vua Thủy Tề.

Đông Hồ Ấn Nguyệt

Đông Hồ là một đầm nước mặn có diện tích 1.384,36 ha nằm ở phía đông của thị xã Hà Tiên, phía hữu ngạn có núi Ngũ Hổ, còn tả ngạn là dãy núi Tô Châu sừng sững soi bóng xuống mặt hồ. Đây là nơi giao thoa giữa sông Giang Thành, kênh Rạch Giá – Hà Tiên và chảy ra biển Tây (vịnh Thái Lan). Từ lâu, Đông Hồ là một thắng cảnh thiên nhiên nổi tiếng của Hà Tiên, được du khách trong và ngoài nước biết đến. Đông Hồ đẹp nhất vào những đêm trăng sáng, nền trời không một gợn mây, gió thoảng nhẹ, mặt trăng lên cao in bóng xuống mặt hồ lung linh, huyền ảo.

Ngược dòng lịch sử, cách đây gần 300 năm, vào ngày rằm, tháng giêng, năm Bính Thìn 1736, Mạc Thiên Tích, vị tổng trấn lúc bấy giờ mở hội hoa đăng thành lập Tao đàn Chiêu Anh Các đã giới thiệu sách “Hà Tiên Thập Vịnh Cảnh” trong đó có bài “Đông Hồ Ấn Nguyệt”, nghĩa là trăng in xuống hồ đông nổi tiếng đến ngày nay, được 31 thi nhân của thi phái Chiêu Anh Các cùng các danh sĩ cùng thời họa lại với 31 bài thơ. Bài thơ luật nôm trong Hà Tiên Thập Khúc Vịnh của Mạc Thiên Tích như sau:

“Một hồ lẻo lẻo tiết thu quang.

Giữa có vầng trăng nổi rõ ràng.

Đáy nước chân mây in một sắc;

Ả Hằng nàng Tố lố đôi phương.

Rạng thanh đã hứng thuyền Tô Tử.

Lạnh lẽo càng đau kiếng Nhạc Xương.

Cảnh một mà tình người dễ một.

Kẻ thì ngả ngớn kẻ sầu thương.”

Đông Hồ không chỉ nổi tiếng là một thắng cảnh thiên nhiên đẹp mà còn ẩn chứa nhiều tiềm năng to lớn để phát triển kinh tế – xã hội. Trong đó, dễ nhận ra nhất là thế mạnh về du lịch, dịch vụ và nuôi trồng nông – lâm – thủy sản.

Đông Hồ còn là bút hiệu của thi sĩ Lâm Tấn Phác, người con của đất Hà Tiên, một thi nhân tài hoa đã để lại nhiều tác phẩm văn học quý giá cho đời. Thi sĩ Đông Hồ còn là người đầu tiên có công sưu tầm, chú thích và giới thiệu Hà Tiên Thập cảnh Khúc Vịnh của Mạc Thiên Tích đến với công chúng qua sách Văn học Hà Tiên.

Hiện nay, đầm Đông Hồ đã được chính quyền địa phương và người dân sở tại đầu tư để phát triển du lịch sinh thái cộng đồng, kết hợp với tham quan tìm hiểu về cuộc sống cư dân địa phương với nghề chằm lá truyền thống và đánh bắt thủy sản, cùng với thưởng thức các món ăn dân dã rất đổi bình dị. Chắc hẳn sau một chuyến tham quan thú vị như thế sẽ mang lại những cảm xúc nhẹ nhàng, an nhiên, thư thái cho du khách khi đến với xứ thơ miền đất biên thùy cuối trời Tây Nam của Tổ quốc.

Giang Thành Dạ Cổ

Giang Thành có nghĩa là thành luỹ đóng ở ven sông. Dạ có nghĩa là ban đêm. Cổ là tiếng trống. Giang Thành dạ cổ là tiếng trống canh về đêm của đồn thú ở bên sông. Bây giờ không rõ thành này ở nơi nào.

Dòng sông nhỏ bắt nguồn từ vùng Sài Mạt, Lình Quỳnh thuộc địa phận Chân Lạp chảy về phía Hà Tiên có tên là Giang Thành, do trên bờ có luỹ Giang Thành.

Vào thời Mạc Thiên Tích, Giang thành có thể ở chổ đầu luỹ Thị Vạn, khoảng Vàm Hàn ngày nay. Còn quận Giang Thành là chổ ngã ba tiếp giáp kênh Vĩnh Tế ở Châu Đốc chảy sang, liền với thương lưu sông Giang Thành.

Thời họ Mạc khai thác Hà Tiên chưa có Kênh Vĩnh Tế. Năm Minh Mạng thứ 15 (1834) mới có bảo Giang Thành, cách trấn Ly Hà Tiên đến khoảng 20km. Mạc Thiên Tích không thể vừa nghe tiếng chuông vừa nghe tiếng trống sớm tối mà xúc động được.

Vì thế Giang Thành Dạ cổ trong 10 cảnh của Mạc Thiên Tích đề vịnh ngày xưa phải ở chổ vàm sông Giang Thành, là nơi đầu dãy Trúc bằng Thành Bờ Đồn lớn, theo nhận định của thị sỹ Đông Hồ.

Lư Khê Ngư Bạc

Rạch Vược bây giờ thuộc ấp Thuận Yên, cách TX.Hà Tiên khoảng 5 km, chạy xe ngang qua đoạn này có ai ngờ nơi ấy từng được ca tụng là Hà Tiên thập cảnh.

Rạch Vược ngày xưa là xóm ngư dân yên bình, vì rạch ấy có lắm cá vược nên gọi tên là Rạch Vược. Rạch Vược có hai nhánh: một thông với vàm Đông Hồ và một thông ra biển. Tại con rạch này, Mạc Thiên Tích cho dựng một điếu đình làm chỗ buông câu, hưởng thú nhàn hạ núi trăng. Cá nặng trên 5 – 10 kg mới gọi là cá vược, còn cá dưới 5 kg gọi là cá chẽm. Cá vược là loài cá ngon có tiếng, trong văn học ca tụng nhiều. Cá nấu chưng với sả nghệ hay hấp dầu ăn rất ngon. Những phụ nữ đảm đang xưa hay trổ tài nấu nướng đãi món cá vược trong ngày giỗ, lễ làm người ăn khen nức lòng. Ngày nay, cá vược ít lắm nên công thức chế biến cá ngon giới trẻ ít người biết đến

Đây là loài cá bí ẩn vì cho đến nay các loài cá có tên trong Sách đỏ vẫn lộ diện trên sông rạch nhưng cá cháy thì bặt tăm. Ngay cả Trung tâm giống quốc gia thủy sản nước ngọt Nam bộ là nơi nuôi dưỡng nhiều loài cá quý hiếm, nhưng khi đề cập đến cá cháy nhiều chuyên gia thủy sản cũng lắc đầu. Họ nói do chưa nắm rõ về chúng nên chưa thể nói gì.

Thời Pháp đã cho xây cầu sắt bắc qua Rạch Vược, tới năm 1943 Pháp phá cầu đắp thành con lộ lớn. Năm 1944, vua Bảo Đại tới dự lễ khánh thành con lộ này. Pháp đắp lộ chủ đích cho xe cơ giới qua mau hơn, sau này Việt Minh đào phá con lộ chặn xe cơ giới giặc khó chạy qua. Sau giải phóng, con lộ được đắp lại và nay nằm trong đoạn quốc lộ 80. Con rạch bị quốc lộ chắn ngang không còn thông với biển, chỉ còn một ngọn thông với Đông Hồ, cá vược không còn bơi qua được nên hiếm dần.

Lư Khê Ngư Bạc là một trong mười bài thơ tả mười cảnh tuyệt đẹp của Hà Tiên do Mạc Thiên Tích sáng tác. Cố thi sĩ Đông Hồ giải thích Lư là loài cá vược, Khê là khe, là rạch, còn Ngư là thuyền chài, người lưới cá, câu cá, Bạc là thuyền đỗ bến. Lư Khê Ngư Bạc là cảnh Rạch Vược, nơi thuyền ngư đỗ bến. Thi sĩ Đông Hồ dịch nghĩa bài thơ ấy như sau: Bóng chiều nắng ngả dòng sông thẳm/Rạch Vược đèn ngư khói chập chùng/Bến cũ nhấp nhô thuyền đỗ sóng/Bờ xa san sát lưới phơi trăng/Cánh tơi sáo thấm sương pha buốt/Mái trúc chèo khua nước sáng trưng/Lồng lộng vời trông cười thử hỏi/Cá rồng vùng vẫy chốn này chăng.

Bình San Điệp Thúy

Núi Bình San còn gọi là núi Lăng nằm cách nội ô Thị xã Hà Tiên khoảng hơn 1km về hướng tây bắc. Như tên gọi “Bình San Điệp Thúy”, một trong mười cảnh đẹp của Hà Tiên được mô tả trong Hà Tiên thập vịnh.

Đây là nơi yên nghĩ của dòng họ Mạc mà đứng đầu là Mạc Cữu (1655-1735), người đã có công khai phá và xây dựng đất Phương Thành ( Hà Tiên ngày nay ) và các thành phố khác ở biển Tây chạy dài từ Kiên Giang đến Siêm Rệp của Campuchia hiện nay.

Nơi an nghỉ của dòng họ Mạc
Nơi an nghỉ của dòng họ Mạc

Đền thờ Mạc Cửu nằm dưới chân núi Bình San, có lối kiến trúc theo hình chữ quốc, xung quanh tường đá dày bao bọc, ở giữa là điện thờ. Bước vào cổng là con đường nhỏ lát gạch tàu, dẫn đến tiểu sảnh. Trước chánh điện có một biển thờ đề “Khai Trấn Trụ Quốc” và bức hoành phi “Nghị Võ Công” – đó là hai tước hiệu, danh phong mà chúa Nguyễn Phúc Chu phong tặng cho Mạc Cửu. Phía trước khu đền thờ là hai ao sen, tương truyền do Mạc Thiên Tứ sai đào để chứa nước ngọt. Ngôi đền có bố cục hài hòa với những mảng chạm trổ, điêu khắc tinh xảo trên cột, liễn, diềm, hoành phi, bình phong. Đền được đánh giá là công trình văn hóa, lịch sử có tính nghệ thuật cao.

Tháng 8 mùa thu năm thứ 18 Mậu Tý (1708), chúa Nguyễn Phúc Chu, chuẩn ban cho Mạc Cửu làm Tổng binh trấn Hà Tiên và phong tước là Cửu Ngọc hầu. Mạc Cửu lo xây dựng dinh ngũ và đóng binh tại Phương Thành (Hà Tiên), từ đó dân càng qui tụ đông đúc.

Tháng 4 mùa hạ năm thứ 21, Tân Măo (1711), Tổng binh trấn Hà Tiên Cửu Ngọc hầu Mạc Cửu đến cửa khuyết tạ ơn.”

Nếu như Mạc Cửu có công lớn khai phá, mở mang vùng Hà Tiên trở nên phồn thịnh thì người kế thừa là con ông – Đô đốc Tổng binh Mạc Thiên Tứ là một anh hùng văn võ song toàn. Mạc Thiên Tứ đã đánh bại, tiêu diệt nhiều đám quân nổi loạn, cướp biển ở vịnh Thái Lan. Ông được Chúa Nguyễn rất mực tin dùng và đãi ngộ. Cụ thể, vào năm 1739, Mạc Thiên Tứ chỉ huy quân binh đánh tan quân Chân Lạp xâm lược Hà Tiên. Nhờ chiến công này, Mạc Thiên Tứ được đặc cách phong làm Đô đốc tướng quân, vợ của ông cũng được phong tước hiệu Hiếu Túc Thái Phu Nhân do có công đốc chiến, tiếp tế hậu cần. Đến năm 1747, giặc biển Đức Bụng quấy phá vùng ven biển đạo Long Xuyên (Cà Mau), Mạc Thiên Tứ một lần nữa đánh đuổi, giữ bình yên cho vùng đất mới… Mạc Thiên Tứ còn là chủ soái của Tao đàn Chiêu Anh Các lừng lẫy phương Nam.

Người xưa ví núi Bình San như bức bình phong che chắn phía sau thành Hà Tiên lúc ấy. Núi này còn có tên gọi là núi Lăng, vì trên núi có lăng mộ Mạc Cửu cùng các phu nhân và tướng quân họ Mạc, những người đã có công khai mở xứ này. Tổng cộng nơi đây có 66 lăng mộ cổ, thuộc 7 đời họ Mạc đã được công nhận là Di tích quốc gia, bao gồm 4 khu vực, được sắp xếp trật tự từ trên xuống theo thứ bậc và công lao (Khu 1 là các tiểu vương, Khu 2 dành cho các phu nhân của các tiểu vương, Khu 3 gồm quan tướng và Khu 4 dành cho dân chúng).

Ngoài ra, trên núi Bình San còn hai di chỉ của nền Sơn Xuyên và Xã Tắc. Nền Sơn Xuyên nằm trên đỉnh núi cao nhất, nhìn ra núi Pháo Đài, là nơi tế thần núi thần sông. Nền Xã tắc nằm lưng chừng trên núi, là nơi tế hậu thổ và thần nông.

Châu Nham Lạc lộ

Châu Nham tục danh là Bãi Ớt, cách phía đông trấn 22 dặm rưỡi, đỉnh núi tròn xoe, sườn đá chênh vênh chạy thẳng đến bờ biển, có những ghềnh rạng gồ ghề, vũng sâu bùn cát bao bọc hai bên tả hữu. Trong vũng có đá tinh quang, ở dưới có nhiều con sò sọc đỏ. Tương truyền khi Mạc Cửu còn nhỏ đi đến dưới nham ấy bắt được ngọc châu kính thốn quý báu vô giá. Cửu đem dâng cho vua…”. Địa chí Hà Tiên ghi vắn tắt “Đồi Châu Nham trong cụm núi Bãi Ớt, xưa che giấu một viên ngọc trai quý vô giá”.

Vào thời Minh Mạng ở đó có lập một đồn binh, cử ra 50 người đi xuống khu vực Bình An – Hòn Chông để mở rộng sản xuất, cung cấp lương thực cho đồn Châu Nham. Sách Đại Nam thực lục chính biên có ghi lại việc Trần Chấn chọn được vùng thôn Bình An, gần đồn Châu Nham có đất bỏ không, có thể cày cấy được, bèn liệu định thế rộng hẹp, xin 50 người giữ đồn Châu Nham, 100 người đến đó cày cấy, lập đồn điền Bình An, nay thuộc khu vực xã (Bình An) và Dương Hòa. Đây đích thực là Châu Nham trong bài thơ Châu Nham lạc lộ của Mạc Thiên Tích.

Toàn cảnh Núi đá dựng Hà Tiên

Trong sách Minh Mạng chính yếu có một câu ý nói Châu Nham ở núi Đá Dựng. Ý đó khiến người đời sau làm căn cứ khẳng định Châu Nham là Đá Dựng. Sự lầm lẫn này kéo dài rồi tiếp tục được củng cố bởi các bài báo trong những năm đầu thế kỷ 20. Chẳng hạn trong bài ký Chơi Châu Nham của Đông Hồ, đăng trên Đông Pháp thời báo năm 1926, có đoạn mở đầu rằng Châu Nham lạc lộ tục gọi là núi Đá Dựng, là một cảnh trong Hà Tiên thập cảnh vịnh của Mạc Thiên Tích. Bài viết này có nhiều sai lạc cả về vị trí của núi Đá Dựng và ý nghĩa của hai chữ Châu Nham.

Hà Tiên có 2 Thạch Động, một Thạch Động nằm cạnh đường lên cửa khẩu Xà Xía và hai là núi Đá Dựng. Núi Đá Dựng có nhiều hang động, xưa có một nhà sư trụ trì chùa Tiên Sơn đã liên tưởng các hang động và hình thù cây đàn đá rồi gán ghép vào câu chuyện Thạch Sanh – Lý Thông cho ra một dị bản “Thạch Sanh chém chằn”, hấp dẫn không kém bản Thạch Sanh – Lý Thông ở các tỉnh phía bắc.

3 lưu ý khi lần đầu đi Phú Quốc

Chọn phương tiện di chuyển, thời gian phù hợp và lên danh sách địa điểm cần đến là những lưu ý cho người lần đầu đi Phú Quốc.

Mùa hè chạm ngõ, các điểm du lịch biển đảo trở nên hấp dẫn. Trong đó, Phú Quốc đang chào đón lượng khách nội địa tăng từng ngày. Để chuyến đến thăm đảo ngọc của bạn thú vị, có thể tham khảo 3 lưu ý dưới đây.

Chọn phương tiện di chuyển

Có hai sự lựa chọn cho bạn khi di chuyển từ đất liền ra Phú Quốc: Đường hàng không hoặc đường biển. Với đường hàng không, hiện tại có đến 6 điểm có thể bay đến Phú Quốc bao gồm: Hà Nội, TP HCM, Đà Nẵng, Vinh, Thanh Hóa, Hải Phòng. Vào tháng 8 đã có thêm đường bay từ Đà Lạt đến Phú Quốc. Giá vé tùy vào thời điểm đặt vé, nếu săn vé khuyến mãi 0 đồng bạn có thể tiết kiệm chi phí.

Tàu Phú Quốc Express 8 tại Kiên Giang

Với du khách ở gần Phú Quốc, có thể đi đường biển bằng tàu cao tốc ra đảo để tiết kiệm chi phí. Hiện tại có hai hãng tàu uy tín và được sử dụng rộng rãi là SuperDong và Phú Quốc Express với giá dao động từ 250.000 – 340.000 đồng tùy địa điểm xuất phát là Hà Tiên hay Rạch Giá.

Chọn thời gian thích hợp

Phú Quốc có mùa mưa và mùa khô. Mùa mưa thường bắt đầu vào khoảng đầu tháng 6 đến cuối tháng 9, thời điểm này không khí mát mẻ, các con suối đầy nước trở lại mang sức sống cho núi rừng Phú Quốc. Vào mùa khô bạn sẽ được đắm mình trong làn nước biển xanh trong. Tuy nhiên, mùa khô ở đây thường đông khách du lịch nên các dịch vụ du lịch dễ quá tải.

Đến đảo ngọc vào mùa mưa, bạn sẽ nhận được rất nhiều ưu đãi dịch vụ phòng, bữa ăn nhưng nên xem dự báo thời tiết trước. Những con đường ở đảo Phú Quốc hầu hết đã được xây dựng nên tình trạng đường đi lầy lội khó khăn khi đi tham quan các địa điểm du lịch đã được hạn chế.

Lên danh sách địa điểm ăn, chơi

Gần đây tại Phú Quốc có thêm nhiều các khu vui chơi như: Công viên giải trí VinWonder, công viên nước Aquatopia (hòn Thơm) và tất cả các địa điểm du lịch đã mở cửa lại sau kỳ nghỉ dài.

Nếu thích ngắm hoàng hôn trên biển, bạn có thể đến những địa điểm như: Sunset Sanato Beach Club, Ocsen Beach Bar & Club, Chuồn Chuồn Bistro & Bar.

Sunset Sanato Beach Club Phú Quốc

Trải nghiệm thú vị bạn có thể thử là tour cano tham quan các đảo nhỏ thuộc nam Phú Quốc. Đến đây bạn sẽ có được ngắm vẻ đẹp hoang sơ của đảo ngọc. Nếu chọn tour tham quan, bạn nên tìm đến những công ty du lịch uy tín.

Trong số các công ty du lịch, Rooty Trip cung cấp các dịch vụ bao gồm: Tour tham quan trong ngày, khách sạn, combo khách sạn vé vui chơi và hỗ trợ nhu cầu vui chơi của du khách khi đến Phú Quốc.

Theo đại diện Rooty Trip chia sẻ, từ từ năm 2017 đến nay, trung bình công ty phục vụ hơn 45.000 lượt du khách đi tour Phú Quốc mỗi năm. Đại diện công ty này cho biết: “Chúng tôi luôn thực hiện theo slogane ‘Rooty Trip – mang cả Phú Quốc đến bên bạn’. Chuyến đi Phú Quốc của bạn hãy để Rooty Trip đồng hành và mang đến những điều đặc biệt nhất từ góc nhìn của người bản địa. Thời gian tới, Công ty giữ vững phương châm chất lượng là danh dự và nỗ lực đưa ra những sản phẩm phù hợp đáp ứng nhu cầu của khách hàng”.

Nguyễn Lê

https://vnexpress.net/

Giá vé tàu cao tốc chạy giữa Hà Tiên và Phú Quốc

Hiện nay, có 02 hãng tàu cao tốc đang hằng ngày chạy qua lại giữa Hà Tiên và Phú Quốc của tỉnh Kiên Giang, giá vé tàu cao tốc tuyến này được đánh giá tương đối phù hợp với mọi đối tượng khách hàng.

Với khoảng cách từ Hà Tiên và Phú Quốc là 45km, nên việc đi lại giữa hai thành phố này khá thuận lợi. Hiện tại, Superdong và Phú Quốc Express là 02 hãng đang có đội tàu cao tốc hiện đại, dịch vụ 5 sao hằng ngày hoạt động.

Giá vé tàu cao tốc Phú Quốc Express Hà Tiên – Phú Quốc

  • Giá vé VIP: 350,000 VND/lượt
  • Giá vé ECO: 250,000 VND/lượt
  • Giá vé Người cao tuổi/Trẻ em: 200,000 VND/lượt
Tàu cao tốc Phú Quốc Express 6

Phú Quốc Express với đội tàu cao tốc với đội tàu cao tốc hai thân tiên tiến nhất thế giới được thiết kế theo tiêu chuẩn châu Âu, các tàu được trang bị máy RoII- Royce MTU 16V2000M70 đời mới nhất, vỏ tàu được làm bằng hợp kim nhôm của Ý, cùng với hệ thống camera an ninh đảm bảo an toàn cho gần 300 hành khách khi di chuyển với tốc độ tối đa lên tới 30 hải lý/giờ.

Phú Quốc Express 9 tại Bến tàu khách Hà Tiên

Giá vé tàu cao tốc Superdong Hà Tiên và Phú Quốc

  • Người lớn: 230.000VND
  • Trẻ em: 160.000VND
  • Người cao tuổi: 195.000VND
  • Người khuyết tật: 155.000VND
Tàu cao tốc Superdong IX

Superdong đã đưa vào hoạt động tuyến Hà Tiên – Phú Quốc từ năm 2011 bên cạnh tuyến khởi hành từ Rạch Giá. Tuyến trình này là cầu nối giúp du khách và đặc biệt người dân tại khu vực Tây Nam Bộ di chuyển đến Phú Quốc một cách dễ dàng và nhanh chóng hơn. Đội tàu cao tốc với 4 tàu thường hoạt động tuyến này gồm: Supperdong VI-VII-VIII-IX, tàu có tải trọng 275 hành khách với tốc độ tối đa 26 – 28 hải lý/giờ. Thời gian chạy tàu cao tốc Hà Tiên – Phú Quốc của Superdong khoảng 1 giờ 45 phút.

Phà cao tốc Superdong Hà Tiên và Phú Quốc

Giá vé dành cho khách người lớn là 185.000đ/ lượt, người cao tuổi là 155.000đ/ lượt, người khuyết tật là 135.000đ/ lượt và trẻ em là 125.000đ/ lượt. Đối với các phương tiện giá vé sẽ từ 80.000 – 10.000.000đ tuỳ theo loại xe và tải trọng.

Di chuyển bằng phà cũng rất thuận lợi. Nếu bạn muốn di chuyển từ Hà Tiên đi Phú Quốc mà có kèm theo phương tiện xe máy, ô tô hay xe tải thì đây là lựa chọn thích hợp nhất vì phà Superdong có thể chở theo các phương tiện vận chuyển kể trên.

Phà Superdong PII

Hiện Superdong có 02 phà P1 và P2 với lịch trình 02 chuyến mỗi ngày khởi hành từ Hà Tiên đến Phú Quốc lúc 04h15 và 16h45 và từ Phú Quốc về Hà Tiên lúc 05h30 và 10h30. Với sức chứa 229 khách, 150 xe máy, 40 xe ô tô hoặc 25 xe ô tô 7 chỗ hoặc 11 xe tảu 13 tấn và nhiều hàng hoá khác. Phà được trang bị hệ thống máy lạnh tự động, ghế ngồi rộng và có độ ngã ra sau phù hợp, tivi, nhà vệ sinh, và hệ thống cứu sinh an toàn & hiện đại nhất. Điểm đặc biệt ở phà Superdong là hệ thống hành lang ngắm cảnh vô cùng thú vị cho những hành khách thích ngắm cảnh biển với lộ trình 2 giờ 50 phút mỗi lượt.

 

Địa danh Sông Đốc Cà Mau

Sông Ông Đốc Cà Mau bắt nguồn từ ngã ba Cái Tàu – Sông Trẹm chảy về hướng Tây ngang qua nhiều làng xóm đã được định cư lâu đời: Xóm Sở, Cán Dù, Nổng Kè, Ông Tự, Tham Trơi… và đổ ra cửa Ông Đốc ở phía Vịnh Thái Lan. Hai bên hữu ngạn và tả ngạn có nhiều sông rạch nhỏ: rạch Cái Tàu, Rạch Giếng, Rạch Cui, Rạch Ráng, Rạch Vọp…

Dòng sông này trước kia còn có tên là Khoa Giang, nơi đây đã chứng kiến biết bao sự kiện lịch sử của vùng đất Cà Mau từ thời kỳ đầu khai phá đến hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ của nhân dân ta.

Tên gọi sông Ông Đốc xuất phát từ truyền thuyết, trong thời gian bị quân Tân Sơn truy đuổi, Nguyễn Ánh cùng đoàn tùy tùng chạy về phương Nam, đã đến nhiều nơi trên đất Cà Mau. Một hôm chạy trốn vào xóm Cái Tàu (nay thuộc xã Khánh An), rồi dự định theo con sông này để ra hòn Thổ Chu (nằm ngoài Vịnh Thái Lan) sang nước Xiêm La xin cầu viện. Không ngờ, đoàn thuyền vừa đi khỏi vàm Rạch Cui một quãng thì quân Tây Sơn đuổi tới.

Trong lúc ngàn cân treo sợi tóc, Đô Đốc Thủy binh Nguyễn Văn Vàng ở trong đoàn tùy tùng bèn tâu với vua xin cởi hoàng bào cho ông mặc để ở lại cản trở và đánh lạc hướng quân giặc. Nhờ vậy, Nguyễn Ánh thoát lên bờ và trốn lên rừng Khánh Bình. Còn Đô Đốc Vàng thì bị quân Tây Sơn giết chết, thây chìm xuống sông sâu. Quân Tây Sơn tưởng rằng đã giết được Nguyễn Ánh nên không truy đuổi nữa. Nguyễn Ánh nhờ vậy mới thoát thân, liền thay đổi lộ trình, quay trở lại rạch Ông Tự (thuộc xã Phong Lạc), rồi hành quân qua ngọn rạch Cái Rắn và đóng quân tại nơi đây để củng cố lực lượng tìm đường thoát thân. Ngày nay ở vùng Cái Rắn còn lưu lại di tích một nền trại lính và một cái ao lịch sử, dân địa phương gọi là Ao Vua.

Cảm phục trước sự hy sinh cứu chúa của Đô Đốc Vàng, người dân ở đây gọi con sông này là sông Đốc Vàng để tưởng nhớ vị Đô Đốc Thủy binh đã tận trung. Dần dần, cái tên gọi sông Ông Đốc trở nên quen thuộc với người Cà Mau, có khi dân gian gọi tắt thành Sông Đốc.

Năm 1954, dòng sông Ông Đốc lại chứng kiến cuộc chia ly lịch sử của đồng bào, cán bộ, chiến sĩ là con em Cà Mau và Nam Bộ tập kết ra miền Bắc. Sau khi Hiệp định Geneva được ký kết, đất nước ta tạm thời bị chia cắt làm hai miền, cửa sông Ông Đốc là một trong những điểm tập kết lớn của miền Nam. Và trong những chuyến tàu cuối cùng, người ta thấy đồng chí Lê Duẩn cùng với đồng chí Lê Đức Thọ lên tàu đi tập kết.

Ít ai biết rằng, đồng chí Lê Duẩn bước chân lên tàu chỉ để đánh lạc hướng quân thù. Sau khi những chuyến tàu tập kết rời bến Sông Đốc, đồng chí Lê Duẩn đã được bí mật đưa trở lại để lãnh đạo Cách mạng miền Nam trong những năm giai đoạn đầu kháng chiến chống Mỹ.

Địa danh Sông Đốc Cà Mi còn được dùng để đặt cho chợ Sông Đốc, thị trấn Sông Đốc (thị trấn thuộc huyện Trần Văn Thời). Nơi đây tập trung đông dân cư, buôn bán sầm uất với nhiều ngành nghề kinh doanh đặc thù của một thị trấn ven biển, với những phong tục tập quán, thói quen sinh hoạt, tín ngưỡng dân gian tạo nên một không gian văn hóa rất riêng của miền biển.

Đặc biệt, ở đây còn có Lăng thờ Cá Ông “Nam Hải Đại Tướng Quân” ở khóm 2, thị trấn Sông Đốc. Vào các ngày 14, 15, 16 tháng 2 âm lịch hằng năm, nơi đây diễn ra Lễ hội Nghinh Ông, là lễ hội dân gian lớn nhất Cà Mau, thu hút hàng chục ngàn người dân trong tỉnh và các vùng lân cận đến tham dự. Kể cả những ngư phủ từ các tỉnh ven biển miền Trung và Nam Bộ cũng tìm đến cúng viếng, cầu cho mưa thuận gió hòa, trời yên biển lặng.

Chuột Nhắt

Bến phà Thạnh Thới Rạch Giá – Phú Quốc

Bến phà Thạnh Thới Rạch Giá – Phú Quốc có địa chỉ bên trong Cảng tàu Rạch Giá, Thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang. Đây là một trong những tuyến phà cao tốc trọng điểm của Thạnh Thới vận chuyển hành khách, hàng hóa, phương tiện vận tải… ra đảo Phú Quốc.

Thời gian làm việc: 5:00 sáng – 20:00 mỗi ngày

Điện thoại liên hệ: 02973.899.969 – 02973.898.886 – 02973.898.866

Phà Rạch Giá – Phú Quốc

Phà cao tốc mới di chuyển từ TP Rạch Giá ra đảo Phú Quốc có thể chở được xe ô tô. Phà có sức chứa 350 hành khách và 20 xe ô tô cùng với hơn 150 xe gắn máy.

  • Đặc điểm của phà cao tốc hai thân là tính ổn định cao ít bị ảnh hưởng bởi sóng gió vì thế hành khách sẽ không bị say sóng. Độ an toàn cao hơn so với các mẫu tàu một thân.
  • Phà cao tốc được thiết kế đóng mới xuất xưởng tháng 6/2018 theo tiêu chuẩn của Australia Úc với kiểu dáng hiện đại đẹp rộng rãi và rất thoải mái cho quý khách có thể đi tới đi lui xung quanh phà.
  • Tốc độ tối đa của phà 24 hải lý/h tốc độ khai thác hành trình 20 hải lý/h dự kiến thời gian di chuyển từ Rạch Giá đi Phú Quốc là 3 giờ.
  • Nội thất bên trong toàn bộ bọc da sang trọng theo tiêu chuẩn 5 sao ghế ngồi bọc da thoải mái có các tiện ích cá nhân như khe cắm sạc điện thoại, khay để ly và hướng dẫn an toàn dành riêng cho mỗi hành khách. Đặc biệt khoang hành khách V.I.P với mỗi ghế có trang bị màn hình giải trí riêng với nhiều nội dung đa dạng phong phú. Không gian khoang hành khách V.I.P rất phù hợp cho những đoàn khách gia đình nhỏ và lớn muốn có không gian riêng biệt.
Bến phà Thạnh Thới Rạch Giá – Phú Quốc

Giá vé phà Rạch Giá Phú Quốc

  • Trẻ em: 250.000 đồng/lượt
  • Hành khách: 280.000 đồng/lượt
  • Xe gắn máy: 140.000 đồng/lượt
  • Ô tô 5 chỗ: 1.250.000 đồng/lượt
  • Ô tô 6-8 chỗ: 1.350.000VND/lượt
  • Ô tô 6-9 chỗ giường nằm: 2.000.000VND/lượt
  • Ô tô 9-16 chỗ: 2.000.000VND/lượt
  • Ô tô 17-20 chỗ: 3.500.000VND/lượt
  • Ô tô trên 21 chỗ: 5.000.000VND/lượt

HÀNH KHÁCH/XE VÉ MUA RỒI MIỄN ĐỔI HOẶC TRẢ LẠI

Bảng giá vé phà Thạnh Thới Rạch Giá – Phú Quốc
Phà Thạnh Thới bên trong bến tàu cao tốc Rạch Giá

Thông tin liên hệ đặt phà Thạnh Thới Rạch Giá Phú Quốc

Bến phà Thạnh Thới Rạch Giá – Phú Quốc

Cảng tàu Rạch Giá

Điện thoại: 02973.96.66.96 | 02973.966.766 | 1900-966-908

HOTLINE: 1900 966 908

Bến phà Thạnh Thới

Website: http://www.thanhthoi.vn/